5 bệnh truyền nhiễm hàng đầu thế giới năm 2022

Thế giới đang phải đối mặt với nhiều thách thức về sức khỏe, từ sự bùng phát các bệnh dịch có thể phòng ngừa bằng vắc-xin như sởi và bạch hầu, sự gia tăng vi sinh vật kháng thuốc, tăng tỷ lệ béo phì và ít vận động thể chất tới những tác động lên sức khỏe do ô nhiễm môi trường, biến đổi khí hậu và khủng hoảng nhân đạo.

Show

Để giải quyết những thách thức này và các mối đe dọa khác, năm 2019 là năm bắt đầu Kế hoạch Chiến lược 5-năm của Tổ chức Y tế Thế giới – Chương trình làm việc chung lần thứ 13. Kế hoạch chiến lược này sẽ tập trung vào ba mục tiêu 1 tỷ ở cả 3 chỉ số: đảm bảo thêm 1 tỷ người đươc hưởng lợi từ bao phủ sức khỏe toàn dân, thêm 1 tỷ người được bảo vệ khỏi những tình huống y tế khẩn cấp và thêm 1 tỷ người dân đạt được trạng thái sức khỏe về tinh thần và thể chất tốt hơn. Để đạt được mục tiêu này, cần phải giải quyết những mối đe dọa về sức khỏe từ nhiều góc độ khác nhau.

Dưới đây là 10 vấn đề mà Tổ chức Y tế Thế giới và các đối tác trong lĩnh vực y tế cần quan tâm trong năm 2019.

Ô nhiễm không khí và biến đổi khí hậu

5 bệnh truyền nhiễm hàng đầu thế giới năm 2022

Sự thật là 9 trên 10 người phải hít thở không khí bị ô nhiễm mỗi ngày. Trong năm 2019, Tổ chức Y tế Thế giới đánh giá ô nhiêm không khí là rủi ro sức khỏe nghiêm trọng nhất do môi trường gây ra. Các chất gây ô nhiễm vi mô/siêu mịn trong không khí có thể xâm nhập vào hệ hô hấp và hệ tuần hoàn, gây tổn thương phổi, tim và não, là nguyên nhân gây ra 7 triệu ca tử vong sớm hàng năm do mắc các bệnh lý như ung thư, đột quỵ, tim và phổi. Khoảng 90% số ca tử vong này xảy ra ở các nước có thu nhập thấp và trung bình, nơi có tỷ lệ phát thải khí cao từ các ngành công nghiệp, giao thông, nông nghiệp và việc sử dụng nhiều bếp lò cũng như nhiên liệu bẩn tại gia đình.

Nguyên nhân ban đầu gây ô nhiễm không khí (từ việc đốt nhiên liệu hóa thạch) cũng chính là tác nhân chủ đạo gây ra biến đổi khí hậu, đe dọa tới sức khỏe con người theo nhiều cách khác nhau. Theo ước tính, từ năm 2030 tới 2050, biến đổi khí hậu sẽ gây ra thêm 250.000 trường hợp tử vong mỗi năm do bị suy dinh dưỡng, sốt rét, tiêu chảy và căng thẳng do nhiệt.

Tháng 10 năm 2018, Tổ chức Y tế Thế giới tổ chức Hội nghị toàn cầu về Ô nhiễm không khí và Sức khỏe lần đầu tiên tại Geneva. Các quốc gia và các tổ chức đã đưa ra hơn 70 cam kết nhằm cải thiện chất lượng không khí. Năm nay, Hội nghị thượng đỉnh của Liên Hiệp Quốc về Biến đổi khí hậu sẽ được tổ chức vào tháng 9 với mục tiêu đẩy mạnh hành động và hoài bão về biến đổi khí hậu toàn cầu. Cho dù chúng ta có đạt được các mục tiêu theo cam kết trong Thỏa thuận Paris thì trái đất vẫn sẽ nóng thêm hơn 3°C trong thế kỷ này.

Các bệnh không lây nhiễm

5 bệnh truyền nhiễm hàng đầu thế giới năm 2022

Các bệnh không lây nhiễm như đái tháo đường, ung thư và tim mạch là nguyên nhân gây ra  trên 70% số ca tử vong trên thế giới, tương đương 41 triệu người, trong đó có tới 15 triệu người chết sớm trong độ tuổi từ 30 tới 69.

Hơn 85% số ca tử vong sớm xảy ra ở các nước có thu nhập thấp và trung bình. Năm yếu tố nguy cơ chính gây nên sự gia tăng các bệnh lý này gồm: hút thuốc lá, ít hoạt động thể lực, uống rượu bia ở mức có hại, chế độ ăn không lành mạnh và ô nhiễm không khí. Các yếu tố nguy cơ này cũng làm trầm trọng thêm các vấn đề sức khỏe tâm thần, vốn có thể  có mầm mống khi còn trẻ tuổi: Một nửa trong số bệnh nhân mắc bệnh lý tâm thần khởi phát trước tuổi 14, tuy vậy phần lớn các ca bệnh này đều không được phát hiện hoặc điều trị. Tự sát là nguyên nhân thứ hai gây tử vong ở lứa tuổi 15 – 19.

Trong rất nhiều vấn đề, năm nay Tổ chức Y tế Thế giới sẽ hỗ trợ  chính phủ các nước đạt mục tiêu toàn cầu về giảm 15 % tỷ lệ người dân ít hoạt động thể lực vào năm 2030 thông qua các hành động như triển khai bộ công cụ chính sách ACTIVE (tích cực/chủ động) để khuyến khích nhiều người dân vận động hơn mỗi ngày.

Đại dịch cúm toàn cầu

5 bệnh truyền nhiễm hàng đầu thế giới năm 2022

Thế giới sẽ đối mặt với một đại dịch cúm khác – điều duy nhất chúng ta chưa biết đó là khi nào đại dịch xảy ra và mức độ nghiêm trọng của nó. Phòng ngừa toàn cầu chỉ có hiệu quả khi có sự kết nối của hệ thống chuẩn bị và ứng phó với các tình trạng y tế khẩn cấp giữa các quốc gia.
Tổ chức Y tế Thế giới đang liên tục giám sát sự lưu hành của virus cúm nhằm phát hiện các chủng gây đại dịch tiềm ẩn: 153 viện nghiên cứu tại 114 quốc gia đã tham gia vào hệ thống giám sát và ứng phó toàn cầu.

Hàng năm, Tổ chức Y tế Thế giới đưa ra khuyến cáo về những chủng cần đưa vào để sản xuất vắc-xin cúm nhằm bảo vệ người dân trước cúm mùa. Trường hợp một chủng cúm mới có tiềm năng gây đại dịch, Tổ chức Y tế Thế giới sẽ thiết lập quan hệ đối tác đặc biệt với các đối tác chính nhằm đảm bảo người dân được tiếp cận kịp thời và công bằng các dịch vụ chẩn đoán, vắc-xin và thuốc điều trị kháng vi-rút, đặc biệt ở các nước đang phát triển.

Khu vực sống mong manh và dễ bị tổn thương

5 bệnh truyền nhiễm hàng đầu thế giới năm 2022

Hơn 1,6 tỷ người (22% dân số toàn cầu) sống ở những khu vực có khủng hoảng kéo dài (với vô vàn thách thức như hạn hán, nạn đói, xung đột và di tán) cùng các dịch vụ y tế yếu kém khiến họ không được tiếp cận những dịch vụ chăm sóc y tế cơ bản.

Môi trường sống mong manh có ở hầu hết các khu vực trên thế giới – nơi hơn một nửa các chỉ tiêu chính trong các mục tiêu phát triển bền vững của Liên Hiệp Quốc, bao gồm sức khỏe bà mẹ và trẻ em, vẫn chưa được đáp ứng.

Tổ chức Y tế Thế giới sẽ tiếp tục hoạt động tại các quốc gia này nhằm tăng cường hệ thống y tế để chuẩn bị tốt hơn cho việc phát hiện và ứng phó trước dịch bệnh, cũng như khả năng cung cấp dịch vụ y tế chất lượng cao, trong đó có tiêm chủng.

Kháng kháng sinh

5 bệnh truyền nhiễm hàng đầu thế giới năm 2022

Sự phát triển của kháng sinh, thuốc kháng virus và thuốc chống sốt rét là một số thành tựu lớn nhất của nền y học hiện đại. Tuy nhiên, thời gian còn hiệu lực ở các loại thuốc này đang mất dần. Kháng kháng sinh - khả năng vi khuẩn, ký sinh trùng, vi rút và nấm kháng lại các loại thuốc này – đang đe dọa đẩy con người trở lại thời kì mà chúng ta không thể dễ dàng điều trị các bệnh nhiễm khuẩn như viêm phổi, lao, lậu và salmonella. Việc không thể ngăn ngừa nhiễm khuẩn có thể phải đánh đối bằng phẫu thuật và thủ thuật như hóa trị.

Kháng thuốc chống lao là một rào cản lớn trong cuộc chiến chống lại căn bệnh gây ra cho khoảng 10 triệu người, và 1,6 triệu ca tử vong mỗi năm. Trong năm 2017, khoảng 600.000 ca lao kháng rifampicin (thuốc điều trị lao hàng một hiệu quả nhất) - và 82% trong số đó là kháng đa thuốc.

Việc lạm dụng kháng sinh trong điều trị bệnh ở người và động vật, đặc biệt là kháng sinh sử dụng trong sản xuất thực phẩm và trong môi trường là nguyên nhân gây ra tình trạng kháng thuốc. Tổ chức Y tế Thế giới đang nỗ lực phối hợp với các ngành này nhằm triển khai kế hoạch hành động toàn cầu về phòng chống kháng kháng sinh thông qua việc nâng cao nhận thức và kiến thức, giảm nhiễm khuẩn và khuyến khích sử dụng kháng sinh một cách cẩn trọng.

Ebola và các tác nhân gây bệnh nguy hiểm khác

5 bệnh truyền nhiễm hàng đầu thế giới năm 2022

Năm 2018, đã có hai đợt bùng phát dịch Ebola ghi nhận ở Cộng hòa Dân chủ Công-gô. Cả hai đợt dịch này đã lan rộng sang các thành phố với hơn 1 triệu dân. Một trong số các tỉnh bị ảnh hưởng cũng là nơi đang xảy ra xung đột.

Điều này cho thấy bối cảnh nơi một bệnh do tác nhân  nguy hiểm như Ebola bùng phát thành dịch có ý nghĩa vô cùng quan trọng – đáp ứng với các vụ dịch diễn ra ở vùng nông thôn trước đây không phải lúc nào cũng áp dụng được như khi dịch xảy ra ở các khu vực thành thị đông dân cư hoặc những nơi đang xảy ra xung đột.

Tại hội nghị với chủ đề Chủ động Ứng phó trước các Tình huống Y tế Công cộng khẩn cấp được tổ chức vào tháng 12 vừa qua, đại biểu từ các lĩnh vực y tế công cộng, thú y, giao thông và du lịch đã tập trung thảo luận về các thách thức ngày càng gia tăng trong việc đáp ứng dịch và các sự kiện y tế khẩn cấp xảy ra tại khu vực đô thị. Hội nghị cũng kêu gọi Tổ chức Y tế Thế giới và các đối tác lấy năm 2019 là “Năm hành động chủ động ứng phó với các tình huống y tế khẩn cấp”.

Chiến lược Nghiên cứu và Phát triển (R&D) của Tổ chức Y tế Thế giới đã xác định các bệnh và các tác nhân có khả năng gây ra tình trạng y tế công cộng khẩn cấp nhưng hiện tại còn thiếu phương pháp điều trị hiệu quả và vắc-xin. Danh sách các bệnh dịch được ưu tiên về nghiên cứu và phát triển bao gồm Ebola, một số bệnh sốt xuất huyết khác, Zika, Nipah, Corona vi rút gây hội chứng hô hấp vùng Trung Đông (MERS-CoV) và Hội chứng hô hấp cấp tính nặng (SARS) và bệnh X - một bệnh chưa biết được tác nhân gây bệnh nhưng có thể gây ra bùng phát dịch nghiêm trọng do đó cần phải chủ động ứng phó.

Công tác chăm sóc sức khỏe ban đầu yếu kém

5 bệnh truyền nhiễm hàng đầu thế giới năm 2022

Chăm sóc sức khỏe ban đầu thường là nơi đầu tiên người dân tiếp xúc với hệ thống y tế. Lý tưởng nhất là công tác chăm sóc sức khỏe ban đầu cung cấp dịch vụ chăm sóc toàn diện, chi phí hợp lý và hướng tới cộng đồng trong suốt cuộc đời.

Chăm sóc sức khỏe ban đầu có thể đáp ứng phần lớn nhu cầu y tế trong suốt cuộc đời của một người. Cần phải có hệ thống y tế với các dịch vụ chăm sóc sức khỏe ban đầu tốt nhằm đạt được mục tiêu bao phủ sức khỏe toàn dân.

Tuy nhiên, trên thực tế, nhiều quốc gia vẫn chưa có đủ cơ sở chăm sóc sức khoẻ ban đầu. Vấn đề này có thể là do các nước có thu nhập thấp và trung bình không có đủ nguồn lực nhưng cũng có thể các nước này chỉ tập trung vào từng chương trình phòng chống bệnh riêng trong suốt nhiều thập kỉ. Tháng 10 năm 2018,Tổ chức Y tế Thế giới đồng tổ chức Hội nghị toàn cầu tại Astana, Kazakhstan. Tại đây tất cả các quốc gia đã cam kết làm mới lại những cam kết đã đưa ra về công tác chăm sóc sức khỏe ban đầu tại Tuyên bố Alma-Ata năm 1978.

Năm 2019, Tổ chức Y tế Thế giới sẽ tiếp tục phối hợp với các đối tác nhằm khôi phục lại và tăng cường công tác chăm sóc sức khoẻ ban đầu ở các quốc gia, đồng thời theo dõi việc thực hiện các cam kết cụ thể trong Tuyên bố Astana.

Sự e ngại trong tiêm phòng vắc-xin

5 bệnh truyền nhiễm hàng đầu thế giới năm 2022

E ngại trong tiêm phòng vắc-xin – lưỡng lự hoặc từ chối tiêm phòng mặc dù có sẵn vắc-xin - đe dọa làm đảo ngược tiến độ phòng chống các bệnh có thể phòng ngừa được bằng vắc xin. Tiêm chủng là một trong những phương pháp có chi phí-hiệu quả cao nhất trong phòng bệnh. Tiêm phòng vắc-xin giúp ngăn ngừa 2 – 3 triệu trường hợp tử vong mỗi năm, và sẽ ngăn ngừa được thêm 1.5 triệu trường hợp tử vong nếu tỷ lệ bao phủ tiêm phòng vắc-xin toàn cầu được cải thiện.


Ví dụ, tỷ lệ mắc sởi đã tăng 30% trên toàn cầu. Nguyên nhân của sự gia tăng này rất phức tạp, và không phải tất cả các trường hợp mắc là do e ngại tiêm phòng. Tuy nhiên, một số quốc gia đã gần chạm tới mục tiêu loại bỏ hoàn toàn sởi lại tái phát dịch.

Lý do tại sao người dân không tiêm phòng vắc-xin rất phức tạp. Nhóm tư vấn về vắc-xin của Tổ chức Y tế Thế giới xác định sự tự mãn (chủ quan), bất tiện trong việc tiếp cận vắc-xin và thiếu sự tin tưởng là những lý do chính dẫn đến sự e ngại. Nhân viên y tế, đặc biệt là những người làm việc tại cộng đồng, vẫn được coi là những người cho lời khuyên đáng tin cậy nhất và có ảnh hưởng nhất tới quyết định tiêm chủng của người dân, do đó họ cần được hỗ trợ để có thể cung cấp thông tin đáng tin cậy và chính xác về vắc-xin cho người dân.

Năm 2019, WHO sẽ đẩy mạnh hoạt động loại trừ ung thư cổ tử cung trên toàn cầu bằng cách tăng tỷ lệ bao phủ tiêm phòng vắc-xin HPV, cùng với các biện pháp can thiệp khác. Năm 2019 cũng có thể là năm không còn sự lây lan của vi-rút bại liệt hoang dã tại Afghanistan và Pakistan. Năm 2018, hai quốc gia này đã ghi nhận chưa tới 30 trường hợp mắc bại liệt. Tổ chức Y tế Thế giới và các đối tác cam kết hỗ trợ các nước này tiêm phòng vắc-xin cho mọi trẻ em ở đây với mục tiêu thanh toán hoàn toàn căn bệnh này.

Sốt xuất huyết

5 bệnh truyền nhiễm hàng đầu thế giới năm 2022

Sốt xuất huyết – bệnh do muỗi đốt gây ra các triệu chứng giống như cúm, nhưng có thể gây chết người và gây tử vong ở 20% số người mắc xuất huyết ở mức độ nghiêm trọng – là mối đe dọa ngày càng tăng trong nhiều thập kỷ.

Xuất huyết mắc với số lượng lớn xảy ra vào mùa mưa ở các quốc gia như Bangladesh và Ấn Độ. Ngày nay, mùa bệnh dịch đang có xu hướng kéo dài tại các quốc gia này (năm 2018, Bangladesh ghi nhận số ca tử vong cao nhất trong gần hai thập kỷ), và sốt xuất huyết cũng đang lan sang các nước có khi hậu ít nhiệt đới hoặc ôn đới hơn như Nepal, những quốc gia chưa từng ghi nhận căn bệnh này.

Ước tính 40% dân số trên thế giới có nguy cơ mắc sốt xuất huyết, và có khoảng 390 triệu ca mắc mỗi năm. Chiến lược kiểm soát sốt xuất huyết của Tổ chức Y tế Thế giới đặt ra mục tiêu giảm 50% số ca tử vong vào năm 2020.

HIV

5 bệnh truyền nhiễm hàng đầu thế giới năm 2022

Việc triển khai các hoạt động phòng chống HIV đã đạt được những thành quả rất to lớn như xét nghiệm cho người dân,  và cung cấp thuốc kháng virus cho họ (hiện có 22 triệu người nhiễm HIV đang được điều trị), và cung cấp các biện pháp dự phòng như điều trị dự phòng trước phơi nhiễm (PrEP, tức là dùng thuốc ARV khi có nguy cơ nhiễm HIV để phòng bệnh).

Tuy nhiên, dịch HIV vẫn tiếp tục hoành hành với gần một triệu người tử vong mỗi năm. Ngay từ khi có dịch,hơn 75 triệu người bị nhiễm HIV, và khoảng 35 triệu người đã tử vong. Ngày nay, có khoảng 37 triệu người sống chung với HIV trên toàn cầu. Việc tiếp cận những người như người bán dâm, phạm nhân, nam quan hệ tình dục đồng giới hoặc  người chuyển giới là một thách thức rất lớn. Các nhóm người này thường không tiếp cận với các dịch vụ y tế. Nhóm trẻ em gái và phụ nữ (độ tuổi 15-24) ngày càng bị ảnh hưởng bởi HIV. Họ là những đối tượng có nguy cơ đặc biệt cao và chiếm ¼ số ca nhiễm HIV ở khu vực cận sa mạc Sahara Châu Phi mặc dù nhóm này chỉ chiếm 10% dân số.

Năm nay, WHO sẽ hợp tác với các quốc gia để hỗ trợ việc triển khai tự xét nghiệm HIV để nhiều người nhiễm HIV biết được tình trạng HIV của mình và được điều trị (hoặc có các biện pháp phòng ngừa trong trường hợp kết quả xét nghiệm âm tính). Tổ chức Y tế Thế giới sẽ phối hợp với Tổ chức Lao động Quốc tế  để thực hiện hoạt động theo Hướng dẫn mới được công bố vào tháng 12 năm 2018 là hỗ trợ các doanh nghiệp và các tổ chức để đưa các dịch vụ tự xét nghiệm HIV tới nơi làm việc.

5 bệnh truyền nhiễm hàng đầu thế giới năm 2022

Giới thiệu

Các bệnh truyền nhiễm chịu trách nhiệm cho gánh nặng lớn nhất toàn cầu về cái chết và khuyết tật sớm cho đến cuối thế kỷ XX, khi sự khác biệt đó được truyền cho các bệnh không truyền thông. Trong các thế kỷ trước, đại dịch toàn cầu của các bệnh truyền nhiễm, như bệnh đậu mùa, dịch tả và cúm, định kỳ đe dọa sự sống sót của toàn bộ quần thể. Ít nhất là sớm nhất là vào cuối những năm 1800, điều kiện sống được cải thiện (chẳng hạn như vệ sinh tốt hơn và nguồn cung cấp nước), đặc biệt là ở các nước thu nhập cao (HICS), bắt đầu giảm gánh nặng bệnh truyền nhiễm.

Vào giữa thế kỷ XX, vắc-xin an toàn, hiệu quả và giá cả phải chăng và sự gia tăng của kháng sinh đã làm giảm thêm các bệnh truyền nhiễm trong HICS. Mãi đến nửa sau của thế kỷ XX, những nỗ lực quy mô lớn mới bắt đầu kiểm soát các bệnh truyền nhiễm tốt hơn ở các nước thu nhập thấp và trung bình (LMIC), nơi gánh nặng bệnh truyền nhiễm là lớn nhất và rất đa dạng. Những nỗ lực này bao gồm một cam kết toàn cầu để miễn dịch cho trẻ em thế giới chống lại các bệnh nhiễm trùng lớn mà vắc -xin có sẵn và các chiến dịch toàn cầu để kiểm soát bệnh sốt rét và bệnh tiêu chảy. Các quy định y tế quốc tế của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đại diện cho một thỏa thuận chính giữa 196 quốc gia để thực hiện các số liệu và các biện pháp để phát hiện và kiểm soát sự bùng phát của các bệnh truyền nhiễm và để ngăn chặn đại dịch (Hội đồng Y tế Thế giới 2005).

Tỷ lệ tử vong dưới năm người toàn cầu đã giảm gần hai phần ba (từ 14 phần trăm xuống 5 %) từ năm 1970 đến 2010 (Norheim và những người khác 2015). Năm 1980, bệnh đậu mùa, chịu trách nhiệm cho 300 triệu 500 triệu người tử vong trong thế kỷ XX, đã được tuyên bố là căn bệnh đầu tiên bị loại bỏ khỏi hành tinh sau chiến dịch tiêm chủng toàn cầu do WHO dẫn đầu. Poliovirus hoang dã đã bị loại khỏi tất cả trừ ba quốc gia (Afghanistan, Nigeria và Pakistan) và hiện là trọng tâm của một chương trình diệt trừ lớn.

Sự suy giảm của các bệnh có thể ngăn ngừa được vắc-xin đã góp phần nhận ra khả năng sử dụng vắc-xin để ngăn ngừa các bệnh truyền nhiễm khác, bao gồm cả virus suy giảm miễn dịch ở người và một loạt các bệnh nhiệt đới bị bỏ quên (NTD). Viêm gan B và C làm tăng đáng kể nguy cơ tử vong do xơ gan và ung thư gan. Tác dụng của viêm gan virus là đáng kể. Thật vậy, một nghiên cứu quan trọng gần đây (Stanaway và những người khác 2015) đã phát hiện ra rằng viêm gan virus đã dẫn đến khoảng 0,9 triệu ca tử vong vào năm 1990 (bao gồm cả tử vong do viêm gan do xơ gan và ung thư gan). Hơn nữa, con số này đã tăng nhanh chóng đến mức ước tính 1,5 triệu ca tử vong trong năm 2013, mặc dù thực tế là viêm gan B là một bệnh có thể điều trị bằng vắc-xin và viêm gan B và C đều có thể điều trị được.

Nhiễm virus đại dịch mới nổi vẫn là mối đe dọa liên tục, nhiều người xâm nhập vào người dân từ tiếp xúc với động vật. Các bệnh nhiễm trùng gần đây nhất bao gồm SARS (hội chứng hô hấp cấp tính nghiêm trọng), MERS (hội chứng hô hấp ở Trung Đông) và virus Ebola và Zika (Madhav và những người khác 2018) cũng như nhiễm cúm và chikungunya. So với kháng sinh để điều trị nhiễm trùng do vi khuẩn, tương đối ít thuốc kháng vi -rút đã được phát triển để điều trị các bệnh nhiễm trùng virus mới nổi này. Do đó, can thiệp quan trọng nhất là phá vỡ chuỗi truyền. Sự gia tăng toàn cầu của vi khuẩn kháng kháng sinh bao gồm một số lượng nhỏ nhưng ngày càng tăng có khả năng kháng hầu hết hoặc về cơ bản tất cả các loại thuốc chống vi trùng có sẵn.

Tiến bộ ngoạn mục đã được thực hiện trong việc giảm tỷ lệ tử vong từ hầu hết các bệnh truyền nhiễm (Bảng 1.1). Ví dụ, ở các nước thu nhập thấp (LIC) từ năm 2000 đến 2010, số người tử vong trước 70 tuổi từ HIV/AIDS, bệnh lao và sốt rét đã giảm 46 %, 35 % và 36 % (Norheim và những người khác 2015). Tiến bộ nhanh cũng được báo cáo trong các nhóm thu nhập quốc gia khác. Tuy nhiên, Bảng 1.1 cũng cho thấy rằng tỷ lệ tử vong của năm 2010 vẫn tĩnh, khoảng 5,1 triệu người vẫn sẽ chết vào năm 2030 sau ba điều kiện này và từ các bệnh truyền nhiễm khác, nhiều trong số đó tập trung vào LMIC. Ngược lại, tỷ lệ tử vong trong HICS từ các điều kiện này (ngoại trừ HIV/AIDS) sẽ tương đối nhỏ, mặc dù đại dịch chính của các mầm bệnh khác không thể dự đoán được. Do đó, các bệnh truyền nhiễm sẽ vẫn là mối đe dọa lớn đối với loài người, đặc biệt là trong LMIC, đòi hỏi sự cảnh giác, giám sát và can thiệp mới của tất cả các loại.

Bảng 1.1

Dự kiến ​​tỷ lệ tử vong 2030 và xu hướng 10 năm cho các bệnh nhiễm trùng được lựa chọn, theo nhóm thu nhập quốc gia.

Phương pháp kiểm soát bệnh truyền nhiễm trong thế kỷ hai mươi mốt

Vắc -xin và phương pháp điều trị chữa bệnh cho một số bệnh truyền nhiễm chính đã tồn tại trong nhiều thập kỷ. Nhiều người trong số họ tương đối rẻ tiền và hiệu quả về chi phí cao, nhưng nhiều người bị sử dụng vì chi phí và thiếu quyền truy cập do các hệ thống chăm sóc sức khỏe hoạt động kém. Các loại thuốc và vắc -xin mới sẽ tiếp tục là trụ cột trong việc ngăn ngừa và điều trị nhiễm trùng, nhưng việc cung cấp các can thiệp như vậy sẽ rất quan trọng để giảm bớt gánh nặng nhiễm trùng.

Một mục tiêu cuối cùng cho các bệnh nhiễm trùng được lựa chọn là loại bỏ. Cho đến nay, chỉ có hai căn bệnh, cô lập học ở người và Rinderpest ở gia súc và các động vật nhai lại khác đã bị xóa sổ. Việc loại bỏ bệnh bại liệt, ngáp và nhiễm sâu Guinea đang được theo đuổi. Đây là một mục tiêu xa hơn nhưng vẫn có thể cho bệnh sốt rét (Shretta và những người khác 2017). Một số ít các bệnh nhiễm trùng khác như bệnh sởi, quai bị, rubella, bệnh giun đũa bạch huyết và bệnh cysticercosis là ứng cử viên để loại bỏ vì đặc điểm bệnh hoặc phương tiện có sẵn để kiểm soát chúng (CDC 1993). Những bệnh truyền nhiễm tồn tại đòi hỏi phải tiếp tục nỗ lực để phát triển các loại thuốc và vắc -xin mới để điều trị và phòng ngừa cũng như các chiến lược cho phép các phương pháp điều trị như vậy được sử dụng hiệu quả nhất trên toàn cầu. Mặc dù phát triển các loại thuốc mới để chống lại các bệnh truyền nhiễm, kháng kháng sinh đang đe dọa loại bỏ nhiều công cụ trong vũ khí hiện tại của chúng tôi.

Kiểm soát nhiễm trùng: Nhắm mục tiêu và tích hợp các dịch vụ chuyên dụng

Một cách tiếp cận, các cài đặt và dân số nhắm mục tiêu với tỷ lệ truyền cao nhất được sử dụng để cải thiện kiểm soát HIV/AIDS. Sự xuất hiện liên tục của đại dịch mới, như Ebola, sẽ được giải quyết với các phương pháp được nhắm mục tiêu tương tự. Tuy nhiên, đối với các bệnh nhiễm trùng liên tục, phổ biến cao ở LMIC, TB, viêm gan, nhiễm trùng lây truyền qua đường tình dục (STI), sốt rét, bệnh thương hàn và các bệnh sốt khác mức độ chăm sóc bệnh viện cao nhất.

Tỷ lệ mắc bệnh đi kèm cao như bệnh lao và viêm gan virus ở những người bị suy giảm miễn dịch bị nhiễm HIV, các cuộc gọi tích hợp HIV, bệnh lao và chẩn đoán và điều trị viêm gan virus. Bệnh nhân được nhìn thấy trong các phòng khám STI và bạn tình của họ có nguy cơ tăng STI khác, chẳng hạn như nhiễm HIV. Do đó, việc tích hợp xét nghiệm HIV, chăm sóc và đánh giá các đối tác tình dục vào tất cả các cài đặt phòng khám STI cung cấp cơ hội để quản lý hiệu quả bộ nhiễm trùng này. Các quần thể được lựa chọn mà các dịch vụ chuyên dụng đã là tiêu chuẩn (như phụ nữ mang thai) có thể nhận được sự chú ý bổ sung. Điều này có thể bao gồm sàng lọc HIV và bệnh giang mai (xem Chương 6 của tập này, John-Stewart và những người khác 2017).

Tích hợp dịch vụ chăm sóc sức khỏe ở cấp độ này đòi hỏi lập kế hoạch chiến lược. Ví dụ, việc tích hợp chẩn đoán và quản lý HIV và bệnh lao phải được thực hiện theo cách an toàn: các phòng khám đông đúc có thời gian chờ đợi dài tạo ra một cơ hội hoàn hảo để lây truyền bệnh lao từ người mắc bệnh lao hoạt động đến bệnh nhân HIV bị ức chế miễn dịch. Các gói can thiệp cấp độ dân số tích hợp có thể tập trung không chỉ vào các can thiệp được tài trợ chủ yếu bởi ngành y tế, chẳng hạn như tiêm chủng và điều trị, mà còn vào các can thiệp liên quan đến ngành nông nghiệp hoặc cơ sở hạ tầng (và được tài trợ chủ yếu bởi các bộ Bộ Y tế), chẳng hạn như sau:

  • Cải thiện khả năng tiếp cận vệ sinh, nước sạch và vệ sinh.

  • Giảm tăng trưởng dân số và đông đúc.

  • Giảm tiếp xúc chặt chẽ hàng ngày với động vật.

  • Thay đổi môi trường duy trì các vectơ của mầm bệnh quan trọng.

Ưu tiên liên quan đến ngành liên quan là ngăn ngừa kháng kháng sinh thông qua sự phát triển, sẵn có và sử dụng chẩn đoán giá cả phải chăng để hướng dẫn sử dụng thuốc chống vi trùng thích hợp ở người, đồng thời thực thi các chính sách để ngăn chặn việc sử dụng thuốc chống vi trùng không điều trị như là chất kích thích tăng trưởng trong tình trạng chăn nuôi.

Tầm quan trọng của chẩn đoán phân biệt nhanh trong kiểm soát nhiễm trùng

Ngay cả đối với các bệnh truyền nhiễm cần có dịch vụ chuyên ngành, nhiều bệnh nhiễm trùng ban đầu sẽ được chẩn đoán hoặc nghi ngờ ở cấp độ chăm sóc chính hoặc bệnh viện cấp một và sau đó được chuyển đến bệnh viện cấp hai hoặc cấp ba. Nhiều bệnh truyền nhiễm được gây ra bởi các mầm bệnh có thể đe dọa đến tính mạng. Điều này làm cho chẩn đoán phân biệt dựa trên một phần trong đánh giá triệu chứng, biểu hiện lâm sàng, kiểm tra thể chất, lịch sử y tế, lịch sử phơi nhiễm, tuổi và giới tính, xét nghiệm trong phòng thí nghiệm có sẵn và điều trị bằng cách điều trị bằng cách kiểm soát nhiễm trùng dân số (Burnett và những người khác 2016 ).

Việc áp dụng rộng rãi các xét nghiệm nhanh chóng để chẩn đoán sốt rét là một ví dụ về chẩn đoán dễ sử dụng đã cải thiện đáng kể điều trị sốt rét ở nhiều nơi. Các xét nghiệm điểm chăm sóc nhanh có sẵn cho HIV, viêm gan C, cúm và giang mai nhưng vẫn đang được phát triển đối với một số bệnh nhiễm trùng khác. Ngoài ra, vi sinh thông thường đang được chuyển đổi bằng thử nghiệm phân tử, có thể có sẵn ngay cả trong LIC trong thập kỷ. Một loạt các ấn phẩm minh họa tác dụng đáng kể của đào tạo bệnh truyền nhiễm tích hợp đối với chẩn đoán (ở Uganda) và quản lý bệnh truyền nhiễm (Imani và những người khác 2015; Weaver và những người khác 2014)

Tập này tập trung vào các bệnh truyền nhiễm chính phổ biến ở LMIC, đặc biệt là ở người trưởng thành (xem Hộp 1.1). Không giống như hầu hết các bệnh nhiễm trùng nghiêm trọng chiếm ưu thế ở trẻ em, nhiều trong số này là những bệnh nhiễm trùng mãn tính lâu dài (bao gồm một số mắc phải khi còn nhỏ). Quan điểm này bao gồm một sự nhấn mạnh vào những gì đã thay đổi kể từ phiên bản đầu tiên của các ưu tiên kiểm soát dịch bệnh ở các nước đang phát triển vào năm 1993 (Hộp 1.2). Trước tiên, chúng tôi xem xét các can thiệp chính cho các bệnh truyền nhiễm ưu tiên, cụ thể là HIV/AIDS, STI khác, bệnh lao, sốt rét và các bệnh sốt khác, viêm gan và NTD. Sau đó chúng tôi giải quyết các vấn đề cắt ngang của kháng kháng sinh. Chúng tôi cung cấp các ước tính cập nhật về hiệu quả chi phí của các bộ can thiệp chính, nhận ra rằng có những khoảng trống kiến ​​thức lớn liên quan đến kinh tế của nhiều điều kiện trong LMIC. Chúng tôi kết luận bằng cách phác thảo các chiến lược trong tương lai có liên quan đến việc tiếp tục tiến triển chống lại các bệnh truyền nhiễm lớn này.

5 bệnh truyền nhiễm hàng đầu thế giới năm 2022

Hộp 1.1

Tập trung khối lượng: Kiểm soát bệnh truyền nhiễm.

5 bệnh truyền nhiễm hàng đầu thế giới năm 2022

Hộp 1.2

Nhận xét của các biên tập viên của các ưu tiên kiểm soát dịch bệnh, phiên bản thứ ba.

Các bệnh truyền nhiễm lớn trong tập này

HIV/AIDS và các bệnh lây truyền qua đường tình dục khác

HIV/AIDS, đại dịch tồi tệ nhất của con người kể từ dịch bệnh cúm năm 1918, đã chiếm hơn 25 triệu ca tử vong kể từ khi nó được xác định lần đầu tiên vào năm 1981 và nó đã tấn công châu Phi cận Sahara là khó khăn nhất. Tuy nhiên, thủy triều đang bắt đầu biến thành điều trị kháng retrovirus kéo dài tính mạng (ART) và các can thiệp phòng ngừa được mở rộng và vì các hành vi tình dục có thể đã trở nên ít rủi ro hơn trong nhiều môi trường.

Thuốc kháng vi -rút hiện có sẵn rộng rãi trong hầu hết các cài đặt và giá cả phải chăng là $ 315 mỗi người mỗi năm (UNAIDS 2015). Trên toàn thế giới, 17 triệu người nhiễm HIV đang nhận được các loại thuốc kéo dài tính mạng này, một số lượng ấn tượng với rằng chỉ có 2,2 triệu người đang sử dụng ART vào năm 2005. Tuy nhiên, con số này vẫn còn thiếu chương trình Liên hợp quốc về HIV/AIDS ( Unaids) nhắm mục tiêu đối xử với 37 triệu người hiện đang sống chung với HIV. Số ca tử vong ước tính hàng năm từ HIV/AIDS đã giảm từ 2 triệu vào năm 2005 xuống còn 1,1 triệu vào năm 2015, con số thấp nhất kể từ năm 1998 (UNAIDS 2015, 2016). Tuy nhiên, AIDS vẫn đứng thứ sáu trong số các nguyên nhân gây tử vong toàn cầu và lần đầu tiên ở châu Phi cận Sahara.

Dựa trên tiến trình cho đến nay, UNAIDS đã đặt ra hai mục tiêu quan trọng: (a) giảm 75 % nhiễm HIV mới (so với năm 2010) vào năm 2030 và (b) thành công thành công của chiến dịch UNAIDS 90-90, tìm kiếm Để có 90 phần trăm tất cả những người nhiễm HIV khi biết họ bị nhiễm HIV, 90 phần trăm những người được chẩn đoán điều trị HIV và 90 phần trăm những người điều trị có tải lượng virus không thể phát hiện (ức chế virus). Hơn nữa, UNAIDS tìm cách loại bỏ lây truyền từ mẹ sang con của cả HIV và bệnh giang mai. Bây giờ chúng tôi có các công cụ để đạt được các mục tiêu này, ngay cả khi những thách thức còn lại của việc cần vắc -xin HIV để phòng ngừa (vì chúng tôi có vắc -xin để ngăn ngừa virus viêm gan B [HBV] và nhiễm papillomavirus ở người [HPV]); một phương pháp chữa trị nhiễm HIV hiệu quả (như chúng ta có nhiễm virus viêm gan C [HCV]); và một liệu pháp ức chế hiệu quả cho viêm gan B.

Ngoài các can thiệp y tế hiệu quả (Bảng 1.2), các khung lập pháp và chính sách quốc gia là cần thiết để cho phép triển khai hiệu quả các can thiệp này. Việc lây truyền HIV từ mẹ sang con sẽ không được loại bỏ vào năm 2030, mục tiêu hiện tại, không có chính sách quốc gia hiệu quả để hỗ trợ phòng ngừa. Thậm chí quan trọng hơn, luật pháp và chính sách để bảo vệ và giảm bớt sự kỳ thị đối với các dân số quan trọng là cần thiết ở nhiều quốc gia. Thật vậy, trong những năm gần đây, các quyền đồng tính nữ, đồng tính nam, song tính và chuyển giới (LGBT) đã thoái lui trong một số môi trường và hình sự hóa các quần thể này đã tăng lên. Hai chương trong tập này cung cấp chi tiết hữu ích cho các nhà hoạch định chính sách đang xem xét các vấn đề như vậy: Chương 8 (Wilson và Taaffe 2017) phác thảo các yếu tố cần xem xét khi điều chỉnh phản ứng với dịch bệnh địa phương và Chương 9 (Kahn và những người khác 2017) Các mô hình có thể giúp hướng dẫn các quyết định liên quan đến hiệu quả chi phí của các can thiệp khác nhau.

Bảng 1.2

Gói can thiệp HIV/AIDS cần thiết, bởi nền tảng phân phối.

Quản lý HIV tối ưu yêu cầu quản lý mọi người trong suốt sự chăm sóc liên tục, từ thử nghiệm đến tư vấn và từ nghệ thuật đến hỗ trợ tuân thủ. Rào cản văn hóa xã hội trong việc tiếp cận chăm sóc bao gồm:

  • Sợ chẩn đoán, phức tạp bởi văn hóa kỳ thị và phân biệt đối xử ở nhiều quốc gia

  • Các rào cản cấu trúc như khoảng cách đến các phòng khám sức khỏe

  • Các rào cản cấp hệ thống như giờ phòng khám, phối hợp giữa các phòng khám và tình trạng thiếu hụt nhân viên chăm sóc sức khỏe

Các can thiệp y sinh đã đi đầu kể từ khi xuất bản các ưu tiên kiểm soát dịch bệnh ở các nước đang phát triển, phiên bản thứ hai (DCP2) của Ngân hàng Thế giới (Jamison và những người khác và những người khác 2013); Dự phòng preexposeure (PREP); Cắt bì nam; và chế độ điều trị mới để phòng ngừa truyền từ mẹ sang con (PMTCT). Hơn nữa, các can thiệp này có thể được cung cấp thành công tại các cơ sở chăm sóc cấp độ đầu tiên, do đó tăng khả năng tiếp cận.

Chuẩn bị sử dụng một máy tính bảng một ngày một lần, phiên bản hiện tại bao gồm hai loại thuốc kháng vi-rút, cung cấp một phương pháp vượt ra ngoài bao cao su cho người có nguy cơ để ngăn ngừa bị nhiễm HIV (Baeten 2016; Jenness và những người khác 2016). Truy cập chuẩn bị vẫn còn hạn chế trong LMIC và không ngăn chặn STI khác.

Cắt bao quy đầu y tế nam tự nguyện (VMMC) làm giảm đáng kể việc mắc HIV tình dục bởi nam giới và hiệu quả nhất trong các môi trường trong đó HIV rất phổ biến. Các nghiên cứu gần đây đã chỉ ra rằng nhu cầu là cao đối với VMMC, có thể được cung cấp tại một số cơ sở chăm sóc sức khỏe cấp một và tại các trung tâm y tế. Ở một số quốc gia, VMMC thậm chí đã được phân phối hiệu quả trong xe tải di động.

Những tiến bộ cũng đã tăng hiệu quả của điều trị PMTCT. Đối với một người mẹ nhiễm HIV chưa nhận được nghệ thuật, các khuyến nghị là bắt đầu nghệ thuật trong chuyến thăm trước khi sinh đầu tiên (bất kể số lượng tế bào CD4 của mẹ hay Giai đoạn lâm sàng) 1 và tiếp tục nghệ thuật suốt đời. Việc sử dụng giao thức này có thể làm giảm đáng kể số lượng trẻ sơ sinh bị nhiễm bệnh trong quá trình sinh và lây truyền HIV từ mẹ sang con. Tiến bộ đáng kể đã được thực hiện về vấn đề này: Nhiễm HIV Nhi khoa mới đã giảm 50 % từ năm 2010 đến 2015 (UNAIDS 2016).

Các can thiệp để cung cấp thử nghiệm dựa trên hộ gia đình trong các thiết lập ưu tiên cao sẽ góp phần vào các mục tiêu đầu tiên của 90 90 của UNAIDS 90-90-90 (90 phần trăm tất cả những người nhiễm HIV biết rằng họ bị nhiễm HIV). Các can thiệp để liên kết hiệu quả và kịp thời những người mới được chẩn đoán mắc HIV với các dịch vụ và điều trị góp phần vào lần thứ hai 90 (90 phần trăm người được chẩn đoán HIV được điều trị) và rất quan trọng trên tất cả các cài đặt. Cuối cùng, nhiều chiến lược để thúc đẩy tuân thủ điều trị và duy trì chăm sóc, từ các nhóm hỗ trợ cộng đồng đến các can thiệp sức khỏe di động là rất quan trọng để đảm bảo rằng điều trị có hiệu quả và liên tục, do đó đạt được tải lượng virus không thể phát hiện).

Gánh nặng của STI khác với HIV/AIDS

Ngoài HIV, 40 mầm bệnh vi khuẩn, virus và ký sinh khác đã được xác định là chủ yếu lây truyền qua đường tình dục, hoặc có khả năng lây truyền qua đường tình dục (xem Phụ lục 1A). Các STI vi khuẩn có thể chữa được phổ biến bao gồm trichomonias, nhiễm trùng chlamydia, lậu và bệnh giang mai. Vào năm 2012, WHO ước tính tỷ lệ mắc bệnh toàn cầu của bốn STI có thể chữa khỏi ở nam và nữ trong độ tuổi 154949: 131 triệu trường hợp nhiễm chlamydia mới, 78 triệu bệnh lậu, 143 triệu bệnh trichomonia và 6 triệu bệnh giang mai (WHO 2016b ). Những ước tính này có nghĩa là khoảng 1 triệu nhiễm trùng mới có thể được chữa khỏi các phương pháp điều trị hiện có mỗi ngày (Newman và những người khác 2015).

Các mầm bệnh lây truyền qua đường tình dục phổ biến khác là virus herpes simplex (HSV-1 và HSV-2, cả hai đều gây ra herpes sinh dục) và HPV.2 vào năm 2012, tỷ lệ HSV-2 toàn cầu ở nam và nữ trong độ tuổi 15 triệu, với tỷ lệ lưu hành cao hơn ở phụ nữ so với nam giới. Ước tính 19,2 triệu cá nhân ở độ tuổi 15 tuổi34 mới bị nhiễm HSV-2 vào năm 2012 (Looker và những người khác 2015).

Các nghiên cứu sâu rộng về sự phổ biến của nhiễm HPV bộ phận sinh dục gây ung thư bao gồm tổng quan hệ thống toàn cầu về tỷ lệ nhiễm HPV đặc hiệu theo độ tuổi của các loại nhiễm HPV gây ung thư ở nam giới (Smith và những người khác 2011) và ở nữ (Winer và những người khác 2012). Nhìn chung, các nghiên cứu này cho thấy tỷ lệ mắc các loại HPV gây ung thư cao trong số những người có bạn tình mới hoặc một số lượng lớn các đối tác trọn đời.

Các STI thông thường có thể gây ra những biến chứng đáng kể đối với sức khỏe sinh sản của phụ nữ, bao gồm bệnh viêm vùng chậu, vô sinh mang thai ở ống dẫn trứng, ung thư cổ tử cung, bệnh tật chu sinh và sơ sinh, lây truyền bệnh giang mai hoặc HIV của mẹ đến trẻ em, và một loạt các tình trạng khác (Chesson, Mayaud, và Aral 2017, Chương 10 trong tập này). Tuy nhiên, đối với bệnh tật và tử vong, nhiều năm của cuộc sống bị mất, những năm sống được điều chỉnh khuyết tật (DALY) và chi phí chăm sóc y tế, các STI chính như sau:

  • nhiễm HIV

  • Nhiễm HBV và HCV

  • Nhiễm HPV, với bệnh ung thư bộ phận sinh dục, hậu môn và hầu họng liên quan đến HPV

  • Bệnh giang mai, với tỷ lệ mắc bệnh và tử vong ở chu vi và trẻ em có liên quan

  • Nhiễm HSV-1 và HSV-2, với hệ thần kinh trung ương liên quan và bệnh tật ở trẻ em

Trong tổng hợp, các mầm bệnh chính này gây ra tỷ lệ mắc bệnh và tử vong do tình dục không an toàn. Hơn nữa, hậu quả của STIS ảnh hưởng không tương xứng đến phụ nữ và trẻ em. STI, bao gồm HIV/AIDS, là một trong những nguyên nhân hàng đầu gây bệnh tật và tử vong, được đo bằng Dalys, đối với phụ nữ ở độ tuổi sinh sản ở LMIC (OWUSU-EDUSEI và những người khác 2014).

Ngoài tỷ lệ tử vong và tỷ lệ mắc bệnh do các mầm bệnh STI chính được liệt kê trước đó, các mầm bệnh STI khác chiếm tỷ lệ mắc bệnh nặng, bao gồm vô sinh, mang thai ngoài tử cung, viêm mào tinh hoàn, nhiễm trùng mắt sơ sinh và các bệnh phổ biến khác. Những mầm bệnh khác có thể lây truyền qua đường tình dục bao gồm virus Zika và Ebola và nhóm C Neisseria meningitidis. Truyền tình dục của các mầm bệnh này đã được ghi nhận nhưng chưa được nghiên cứu kỹ lưỡng (Hader 2017).

Tình dục không an toàn như một yếu tố nguy cơ toàn cầu đối với tử vong và khuyết tật ở thanh thiếu niên và thanh niên

Nghiên cứu gánh nặng bệnh tật toàn cầu (GBD) gần đây đã báo cáo các đánh giá hàng năm về các yếu tố nguy cơ tử vong và Dalys ở thanh thiếu niên và thanh niên ở 188 quốc gia cho năm 2013 (Mokdad và những người khác 2016). Trong số những người đàn ông vị thành niên ở độ tuổi 151919, tình dục không an toàn là yếu tố nguy cơ phổ biến thứ hai cho tử vong. Trong số phụ nữ vị thành niên trong độ tuổi 151919, tình dục không an toàn là yếu tố nguy cơ số một. Trong số những người trẻ tuổi từ 20 tuổi24 (nam và nữ kết hợp), quan hệ tình dục không an toàn là yếu tố rủi ro phổ biến thứ hai.

Đối với nguy cơ khuyết tật (được đo bằng DALY), tình dục không an toàn là yếu tố rủi ro phổ biến thứ hai trong năm 2013. Điều quan trọng đối với gánh nặng toàn cầu, số lượng và tỷ lệ dân số trên toàn thế giới là thanh thiếu niên cũng đang tăng trưởng đều đặn (Hader 2017) .

Các quần thể chính để kiểm soát STI trong LMIC

Mặc dù thanh thiếu niên và thanh niên trải qua một tỷ lệ lớn STI, bao gồm nhiễm HIV, vai trò của các quần thể chính trong dịch tễ học và kiểm soát HIV và các STI khác trong LMIC đã ngày càng rõ ràng (Baral và những người khác 2007; Baral và những người khác 2012). Những quần thể chính bao gồm, đặc biệt, nữ hành nghề mại dâm; Những người đàn ông có quan hệ tình dục với đàn ông (MSM), những người bị đánh giá thấp và không được bảo vệ trong hầu hết các LMIC; và người sử dụng thuốc tiêm, những người có nguy cơ không chỉ đối với HIV mà còn đối với các STI truyền máu khác như bệnh giang mai và virus viêm gan. Các mô hình mạng lưới tình dục liên kết MSM với dân số dị tính đảm bảo nghiên cứu trong tương lai.

Cho đến gần đây, HCV được mô tả nhiều lần là không lây truyền qua đường tình dục và việc lây truyền của nó có liên quan đến việc sử dụng thuốc tiêm, truyền máu và phơi nhiễm iatrogenic nhưng không phải với truyền dị tính. Tuy nhiên, HCV gần đây đã được tìm thấy trong tinh dịch của những người đàn ông bị virut máu HCV và việc giảm HCV trực tràng đã được tìm thấy ở 20 trên 43 (47 phần trăm) MSM nhiễm HIV cũng bị nhiễm HCV. Sự hiện diện của HCV trong chất lỏng trực tràng có liên quan đến nồng độ HCV trong máu cao (Foster và những người khác 2017). Quan trọng nhất, đồng nhiễm với HCV và HIV thường được tìm thấy ở Úc, Châu Âu và Bắc Mỹ. Do đó, sàng lọc HCV, một bệnh nhiễm trùng có thể chữa khỏi hiện đang được khuyến nghị cho MSM nhiễm HIV ở các nước thu nhập cao (Harrison và những người khác 2017; Kratz và những người khác 2015; Nanduri và những người khác 2016).

Can thiệp STI: Phòng ngừa, điều trị và giáo dục

Phòng ngừa và điều trị đều quan trọng đối với kiểm soát STI và dịch HIV đã ảnh hưởng đến những thay đổi trong phương pháp phòng ngừa STI nói chung. Trong những năm 1980 và 1990, phòng chống hành vi thống trị thế giới HIV và nổi bật trong lĩnh vực STI. Tuy nhiên, kể từ đầu thế kỷ, sự công nhận đã phát triển rằng các can thiệp hành vi (có trọng số lớn đối với việc sử dụng bao cao su) đã không làm giảm tỷ lệ mắc STI đủ và bền vững (Aral 2011; Kippax và Stephenson 2012).

Phòng ngừa STI

Đồng thời, tiến bộ đáng chú ý đã được thực hiện trong các phương pháp y sinh để ngăn ngừa HIV/AIDS, bao gồm cắt bao quy đầu nam, chuẩn bị và nghệ thuật (Baeten và những người khác 2012; Dodd, Garnett, và Hallett 2010; Grant và những người khác 2010; Katz và Wright 2008; Pretorius và những người khác 2010). Với sự thành công của các phương pháp y sinh này, lĩnh vực phòng ngừa STI đang ngày càng rút ra chúng, được củng cố bằng cách phát triển các can thiệp y sinh hiệu quả để ngăn ngừa STI khác với HIV. Cụ thể, các can thiệp này bao gồm thúc đẩy và cung cấp vắc-xin HPV và HBV cho nữ và nam, phát hiện sớm và điều trị nhiễm HCV, chẩn đoán điểm chăm sóc cho bệnh giang mai, xét nghiệm kép đối với bệnh giang mai và HIV và sự hiểu biết về Những ảnh hưởng của cắt bao quy đầu nam để ngăn ngừa STI nhất định khác với HIV.

Ngoài ra, các nền tảng lâm sàng cung cấp các dịch vụ sức khỏe sinh sản liên quan đến STI đang đóng một vai trò quan trọng trong việc sàng lọc bệnh nhân HIV và HCV. Họ cũng nhấn mạnh đến việc tiếp cận với các đối tác tình dục cho HIV và sàng lọc STI khác. Bảng 1.3 cung cấp một đánh giá về các nền tảng và các can thiệp thiết yếu để ngăn chặn và điều trị STI.

Bảng 1.3

Gói can thiệp STI cần thiết, bởi nền tảng giao hàng.

Điều trị dược phẩm của STI và bác sĩ lâm sàng Giáo dục trực tuyến

Điều trị cá nhân STI trong LMIC chủ yếu dựa trên quản lý hội chứng, thường được cung cấp bởi các nhà thuốc mà không kiểm tra lâm sàng. Cung cấp các hướng dẫn và đào tạo cho nhân viên dược phẩm có thể cải thiện đáng kể việc quản lý STI bởi các nhân viên dược (García và những người khác 2012).

Tuy nhiên, thực tế này, liên quan đến sự gia tăng của các kháng khuẩn mới trong LMIC, có thể góp phần vào tình trạng kháng thuốc kháng khuẩn mới nổi trong LMIC (Miller-Petrie, Pant và Laxminarayan 2017, Chương 18 của tập này). Mặc dù STI có thể chữa được phổ biến có thể được quản lý một cách hiệu quả trong LMIC với kháng sinh có sẵn rộng rãi, sự phát triển toàn cầu của kháng kháng sinh đã làm xói mòn sự thành công của điều trị một số bệnh nhiễm trùng, bao gồm cả bệnh lậu.

Canchihuaman và những người khác (2011) cũng đã chứng minh tính khả thi và hiệu quả của việc sử dụng giáo dục dựa trên máy tính để tiếp cận với các bác sĩ lâm sàng và nữ hộ sinh để mở rộng và cải thiện phạm vi và ảnh hưởng của việc giáo dục trực tuyến về quản lý STI. Cách tiếp cận này là một bước quan trọng và hiệu quả để hướng dẫn các nhóm lớn các bác sĩ lâm sàng và cộng đồng, ngay cả ở khu vực nông thôn xa xôi, để chăm sóc sức khỏe tốt hơn nói chung nhưng đặc biệt là về các bệnh truyền nhiễm.

Bệnh lao

TB được cho là nguyên nhân gây tử vong hàng đầu thế giới từ một tác nhân truyền nhiễm.3 WHO ước tính rằng 10,4 triệu trường hợp mới và 1,5 triệu ca tử vong xảy ra từ bệnh lao mỗi năm (WHO 2016a). Một phần ba các trường hợp bệnh lao vẫn chưa được biết đến với hệ thống chăm sóc sức khỏe. Tuy nhiên, đối với những người tiếp cận điều trị, tỷ lệ lưu hành và tử vong đã giảm đáng kể và hàng triệu mạng sống đã được cứu.

TB được gây ra bởi vi khuẩn mycobacterium tuberculosis, được truyền giữa con người qua đường hô hấp và thường ảnh hưởng nhất đến phổi nhưng có thể làm hỏng bất kỳ mô nào. Chỉ có một thiểu số (khoảng 10 phần trăm) những người bị nhiễm M. tuberculosis tiến triển đến bệnh lao hoạt động, trong khi phần còn lại có thể duy trì nhiễm trùng tiềm ẩn đóng vai trò là hồ chứa. TB có những thách thức đặc biệt, bao gồm (a) một số lượng đáng kể bệnh nhân mắc bệnh tích cực là không có triệu chứng, có khả năng lây truyền nhiễm trùng mà không biết điều đó; (b) bệnh nhân phải duy trì việc tuân thủ điều trị trong sáu đến chín tháng; và (c) mầm bệnh tồn tại ở nhiều người bị nhiễm bệnh ở trạng thái tiềm ẩn trong nhiều năm nhưng có thể được kích hoạt lại trong suốt cuộc đời để gây bệnh và trở nên lây truyền.

Mọi người ở mỗi nấc thang kinh tế xã hội có nguy cơ, mặc dù bệnh lao không tương xứng ảnh hưởng đến người nghèo. Khoảng 80 phần trăm bệnh nhân cư trú tại 22 quốc gia có khối cao. Điều trị bệnh lao đòi hỏi nhiều loại thuốc trong nhiều tháng. Các chế độ thuốc dài này là thách thức đối với cả bệnh nhân và hệ thống chăm sóc sức khỏe, đặc biệt là ở LMIC, nơi gánh nặng bệnh thường vượt xa các nguồn lực địa phương. Đối với bệnh lao dễ bị các loại thuốc đầu tay (ít tốn kém nhất), tỷ lệ chữa bệnh lớn hơn 90 phần trăm được dự kiến ​​với chi phí từ 200 đến 500 đô la Mỹ. Tỷ lệ mắc bệnh lao đa kháng thuốc (MDR-TB) ngày càng tăng, đòi hỏi các chế độ điều trị dài hơn với các loại thuốc đắt tiền và khó khăn, đại diện cho một mối đe dọa mới nổi, không chỉ là nhân viên bệnh viện và phòng khám.

Mục tiêu phát triển bền vững (SDG) của Liên Hợp Quốc (UN) 3 tìm cách chấm dứt dịch bệnh lao hoàn toàn vào năm 2030, nhưng sự suy giảm tỷ lệ mắc bệnh lao đã chậm, chỉ khoảng 1,5 % mỗi năm.4 Không có công cụ mới, các mục tiêu của Liên Hợp Quốc không có khả năng được đáp ứng ngay cả vào năm 2050. Chính sách hiện tại về việc tìm kiếm trường hợp thụ động (chờ bệnh nhân đủ bệnh để tìm cách điều trị) là tối ưu ở các nước bị vùi dập cao. Tốc độ tiến độ nhanh hơn trên bệnh lao sẽ yêu cầu phát hiện trường hợp chính xác hơn, chính xác hơn; bắt đầu nhanh chóng và tuân thủ điều trị hiệu quả; và, nếu có thể, điều trị phòng ngừa bệnh lao tiềm ẩn (Bảng 1.4).

Bảng 1.4

Gói can thiệp bệnh lao cần thiết, bởi nền tảng giao hàng.

Kiểm soát bền sẽ đòi hỏi các chiến lược và công cụ mới có hiệu quả hơn so với các chiến lược sử dụng cho các chế độ thuốc mới, ngắn hơn, có hiệu quả đối với cả bệnh lao nhạy cảm với thuốc và kháng thuốc. Đây không chỉ là hiệu quả về chi phí mà còn giá cả phải chăng và có khả năng có hiệu quả trên quy mô lớn. Ngoài các công cụ mới, kiểm soát lao hiệu quả đòi hỏi phải tăng cường các hệ thống chăm sóc sức khỏe yếu (bao gồm các cải tiến về giám sát, công nghệ thông tin, hậu cần và cung cấp thuốc) và tăng cường các hệ thống chăm sóc sức khỏe cộng đồng để đáp ứng và hiệu quả hơn.

Trong bối cảnh kiến ​​thức hiện tại, Bloom và những người khác (2017) trong Chương 11 trong tập này ủng hộ để tối ưu hóa các phương pháp được biết là có hiệu quả, bao gồm cả những điều sau đây:

  • Xác định các quốc gia truyền tải cao và các điểm nóng trong các quốc gia nơi các nỗ lực được nhắm mục tiêu có thể hiệu quả hơn và hiệu quả hơn về chi phí.

  • Tăng phát hiện và chẩn đoán bệnh lao sớm, đặc biệt là ở các quốc gia có khối cao được chọn, bằng cách giới thiệu các công cụ mới để tìm kiếm trường hợp tích cực.

  • Nhanh chóng cung cấp bảo trì phù hợp và tốt hơn cho bệnh nhân được chẩn đoán mắc bệnh lao hoặc MDR-TB có thể điều chỉnh được về thuốc, cho phép mức độ hoàn thành và chăm sóc cao hơn.

  • Mở rộng liệu pháp phòng ngừa để giảm lây truyền từ bệnh nhân lao sang tiếp xúc, đặc biệt là cho trẻ em và người nhiễm HIV.

  • Nhấn mạnh vào việc cung cấp điều trị lao và dịch vụ dựa vào cộng đồng bất cứ khi nào có thể cải thiện việc hoàn thành điều trị, giảm nguy cơ lây truyền bệnh viện, giảm chi phí và cải thiện chất lượng cuộc sống của bệnh nhân.

  • Cải thiện kiểm soát nhiễm trùng bệnh viện và phòng khám.

  • Tăng cường chuỗi cung ứng thuốc để tiếp cận các phương pháp điều trị bệnh lao có thị trường nhỏ.

  • Mở rộng công nghệ thông tin và hồ sơ y tế điện tử để cho phép kiểm soát bệnh hiệu quả hơn.

Nhu cầu là cấp bách đối với các công cụ mới, bao gồm các xét nghiệm chẩn đoán điểm chăm sóc không tốn kém và nhạy cảm, các xét nghiệm nhanh chóng để kháng thuốc, chế độ thuốc mới và ngắn hơn cho cả bệnh lao có thể điều trị bằng thuốc và thuốc chống thuốc, và vắc-xin hiệu quả hơn để ngăn chặn dịch bệnh.

Sốt rét và các bệnh sốt do người lớn khác

Bệnh sốt là nguyên nhân chính của bệnh tật và tử vong ở LMIC cho trẻ em và người lớn, và hầu hết không thể phân biệt được trong việc trình bày lâm sàng. Các xét nghiệm chẩn đoán nhanh đơn giản (RDT) đang thiếu đối với các nguyên nhân gây sốt phổ biến, nghiêm trọng ngoại trừ bệnh sốt rét, điều trị thích hợp không chắc chắn cho hầu hết bệnh nhân sốt, chỉ một số ít trong số họ bị sốt rét.

Bệnh sốt rét

Đầu tư lớn vào kiểm soát sốt rét trong thập kỷ qua đã thành công trong việc giảm đáng kể tỷ lệ mắc bệnh sốt rét, nhưng loại bỏ bệnh sốt rét là một mục tiêu rất xa ở hầu hết châu Phi cận Sahara và phần lớn châu Á. Tiến bộ tiếp tục phụ thuộc vào việc duy trì và tăng việc sử dụng các biện pháp phòng ngừa hiệu quả (như lưới được điều trị bằng thuốc trừ sâu, phun dư trong nhà và điều trị phòng ngừa không liên tục cho phụ nữ mang thai và trẻ sơ sinh); sử dụng rộng rãi RDT; và điều trị bằng các liệu pháp kết hợp artemisinin hiệu quả (ACT) để đưa các quốc gia có tỷ lệ lưu hành cao nhất đến mức độ tiền sử (Shretta và các quốc gia khác 2017, Chương 12 trong tập này). Bảng 1.5 tóm tắt các can thiệp thiết yếu để phòng ngừa và điều trị sốt rét.

Bảng 1.5

Gói can thiệp sốt rét cần thiết, bởi nền tảng giao hàng.

Tiếp tục giám sát và chi tiêu đáng kể trong nhiều năm sẽ cần thiết để cuối cùng loại bỏ bệnh sốt rét, và liệu nó có thể được thực hiện trên toàn cầu mà không cần thêm ít nhất một công cụ hiệu quả hơn vào tập hợp các biện pháp can thiệp trong việc sử dụng rộng rãi hay không. Các vắc -xin hiện có có thể có hoặc không đủ hiệu quả để tăng kết quả đầy đủ. Vào tháng 4 năm 2017, WHO đã thông báo rằng Ghana, Kenya và Malawi sẽ tham gia chương trình thực hiện vắc -xin sốt rét phi công ở các khu vực được chọn, bắt đầu vào năm 2018 (WHO 2017).

Mặc dù có các hướng dẫn toàn cầu ngược lại, điều trị giả định về bệnh sốt không phân biệt vì sốt rét vẫn phù hợp ở những nơi RDT (hoặc kính hiển vi) không thể được áp dụng một cách đáng tin cậy và tỷ lệ mắc bệnh sốt rét cao (Babigumira, Gelband và Garrison 2017, Chương 15 trong tập này) . Khi xét nghiệm bệnh sốt rét là âm tính, bệnh nhân mắc bệnh nặng sẽ nhận được một chế độ kháng khuẩn phù hợp với các mầm bệnh không quan trọng tại địa phương (Crump và những người khác 2017, Chương 14 trong tập này). Khi sự hiểu biết về nhiễm trùng máu quan trọng tại địa phương và các mầm bệnh khác còn thiếu, nghiên cứu nguyên nhân gây sốt là cần thiết để thông báo cho quản lý. Sự phát triển của các xét nghiệm chẩn đoán hoặc dấu ấn sinh học chính xác sẽ cải thiện việc nhắm mục tiêu của thuốc chống vi trùng.

Sốt không bị bệnh

Một bộ mầm bệnh đa dạng góp phần gây sốt không gây bệnh. Các nỗ lực phòng ngừa có thể nhắm mục tiêu các hồ chứa mầm bệnh (ví dụ, bằng cách tiêm vắc -xin chăn nuôi cho bệnh brucellosis); các nguồn nhiễm trùng mục tiêu (như thông qua kiểm soát vector để giảm nhiễm trùng arbovirus); Truyền ngắt (ví dụ, bằng cách giảm phơi nhiễm nghề nghiệp với coxiella burnetii giữa các công nhân lò mổ); và cung cấp bảo vệ miễn dịch (như thông qua vắc -xin thương hàn) .5

Thiếu kiến ​​thức và thiếu các công cụ cản trở tiến bộ trong việc chống lại các cơn sốt không phải là người. Các nguyên nhân chiếm ưu thế của sốt trong LMIC phần lớn chưa được biết đến vì nghiên cứu về nguyên nhân sốt chưa được thực hiện. Giám sát quốc gia hoặc nghiên cứu địa điểm Sentinel, tốt nhất là phối hợp trên toàn cầu, rất cần thiết để xác định các nguyên nhân chính gây ra bệnh sốt nghiêm trọng, đặc biệt 14 trong tập này). Đồng thời, nghiên cứu để xác định các ưu tiên cho các cải tiến trong quản lý, chẳng hạn như lựa chọn các liệu pháp điều trị kháng khuẩn theo kinh nghiệm, nên được thực hiện ở cùng một quốc gia.

Các phương pháp phòng thí nghiệm có thể được sử dụng cho nghiên cứu là không thực tế ở đầu giường trong các môi trường có nguồn lực thấp. Đối với các cài đặt như vậy, các RDT chính xác là cần thiết đầu tiên, để phân biệt virus với nhiễm trùng vi khuẩn (và có khả năng dễ điều trị); và thứ hai, để cung cấp các xét nghiệm đặc trưng cho mầm bệnh cho các nguyên nhân chính của sốt không điều trị có thể điều trị, dựa trên giám sát và nghiên cứu địa phương khác.

Cuối cùng, dữ liệu chi phí và kết quả là cần thiết để phát triển các ước tính đáng tin cậy về tổng gánh nặng của các bệnh sốt không mắc bệnh và để cho phép phân tích hiệu quả chi phí chính xác liên quan đến sốt để tăng cường các phương pháp tiếp cận tài nguyên để áp dụng và tích hợp các can thiệp (tóm tắt trong bảng 1.6). Thông tin này đặc biệt quan trọng vì các quyết định về các dịch vụ bao gồm trong phạm vi bảo hiểm y tế toàn cầu đang được thực hiện.

Bảng 1.6

Gói can thiệp cần thiết cho bệnh sốt dành cho người lớn, bởi nền tảng giao hàng.

Viêm gan siêu vi

Năm virus chủ yếu không liên quan đến bệnh viêm khớp A, B, C, D và E Insf gan, với các tuyến bệnh nhiễm trùng khác nhau:

  • Viêm gan A và E được truyền qua đường phân-miệng qua nước và thực phẩm bị ô nhiễm; Họ cũng có thể được truyền qua tình dục.

  • Hầu hết các nhiễm trùng viêm gan B (HBV) xảy ra thông qua truyền ngang từ mẹ sang con và sớm trong cuộc sống giữa các thành viên trong gia đình, giữa những người trưởng thành thông qua quan hệ tình dục, và thông qua các hoạt động tiêm không an toàn và truyền máu không được áp dụng.

  • Hầu hết các nhiễm trùng viêm gan C (HCV) xảy ra thông qua việc tiêm không an toàn, trong các môi trường y tế (từ việc tái sử dụng thiết bị y tế và áp dụng không đạt tiêu chuẩn các biện pháp kiểm soát nhiễm trùng) hoặc thông qua các hoạt động không an toàn giữa những người tiêm thuốc. Truyền tình dục của viêm gan C là rất hiếm ở các cặp vợ chồng dị tính nhưng phổ biến hơn ở MSM nhiễm HIV/AIDS.

  • Viêm gan D được truyền qua máu và dịch cơ thể.

Hầu hết các trường hợp tử vong do viêm gan (96 phần trăm) là do HBV và HCV gây ra, gây ra nhiễm trùng mãn tính, suốt đời dẫn đến tổn thương gan tiến triển dẫn đến xơ gan và ung thư biểu mô tế bào gan. Tỷ lệ tử vong do viêm gan là cao nhất ở Tây Phi và các vùng châu Á; Với số lượng tuyệt đối, Đông Á và Nam Á chiếm hơn một nửa số ca tử vong do viêm gan, tổng cộng 1,45 triệu trên toàn cầu vào năm 2013. Ước tính 250 triệu người sống bị nhiễm HBV mãn tính; 80 triệu người bị nhiễm HCV mãn tính (Gower và những người khác 2014; Schweitzer và những người khác 2015).

Ở một số nước Tây Phi, hơn 8 phần trăm dân số bị nhiễm viêm gan. Các khu vực có tỷ lệ nhiễm HCV cao nhất là Tây và Trung Phi, Đông Âu và Trung Á. Tỷ lệ viêm gan C cực kỳ cao ở một số quốc gia khác, đáng chú ý nhất là Cộng hòa Ả Rập Ai Cập và Pakistan, nơi tỷ lệ mắc cao vẫn tồn tại phần lớn là do các biện pháp phòng ngừa yếu, như tái sử dụng ống tiêm và kim trong môi trường chăm sóc sức khỏe.

Phòng chống viêm gan

Nhiễm viêm gan A và E có thể được ngăn ngừa thông qua việc cải thiện vệ sinh. Mặc dù không có ước tính đáng tin cậy nào, tỷ lệ mắc viêm gan A và E đã giảm có khả năng là một phần của việc giảm tổng số ca tử vong do tiêu chảy. Một vắc -xin viêm gan A hiệu quả tồn tại và 18 quốc gia đã đưa ra vắc -xin viêm gan A toàn cầu.

Thành tựu đáng chú ý nhất trong phòng ngừa viêm gan là giảm tỷ lệ nhiễm HBV cấp tính và mãn tính do tiêm vắc -xin viêm gan B ở trẻ em phổ quát. Vào cuối năm 2013, 183 trong số 194 quốc gia đã giới thiệu tiêm phòng thời thơ ấu; Phạm vi bảo hiểm toàn cầu với ba liều vắc -xin viêm gan B được ước tính là có hiệu quả 81 % (WHO 2015). Tiêm vắc -xin cho trẻ sơ sinh với mức độ bao phủ cao đã dẫn đến việc giảm lớn tỷ lệ nhiễm HBV mãn tính ở trẻ em. Ở Trung Quốc, tỷ lệ nhiễm HBV mãn tính đã giảm từ khoảng 8 % vào năm 1992 xuống còn 1 % trong năm 2006 ở trẻ em từ một đến bốn tuổi (Liang và những người khác 2009).

Tuy nhiên, những thách thức vẫn còn trong việc đạt được sự giảm tỷ lệ mắc bệnh. Bảo vệ đầy đủ cho trẻ em yêu cầu chúng nhận được liều vắc -xin đầu tiên trong vòng 24 giờ sau khi sinh, đây là một thách thức hậu cần và là rào cản đối với tiến trình tiếp theo.

Các can thiệp đã được chứng minh khác để phòng ngừa viêm gan chưa được thực hiện đầy đủ trên toàn thế giới (vì nhiều lý do kỹ thuật và chính trị) là tiêm an toàn phổ quát, sàng lọc cung cấp máu cho HBV và HCV, và giảm tác hại cho người sử dụng thuốc tiêm (ví dụ, cung cấp vô trùng kim và thay thế opioid).

Điều trị viêm gan

Nhiễm HBV và HCV mãn tính có thể được điều trị hiệu quả. Các loại thuốc kháng vi-rút trực tiếp mới đối với viêm gan C có thể chữa khỏi hơn 90 phần trăm người bị nhiễm trùng mãn tính với quá trình điều trị hai đến ba tháng, mặc dù chi phí điều trị hiện tại rất cao. Điều trị viêm gan C cũng có thể làm giảm lây truyền HCV vì những người đã được chữa khỏi không truyền nhiễm trùng. Không có cách chữa trị viêm gan B mãn tính, nhưng các phương pháp điều trị bằng thuốc kháng vi -rút hiệu quả có thể ngăn chặn sự nhân lên của virus và ngăn ngừa tiến triển bệnh. Bảng 1.7 tóm tắt cả biện pháp phòng ngừa và can thiệp điều trị cho viêm gan.

Bảng 1.7

Gói can thiệp viêm gan thiết yếu, bởi nền tảng giao hàng.

Bệnh nhiệt đới bị bỏ quên

NTD ảnh hưởng đến hơn 1 tỷ người nghèo nhất, bị thiệt thòi nhất trên thế giới. Những bệnh nhiễm trùng này là hậu quả của các điều kiện môi trường và kinh tế xã hội mà người nghèo sống, và sức khỏe và khuyết tật xấu mà họ gây ra là một yếu tố chính khiến người nghèo rơi vào tình trạng nghèo đói. Ít nhất 18 bệnh được công nhận là NTD theo Nghị quyết của Hội đồng Y tế Thế giới.6 Mặc dù không được đề cập ở đây, nhưng gần đây, WHO đã thêm các trường hợp tử vong của Snakebite vào danh sách NTD. Snakebite gây ra khoảng 50.000 ca tử vong ở Ấn Độ mỗi năm và ước tính khoảng 100.000 ca tử vong trên toàn cầu (Mohapatra và những người khác 2011).

Khái niệm NTD được phát triển để thu hút sự chú ý đến một cơ hội kiểm soát dịch bệnh đã bị bỏ qua bởi các mục tiêu phát triển thiên niên kỷ. Sự kết thúc của dịch bệnh NTD hiện được nhúng trong SDGS cho năm 2030, dưới Target 3.3, phản ánh diễn đàn chính trị cấp cao của Liên Hợp Quốc về phát triển bền vững 2016 về việc đảm bảo rằng không ai bị bỏ lại phía sau. và những người khác 2017) tập trung vào những người cụ thể nhắm mục tiêu kiểm soát, loại bỏ và xóa bỏ một tập hợp con của các bệnh này.

Can thiệp để chấm dứt NTDS

Ba can thiệp chính giải quyết một phần lớn gánh nặng bệnh tật do tập hợp bệnh này. Để công nhận việc cung cấp các can thiệp ngày càng tích hợp cho những cộng đồng nghèo nhất, xa nhất và hầu hết các cộng đồng bị thiệt thòi trên thế giới, chúng tôi xem xét chúng bằng cách can thiệp thay vì bệnh tật, như sau:

  • Hóa trị phòng ngừa bằng cách quản lý thuốc hàng loạt

  • Quản lý bệnh cải tiến và tăng cường

  • Sinh thái học và quản lý vector

Các can thiệp được thảo luận chi tiết trong Chương 17 trong tập này (Fitzpatrick và những người khác 2017) nhưng được tóm tắt như sau:

Hóa trị phòng ngừa bằng cách sử dụng thuốc thuốc có hiệu quả chống lại bệnh giun đũa bạch huyết, bệnh onchocercerc, bệnh schistosomia, các giun sán truyền máu và bệnh nhiễm trùng. Các loại thuốc và chế độ cụ thể khác nhau theo bệnh, và nhiều quần thể bị ảnh hưởng bởi nhiều hơn một trong những điều kiện này. Các chiến dịch đại chúng có thể được kết hợp để nhắm mục tiêu một số mầm bệnh cùng một lúc.

Quản lý bệnh cải tiến và tăng cường đề cập đến sự thay đổi từ quản lý thụ động sang giám sát tích cực, chẩn đoán sớm và điều trị, với mục đích loại bỏ hoặc kiểm soát, không chỉ để quản lý. Điều trị loét Buruli, chẳng hạn, đã phát triển từ việc phẫu thuật cắt bỏ giai đoạn cuối của mô bị nhiễm trùng hoặc chết và điều chỉnh biến dạng đối với việc sử dụng kháng sinh giai đoạn đầu. Lợi nhuận vượt ra ngoài lợi ích sức khỏe để bao gồm việc giảm chi phí nhập viện cho các hệ thống chăm sóc sức khỏe và cho các cá nhân. Các NTD mà can thiệp chính là quản lý bệnh là loét Buruli, bệnh Chagas, bệnh trypanosomsoma ở người (HAT), bệnh leishmania, bệnh phong và ngáp.

Sinh thái học và quản lý Vector nhằm mục đích kiểm soát việc truyền mầm bệnh gây bệnh của NTD do côn trùng gây ra với các can thiệp đã được chứng minh được áp dụng theo cách thân thiện về mặt sinh thái. Các NTD chính mà đây là một chiến lược quan trọng là bệnh Chagas, sốt xuất huyết, Chikungunya, bệnh leishmania nội tạng (Kala Azar) và virus Zika. Bảng 1.8 tóm tắt các can thiệp thiết yếu để ngăn chặn và điều trị NTD.

Bảng 1.8

Gói can thiệp cần thiết cho các bệnh nhiệt đới bị bỏ quên, bởi nền tảng giao hàng.

Tiến bộ gần đây chống lại NTD

Kể từ khi khái niệm NTD được tổ chức, những thành công đáng kể đã được ghi nhận, bao gồm giảm tử vong do bệnh bạch cầu nội tạng, bệnh dại, bệnh sán máng, HAT, bệnh Chagas và các giun dẫn truyền đất (ví dụ, bệnh ascariasis được ước tính 142.000 trường hợp tử vong trong năm 2012, giảm từ khoảng 220.000 vào năm 2000) (WHO 2014). Ngoài ra, các kết quả sau đây đã được ghi lại:

  • Các trường hợp mũ mới đã giảm 80 phần trăm từ năm 2000 đến 2014, với tổng số ít hơn 4.000 trường hợp mỗi năm.

  • Số lượng các trường hợp bệnh leishmania nội tạng (Kala Azar) ở Bangladesh, Ấn Độ và Nepal đã giảm 75 % từ năm 2005 (khi một chương trình khu vực được đưa ra) và 2014, cho 10.209 trường hợp được báo cáo.

  • Năm 2000, hơn 130.000 trường hợp bệnh dracunculia (bệnh giun Guinea) đã được báo cáo; Trong năm 2015, chỉ có 22 trường hợp được báo cáo, phản ánh gần diệt trừ.

Phần lớn gánh nặng của NTD xảy ra với tỷ lệ mắc bệnh hơn là tỷ lệ tử vong và ở đây cũng vậy, tiến bộ là tốt, mặc dù ít kịch tính hơn: tổng số DALY giảm 19 % từ năm 2000 đến 2012, từ 1,0 % GBD xuống còn 0,8 phần trăm (WHO 2014).

Kháng kháng sinh

Mọi việc sử dụng kháng sinh, cho dù thích hợp hay không phù hợp, gây áp lực lựa chọn, mang lại cho vi khuẩn kháng thuốc một lợi thế và đẩy nhanh sự phát triển của kháng thuốc. Kháng vi khuẩn đối với các loại kháng sinh hàng đầu, dòng thứ hai và phần cuối đang phát triển ở bất cứ nơi nào nó được theo dõi (CDDEP 2016). Du lịch, thương mại và di cư tăng lên có nghĩa là vi khuẩn kháng thuốc có thể lây lan nhanh hơn bao giờ hết (DU và những người khác 2016; Johnson và Woodford 2013).

Gánh nặng kháng thuốc kháng khuẩn rơi rất nhiều vào LMIC. Họ thường có gánh nặng cao và sự lây lan nhanh chóng của bệnh truyền nhiễm, dinh dưỡng kém và tăng tỷ lệ tiêu thụ kháng sinh ở người và động vật, ngoài các hệ thống chăm sóc sức khỏe yếu hơn và các tiêu chuẩn và quy định thưa thớt, sử dụng và chất lượng kháng sinh (Okeke và những người khác 2005).

Trình điều khiển sử dụng kháng sinh tăng

Sự gia tăng sử dụng kháng sinh được thúc đẩy bởi gánh nặng của bệnh truyền nhiễm cũng như các yếu tố kinh tế, hành vi, môi trường và cấu trúc. Ví dụ, bảo hiểm mở rộng và tăng mật độ bác sĩ tăng cường tiêu thụ kháng sinh (Klein và những người khác 2015; Zhang, Lee và Donohue 2010). Mệt mỏi quyết định và nhu cầu bệnh nhân cũng làm tăng kê đơn kháng sinh.

Tiêu thụ kháng sinh tăng khoảng 30 % trở lên ở 71 quốc gia từ năm 2000 đến 2010, đạt khoảng 70 tỷ đơn vị tiêu chuẩn (đơn vị liều đơn) trong năm 2010 (Van Boeckel và những người khác 2014). Sự gia tăng này chủ yếu ở các loại kháng sinh hàng đầu, bao gồm penicillin và cephalosporin, cùng nhau chiếm hơn một nửa mức tiêu thụ toàn cầu. Sử dụng các nhóm kháng sinh cuối cùng, đặc biệt là carbapenem và polymyxin, cũng tăng lên.

Mặc dù sự gia tăng gần đây về tiêu thụ kháng sinh trên toàn thế giới, với một vài ngoại lệ, tiêu thụ bình quân đầu người trong LMIC thấp hơn nhiều so với HICS. Bên cạnh việc tăng tiêu thụ và tỷ lệ kháng kháng sinh tăng lên, việc thiếu khả năng tiếp cận kháng sinh vẫn là một mối quan tâm nghiêm trọng đối với hầu hết các LMIC. Mỗi năm, viêm phổi giết chết khoảng 1 triệu trẻ em dưới năm tuổi và ước tính 445.000 người có thể được cứu với việc cung cấp kháng sinh toàn cầu cho nhiễm trùng phế cầu khuẩn được cộng đồng (Miller-Petrie, Pant và Laxminarayan 2017, Chương 18 trong tập này) . Khi chúng có sẵn, các phương pháp điều trị kháng sinh hàng đầu vẫn còn tương đối phải chăng, nhưng các loại kháng sinh mới hơn cần thiết để điều trị nhiễm trùng kháng thuốc có thể nằm ngoài tầm với của LMIC (Miller-Petrie, Pant và Laxminarayan 2017, Chương 18 trong tập này) .8

Can thiệp để đảm bảo sử dụng kháng sinh thích hợp

Một số can thiệp có hiệu quả trong việc giảm sử dụng kháng sinh hoặc tăng sử dụng phù hợp, nhưng tác dụng của chúng đối với tỷ lệ kháng kháng sinh rất khó xác định vì thời gian dài cho các tác dụng trở nên rõ ràng. Do đó, các khuyến nghị chủ yếu dựa trên thành công trong việc thay đổi mô hình sử dụng. Các can thiệp nhằm mục đích làm giảm nhu cầu kháng sinh bằng cách ngăn ngừa nhiễm trùng và giảm sử dụng kháng sinh không phù hợp hoặc không cần thiết (ở cả người và động vật). Các loại can thiệp rộng như sau (được tóm tắt từ Miller-Petrie, Pant và Laxminarayan 2017, Chương 18 của tập này):

  • Giảm và cuối cùng loại bỏ sử dụng kháng sinh dưới cấp trong nông nghiệp. Cải thiện vệ sinh và vệ sinh ở cấp độ trang trại sẽ làm giảm nhu cầu kháng sinh dự phòng. Việc sử dụng kháng sinh trong nông nghiệp động vật nên được giảm bớt, tập trung vào sự tham gia của nông dân và ngành nông nghiệp trong việc loại bỏ cẩn thận việc sử dụng các nhà quảng bá tăng trưởng và thức ăn chăn nuôi trộn sẵn (Laxminarayan, Van Boeckel và Teillant 2015).

  • Áp dụng các ưu đãi khuyến khích quản lý kháng sinh và không khuyến khích lạm dụng. Đảm bảo rằng các khoản thanh toán không được liên kết với việc kê đơn và giới thiệu phần thưởng cho việc tuân thủ có thể cải thiện các mô hình kê đơn.

  • Cải thiện kiểm soát nhiễm trùng bệnh viện và quản lý kháng sinh. Các chương trình quản lý kháng sinh, phòng ngừa và kiểm soát nhiễm trùng, và đặc biệt là rửa tay bằng xà phòng có thể làm giảm nhiễm trùng, sử dụng kháng sinh và kháng thuốc đồng thời cải thiện kết quả của bệnh nhân.

  • Giáo dục các chuyên gia chăm sóc sức khỏe, các nhà hoạch định chính sách và công chúng về việc sử dụng kháng sinh bền vững. Mặc dù nhận thức cộng đồng đang phát triển mà kháng kháng sinh thể hiện mối đe dọa, nhưng có rất ít nhận thức về các hành động cá nhân để giảm sử dụng kháng sinh. Bệnh nhân, phụ huynh, nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe, các bên liên quan và người đứng đầu bệnh viện đều cần phải nhận thức được những gì họ có thể làm để giảm sử dụng không cần thiết.

  • Giảm nhu cầu kháng sinh thông qua nước, vệ sinh và tiêm chủng được cải thiện. Phòng ngừa bệnh đạt được mục đích kép là giữ cho mọi người khỏe mạnh và tiết kiệm liều kháng sinh. Nước, vệ sinh, vệ sinh và tiêm chủng nên là thành phần cốt lõi của bất kỳ phản ứng nào, với tài chính từ cơ sở hạ tầng và các ngành y tế.

  • Đảm bảo cam kết chính trị để đáp ứng mối đe dọa kháng kháng sinh. Nếu không có cam kết quốc gia dưới hình thức các kế hoạch hành động được thực hiện, sự bền vững lâu dài của các nỗ lực hạn chế kháng kháng sinh sẽ bị suy yếu. Mặc dù các nỗ lực quốc tế nhằm hạn chế kháng kháng sinh đã tập trung chủ yếu vào hành động quốc gia, nhưng cũng cần hỗ trợ quốc tế.

Hiệu quả chi phí của các can thiệp cho bệnh truyền nhiễm người lớn

Việc huy động đáng kể tài nguyên tài trợ của các tổ chức bao gồm Quỹ Toàn cầu để chống lại AIDS, bệnh lao và sốt rét; Kế hoạch khẩn cấp của Tổng thống để cứu trợ AIDS; Và sáng kiến ​​của tổng thống sốt rét đã đi kèm với các nỗ lực đảm bảo giá trị đồng tiền, điều này đã dẫn đến một tài liệu đáng kể về chi phí và hiệu quả chi phí của các can thiệp để chống lại một số bệnh truyền nhiễm lớn (nhưng ít vượt quá các bệnh này).

Hình 1.1 tóm tắt các ước tính khác nhau về hiệu quả chi phí, được đo trên mỗi DALY đã ngăn chặn số liệu được sử dụng phổ biến nhất trong các nghiên cứu kinh tế để so sánh hiệu quả chi phí giữa các can thiệp sức khỏe khác nhau. Các ước tính được tóm tắt từ các tìm kiếm chuyên gia của các tài liệu được thực hiện cho các chương trong tập này. Để biết chi tiết đầy đủ về các nghiên cứu riêng lẻ được sử dụng, cùng với các tài liệu tham khảo thư mục, xem Phụ lục 1b. Tất cả các kết quả hiệu quả chi phí đã được dịch sang đô la Mỹ năm 2012 để so sánh. Một vài nghiên cứu (đặc biệt là các ấn phẩm từ dự án của WHO-Choice (chọn các can thiệp có hiệu quả về chi phí), cung cấp kết quả trong đô la quốc tế của khu vực WHO) 9 không thể được chuyển đổi và bị bỏ qua.

5 bệnh truyền nhiễm hàng đầu thế giới năm 2022

Hình 1.1

Chi phí ước tính của các can thiệp bệnh truyền nhiễm được lựa chọn.

Kết quả hiệu quả chi phí phụ thuộc vào bối cảnh. Hiệu quả chi phí của cùng một can thiệp ở hai quốc gia khác nhau có thể thay đổi tùy thuộc vào chi phí địa phương; Trung bình, các can thiệp về sức khỏe có giá cao hơn ở các quốc gia có thu nhập cao hơn vì mức lương cao hơn. Vắc-xin thường có chi phí nhiều hơn ở các quốc gia không đủ điều kiện để giảm giá mua hàng loạt (chẳng hạn như giá GAVI, Liên minh vắc-xin) .10 Ngoài ra, hiệu quả chi phí của các chương trình tiêm chủng và sàng lọc (và một số can thiệp khác) thay đổi theo tỷ lệ của điều kiện ; Các chương trình phòng ngừa thường có hiệu quả hơn về chi phí khi tỷ lệ lưu hành cao hơn. Hiệu quả chi phí có thể thay đổi theo các bệnh đi kèm và với các cơ hội để cung cấp sự can thiệp một cách hợp lý với các can thiệp khác (và do đó với chi phí thấp hơn). Chăm sóc thông thường (so sánh thông thường của hiệu quả chi phí) cũng có thể khác nhau.

Trong một số trường hợp, các can thiệp được chia nhỏ bởi vị trí nghiên cứu (ví dụ, Nam Phi hoặc Đông Nam Á) hoặc bằng chỉ định quốc gia có thu nhập thấp hoặc trung bình. Trong trường hợp không được chỉ định, kết quả áp dụng cho các quốc gia thu nhập trung bình thấp và thấp hơn, đây là điểm nhấn chính của phiên bản thứ ba của các ưu tiên kiểm soát dịch bệnh (Jamison và các quốc gia khác 2015 201518). Ít kết quả hơn cho các quốc gia thu nhập trung bình được bao gồm. Các can thiệp HIV/AIDS chiếm gần một nửa các can thiệp và nghiên cứu, phù hợp với phần tài trợ của nó so với các điều kiện sức khỏe khác.

Hình 1.1 thể hiện quan điểm giảm thiểu về tài liệu lớn về hiệu quả chi phí của các can thiệp bệnh truyền nhiễm và cần được giải thích một cách thận trọng, đặc biệt là khi so sánh kết quả của hai nghiên cứu khác nhau dựa vào các giả định cơ bản không nhất quán. Tuy nhiên, hơn một nửa các can thiệp được liệt kê trong Hình 1.1 có giá thấp hơn 100 đô la Mỹ mỗi Daly được ngăn chặn, cho thấy rằng chúng có thể hiệu quả về chi phí ngay cả ở các nước nghèo nhất. Những can thiệp này bao gồm một số biện pháp phòng ngừa, chẳng hạn như cung cấp bao cao su cho phụ nữ ở Nam Phi (mặc dù trong thực tế, việc sử dụng rộng rãi đã rất khó đạt được); thực hiện cắt bao quy đầu nam tự nguyện ở các nước châu Phi có tỷ lệ cao; và cung cấp lưới được điều trị bằng thuốc trừ sâu ở châu Phi để ngăn ngừa sốt rét. Các can thiệp điều trị y sinh có giá thấp hơn 100 đô la Mỹ mỗi Daly ngăn chặn bao gồm điều trị sốt rét nặng bằng artesunate; sàng lọc và điều trị phụ nữ mang thai cho bệnh giang mai; điều trị sốt rét (với hành vi); điều trị bệnh lao (bằng thuốc đầu tay); và, đối với các NTD khác nhau, cung cấp phát hiện và điều trị và điều trị y sinh phòng ngừa cho một số điều kiện trong các khu vực lưu hành.

Một nhóm can thiệp khác có giá 100 đô la Mỹ US $ 399 mỗi Daly được ngăn chặn và do đó sẽ được coi là hiệu quả về chi phí (ít hơn thu nhập hàng năm bình quân đầu người) của tất cả trừ bốn đến năm quốc gia nghèo nhất. Nhóm thứ hai này bao gồm cung cấp nghệ thuật cho những người nhiễm HIV/AIDS, với phụ nữ mang thai là ưu tiên đặc biệt cao (để ngăn ngừa lây truyền cho con cái họ trong khi cũng điều trị HIV ở mẹ). Nhóm can thiệp này cũng bao gồm điều trị phòng ngừa không liên tục đối với bệnh sốt rét ở trẻ sơ sinh và phụ nữ mang thai cũng như điều trị MDR-TB bằng thuốc thứ hai (đắt hơn).

Một số can thiệp, chẳng hạn như những người yêu cầu thay đổi hành vi hoặc những người được thực hiện ở Mỹ Latinh, có giá hơn 400 USD mỗi Daly được ngăn chặn. Chúng bao gồm các chương trình nhằm thay đổi hành vi tình dục cũng như các can thiệp kiểm soát vector cho sốt xuất huyết. PREP, bao gồm cung cấp nghệ thuật cho đối tác không bị nhiễm trong một cặp vợ chồng HIV, thay đổi đáng kể về hiệu quả chi phí, từ tiết kiệm chi phí đến chi phí hơn 5.000 USD mỗi Daly được ngăn chặn, tùy thuộc vào bối cảnh.

Các can thiệp có thể hiệu quả về chi phí theo các chỉ tiêu toàn cầu nhưng vẫn quá đắt đối với hầu hết các LIC để cung cấp cho mọi người có nhu cầu, đặc biệt là khi tỷ lệ mắc bệnh cao. Các ví dụ bao gồm việc cung cấp nghệ thuật ở các nước châu Phi có thu nhập thấp (Alistar, Grant và Bendavid 2014) và điều trị bệnh lao kháng thuốc (Fitzpatrick và Floyd 2012).

Một số can thiệp khác có khả năng có hiệu quả về chi phí, nhưng không có nghiên cứu nào có thể được xác định cho bối cảnh. Ví dụ, các chương trình trao đổi kim cho người sử dụng thuốc tiêm dự kiến ​​sẽ có hiệu quả về chi phí khi tỷ lệ nhiễm HIV trong nhóm này trên toàn thế giới là 19 %; Các chương trình như vậy cũng có thể ngăn ngừa viêm gan B và C (Wilson và những người khác 2015). Tuy nhiên, ước tính hiệu quả chi phí cho các chương trình trao đổi kim không được xác định cho các quốc gia thu nhập trung bình thấp hoặc thấp.

Trong các trường hợp khác, các nghiên cứu đã đánh giá các can thiệp đã được thay thế bởi các biện pháp hiệu quả hơn hoặc một số nghiên cứu về cùng một can thiệp đã có kết quả khác nhau rộng rãi. Chúng chưa được bao gồm trong số các nghiên cứu được sử dụng để phân tích hiệu quả chi phí của các can thiệp bệnh truyền nhiễm (ví dụ, tùy chọn PMTCT A hiện đã được thay thế bởi tùy chọn B/B+).

Kết luận

Sự đa dạng và phân phối các bệnh truyền nhiễm đã phát triển theo thời gian, và họ sẽ tiếp tục thách thức cộng đồng toàn cầu, vì sự bùng phát virus của Zika và Ebola đã nhắc nhở chúng tôi trong vài năm qua. Thông qua nghiên cứu cơ bản và tịnh tiến, một số bệnh tàn khốc nhất của loài người Polio Polio, bạch hầu, bệnh sởi và uốn ván đã giảm đáng kể, và bệnh đậu mùa đã bị xóa bỏ. Trong khi đó, các mầm bệnh mới xuất hiện và các sinh vật mới kháng thuốc đại diện cho các mối đe dọa tiếp tục và không thể đoán trước.

Bốn thách thức chính sẽ cần được đáp ứng để đạt được tiến bộ có ý nghĩa trong cuộc chiến chống lại các bệnh được giải quyết trong tập này.

1. Tập trung và nhắm mục tiêu các chiến lược can thiệp

Nếu chúng ta đã học lại một cái gì đó trong thập kỷ kể từ DCP2, thì đó là các bệnh truyền nhiễm không được phân phối đồng đều, không phải trên khắp các lục địa, không phải trên khắp các quốc gia, ngay cả trong cộng đồng. Các chiến lược nên được thiết kế để hiểu và đáp ứng phù hợp với các điểm nóng và dân số quan trọng, do đó đảm bảo tiếp cận với các can thiệp hiệu quả nhất cho các quần thể phù hợp ở đúng nơi vào đúng thời điểm, đặc biệt là ở LMIC, nơi gánh nặng bệnh tật là lớn nhất. Với sự không đồng nhất trong phân phối các bệnh (cả về mặt địa lý và trên các nhóm nhỏ dân số) và sự khan hiếm tài nguyên, hiệu quả được tăng lên bằng cách phù hợp với các tài nguyên đó với dân số có lợi nhất. Trên toàn cầu, các bệnh truyền nhiễm ảnh hưởng không tương xứng đến những người trong LMIC, theo tỷ lệ tiến triển hiện tại, sẽ chịu phần lớn tử vong sớm do bệnh truyền nhiễm vào năm 2030. Ở LMIC, người nghèo hơn, bị thiệt thòi và thường xuyên bị kỳ thị có nguy cơ khó tiếp cận nhất. Trong khi nhu cầu điều trị có thể trở nên rõ ràng vì nó được yêu cầu bởi người bệnh, nhu cầu và nhu cầu phòng ngừa thường phù hợp kém. Những nỗ lực phòng ngừa chỉ có thể theo dõi tỷ lệ mắc bệnh nếu chúng ta biết tỷ lệ mắc cao nhất, đòi hỏi sự giám sát có mục đích, dựa trên dân số. Tiếp cận các quần thể bên lề sẽ không chỉ đòi hỏi các nguồn lực cho họ mà còn làm việc để loại bỏ sự kỳ thị, phân biệt đối xử và những điều cấm kị cản trở phòng ngừa và điều trị hiệu quả.

2. Mở rộng quy mô can thiệp chống lại các bệnh truyền nhiễm lớn

Mặc dù chúng tôi có bằng chứng về các can thiệp có tác dụng ngăn ngừa và điều trị bệnh, nhưng trong nhiều trường hợp, những dịch vụ đó đã không được thực hiện ở quy mô cần thiết để giảm đủ tỷ lệ mắc và tỷ lệ mắc bệnh và tử vong. Việc mở rộng các can thiệp này đòi hỏi chúng phải được điều chỉnh để phân phối ở mức độ phù hợp nhất của việc cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe thấp nhất và nhân viên được đào tạo và giám sát đầy đủ. Các khu vực chín muồi cho phương pháp này bao gồm đào tạo dược sĩ trong điều trị hội chứng STI và bệnh sốt rét ở cấp độ chăm sóc sức khỏe thấp nhất. Tuy nhiên, việc mở rộng sẽ không thể thực hiện được trừ khi chúng tôi giải quyết thách thức tiếp theo: tích hợp.

3. Tích hợp các dịch vụ hiệu quả hơn trên các khu vực bệnh tật

Tiếp cận thế giới nghèo khổ với toàn bộ kho vũ khí của các phòng khám chuyên ngành là không thể. Mọi người thường bị ảnh hưởng bởi nhiều điều kiện: những người có nguy cơ mắc một NTD cũng có khả năng có nguy cơ đối với một số người khác; Người bán dâm có nguy cơ mắc nhiều STI và bệnh nhân HIV đặc biệt dễ bị nhiễm bệnh lao. Hơn nữa, điều trị bệnh truyền nhiễm đã phát triển ngày càng phức tạp (ví dụ, điều trị ART và bệnh lao) cũng như tốn kém (bằng chứng là điều trị viêm gan C mới). Do đó, những nỗ lực chống lại một số bệnh chính có phương thức lây truyền tương tự (như HIV, STI và viêm gan) sẽ được hưởng lợi từ các chiến lược được chia sẻ để phòng ngừa và chẩn đoán. Mặc dù chăm sóc chuyên ngành rõ ràng là cần thiết cho các điều kiện đặc biệt hiếm gặp hoặc khó xử lý, việc tiêu chuẩn hóa các giao thức phòng ngừa và điều trị và cung cấp thông tin và công nghệ truyền thông cho phép chăm sóc được đẩy ra các điểm dịch vụ tích hợp gần với nơi bệnh nhân sống, học tập và làm việc. Sự gần gũi và tích hợp các dịch vụ giúp đảm bảo sự liên tục của việc chăm sóc từ phòng ngừa hoặc chẩn đoán thông qua điều trị và chăm sóc theo dõi. Giải quyết từng thách thức này đòi hỏi phải tăng cường các hệ thống chăm sóc sức khỏe, bao gồm cả giao tiếp; công nghệ thông tin; Hậu cần, thuốc và vắc -xin nguồn cung cấp; và đào tạo các nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe, bao gồm các nhân viên y tế cộng đồng trong LMIC. Ngoài ra, cải thiện các hệ thống chăm sóc sức khỏe cho các bệnh truyền nhiễm, đặc biệt là các bệnh như HIV, bệnh lao và viêm gan cần điều trị và theo dõi y tế mở rộng, cung cấp cơ sở và có thể làm mô hình để cải thiện chăm sóc và điều trị cho các bệnh không truyền thông.

4. Phát triển các công nghệ mới Các loại thuốc, vắc -xin, chẩn đoán, can thiệp hành vi và phương pháp phân phối để ngăn ngừa và điều trị các bệnh này

Hầu hết cấp bách là nhu cầu cộng đồng toàn cầu đầu tư vào việc phát triển thuốc chống vi trùng mới. Cách tiếp cận này bao gồm suy nghĩ lại về hỗ trợ phát triển toàn cầu để tập trung không chỉ vào việc cung cấp dịch vụ và đầu vào chính (thuốc, chẩn đoán và vắc -xin) mà còn về nghiên cứu và phát triển và nghiên cứu hoạt động để tạo ra các công cụ mới hoặc sử dụng tốt hơn các công cụ hiện có (Hecht và những người khác 2012). Cụ thể, khi kháng kháng sinh tiếp tục tăng, các bệnh từng được cho là có thể điều trị cao, nếu không đầu tư đáng kể vào việc phát triển các loại thuốc mới, gây ra mối đe dọa nghiêm trọng hơn nhiều đối với sức khỏe toàn cầu.

Một thế hệ trước, vì các loại kháng sinh đang lừa dối tử vong và vắc -xin đã làm sạch các bệnh từ toàn bộ lục địa, dân số thế giới tin rằng nó đang chuyển sang kỷ nguyên bệnh sau nhiễm trùng. HIV dường như là ngoại lệ đã chứng minh quy tắc và, ở bất cứ giá nào, sẽ nhanh chóng được thuần hóa bằng vắc -xin. Thay vào đó, những vi sinh vật di truyền này, có sự tồn tại như mục tiêu tiến hóa của chúng, đã dạy chúng ta khiêm tốn. Chúng tôi vẫn sẽ đấu tranh chống lại các bệnh truyền nhiễm trong các thế hệ tương lai, nhưng cuộc đấu tranh sẽ ít tốn kém hơn trong cuộc sống và tài nguyên nếu chúng tôi đầu tư ngày nay vào sự kiểm soát của họ.

Phụ lục

Các phụ lục sau đây cho chương này có sẵn tại http://www.dcp-3.org/infectiousdiseases:

  • Phụ lục 1A: Bốn mươi mầm bệnh lây truyền qua đường tình dục và lây truyền qua đường tình dục

  • Phụ lục 1b: Nguồn phân tích hiệu quả chi phí cho các can thiệp bệnh truyền nhiễm được chọn

Sự nhìn nhận

Các biên tập viên của tập này muốn cảm ơn Desiree Bernard, Elisabeth Gunningham, Varsha Malhotra và Alicair Peltonen vì sự hỗ trợ quý giá của họ về nỗ lực này. Họ đặc biệt cảm ơn Brianne Adderley vì sự chăm chỉ của cô ấy giữ cho nỗ lực lớn này được tổ chức tốt.

Ghi chú

Phân loại thu nhập của Ngân hàng Thế giới kể từ tháng 7 năm 2014 như sau, dựa trên ước tính tổng thu nhập quốc dân (GNI) bình quân đầu người cho năm 2013:

  • Các quốc gia có thu nhập thấp (LIC) = US $ 1,045 trở xuống

  • Các quốc gia có thu nhập trung bình (MIC) được chia nhỏ:

    alpha & nbsp; a.

    thu nhập trung bình thấp hơn = US $ 1,046 đến US $ 4,125

    Alpha & nbsp; b.

    Thượng trung bình thu nhập (UMICS) = US $ 4,126 đến US $ 12.745

  • Các nước thu nhập cao (HICS) = US $ 12.746 trở lên.

1

Trung tâm kiểm soát và phòng ngừa dịch bệnh (CDC) của Hoa Kỳ đánh giá mức độ nghiêm trọng của bệnh HIV bằng cách phân biệt số lượng tế bào phân biệt 4 (CD4) và sự hiện diện của các tình trạng liên quan đến HIV cụ thể. Hệ thống phân loại lâm sàng và phân loại bệnh của WHO có thể được sử dụng dễ dàng trong các cài đặt bị hạn chế về tài nguyên mà không cần truy cập vào các phép đo số lượng tế bào CD4 hoặc các phương pháp chẩn đoán hoặc xét nghiệm khác, phân loại bệnh HIV trên cơ sở các biểu hiện lâm sàng mà các bác sĩ lâm sàng có thể nhận ra và điều trị ( Bộ Y tế và Dịch vụ Nhân sinh Hoa Kỳ 2014).

23

Việc TB hay HIV gây ra nhiều trường hợp tử vong phụ thuộc vào cách người ta phân bổ tử vong ở những người bị đồng nhiễm. Không có câu trả lời rõ ràng, đúng.

4

SDG 3, có tiêu đề là sức khỏe và hạnh phúc tốt, mục đích nhằm mục đích đảm bảo cuộc sống lành mạnh và thúc đẩy hạnh phúc cho mọi lứa tuổi. Nó đặt ra chín mục tiêu chính, bao gồm Target 3.3: Từ năm 2030, kết thúc dịch bệnh AIDS, bệnh lao, sốt rét và các bệnh nhiệt đới bị bỏ quên và chống viêm gan, bệnh do nước và các bệnh truyền nhiễm khác.

56

Hội đồng Sức khỏe Thế giới thứ 18, NTD được công nhận là loét Buruli, bệnh Chagas, sốt xuất huyết và chikungunya, bệnh dracunculia (bệnh giun guinea), bệnh echinococcosis Bệnh nấm, mycetoma, bệnh onchocercercercercercercercercercercercercercercercercercercercercercercercerc, bệnh dại, bệnh sán máng, bệnh giun sán transited, taenia/cysticercosis, trachoma, và ngáp (WHER int/bỏ qua_disease/bệnh/en/).

7

Diễn đàn chính trị cấp cao về phát triển bền vững là nền tảng trung tâm của Liên Hợp Quốc cho việc tiếp theo và xem xét lại chương trình phát triển bền vững năm 2030 (Liên Hợp Quốc 2015a), được thông qua tại Hội nghị thượng đỉnh phát triển bền vững của Liên Hợp Quốc vào ngày 25 tháng 9 năm 2015 (High High- Diễn đàn chính trị cấp độ về phát triển bền vững 2016: Đảm bảo rằng không ai bị bỏ lại phía sau, nền tảng kiến ​​thức phát triển bền vững của Liên Hợp Quốc, https: // bền vững phát triển .un.org/hlpf/2016).

8

Như được thể hiện bằng bức ảnh trên trang bìa của tập này, gánh nặng toàn cầu của các bệnh truyền nhiễm (cả ở người và động vật), kết hợp với sự gia tăng, sử dụng và phân phối thuốc chống vi trùng (thường dựa trên chẩn đoán hội chứng thay vì BẬT Các xét nghiệm chẩn đoán), góp phần tăng tốc toàn cầu của kháng kháng sinh.

9

Dự án lựa chọn (chọn các can thiệp là hiệu quả về chi phí) là một sáng kiến ​​của WHO được phát triển vào năm 1998 để cung cấp cho các nhà hoạch định chính sách bằng chứng cho việc quyết định các can thiệp và chương trình tối đa hóa sức khỏe cho các nguồn lực sẵn có (hiệu quả chi phí và lập kế hoạch chiến lược (sự lựa chọn của WHO ), Trang web của WHO, http: // www .who.int/lựa chọn // en/). Một đô la quốc tế sẽ mua ở quốc gia được trích dẫn một số lượng hàng hóa và dịch vụ tương đương mà đô la Mỹ sẽ mua ở Hoa Kỳ (một 'đô la quốc tế' là gì? WorldBank.org/KnowledgeBase/).

10

Gavi, Liên minh vắc -xin là một tổ chức quốc tế được thành lập vào năm 2000 để tập hợp các khu vực công và tư nhân với mục tiêu chung là tạo ra quyền truy cập bình đẳng vào vắc -xin mới và bị sử dụng cho trẻ em sống ở các nước nghèo nhất. Để biết thêm thông tin về chiến lược định giá vắc -xin Gavi, xem Gavi, Liên minh vắc -xin (2011).

Tác giả tương ứng: King K. Holmes, Khoa Y tế và Y học Toàn cầu, Đại học Washington, Seattle, Washington, Hoa Kỳ; ude.wu@hkk.

Người giới thiệu

  1. Adams E J, García P J, Garnett G P, Edmunds W J, Holmes K K. 2003. Bệnh lây truyền qua đường tình dục 30 (5): 379 Từ87. [PubMed: 12916127]: 12916127]

  2. Alistar S S, Grant P M, Bendavid E. 2014. Hiệu quả so sánh và hiệu quả chi phí của liệu pháp kháng vi-rút và điều trị dự phòng trước khi tiếp xúc với phòng ngừa HIV ở Nam Phi. BMC Medicine 12 (1): 46. [Bài viết miễn phí PMC: PMC4003813] [PubMed: 24629217]: PMC4003813] [PubMed: 24629217]

  3. Aral S O. 2011. Tiện ích và cung cấp các can thiệp hành vi để ngăn ngừa nhiễm trùng lây truyền qua đường tình dục. Nhiễm trùng lây truyền qua đường tình dục 87 (Bổ sung 2): II31 Từ33. [Bài viết miễn phí PMC: PMC3610387] [PubMed: 22110151]: PMC3610387] [PubMed: 22110151]

  4. Babigumira J, Gelband H, Garrison Jr L P. 2017. Hiệu quả chi phí của các chiến lược để chẩn đoán và điều trị bệnh sốt ở trẻ em. Trong các ưu tiên kiểm soát bệnh tật các bệnh truyền nhiễm chính (Phiên bản thứ ba): Tập 6, được chỉnh sửa bởi Holmes K K, Bertozzi S, Bloom B R, JHA P, biên tập viên. Washington, DC: Ngân hàng Thế giới.

  5. Baeten J M. 2016. Có ảnh hưởng đến điều trị dự phòng trước khi phòng ngừa nhiễm HIV. Tạp chí Bệnh truyền nhiễm 214 (12): 1787 Từ89. [Bài viết miễn phí PMC: PMC5142083] [PubMed: 27418049]: PMC5142083] [PubMed: 27418049]

  6. Baeten J M, Donnell D, Ndase P, Mugo N R, Campbell J D. Những người khác. 2012. Điều trị dự phòng kháng vi -rút đối với phòng chống HIV ở nam giới và phụ nữ dị tính. Tạp chí Y học New England 367 (5): 399 Từ410. [Bài viết miễn phí PMC: PMC3770474] [PubMed: 22784037]: PMC3770474] [PubMed: 22784037]

  7. Baral S, Beyrer C, Muessig K, Poteat T, Wirtz A L. Những người khác. 2012. Gánh nặng HIV của các nữ sinh viên tình dục nữ ở các nước có thu nhập thấp và trung bình: một tổng quan hệ thống và phân tích tổng hợp. Các bệnh truyền nhiễm Lancet 12 (7): 538 Từ49. [PubMed: 22424777]: 22424777]

  8. Baral S, Sifakis F, Cleghorn F, Beyrer C. 2007. Tăng nguy cơ nhiễm HIV ở những người đàn ông quan hệ tình dục với nam giới ở các nước thu nhập thấp và trung bình 2000. PLOS Y học 4 (12): E339. [Bài viết miễn phí PMC: PMC2100144] [PubMed: 18052602]: PMC2100144] [PubMed: 18052602]

  9. Bloom B R, Atun R, Cohen T, Dye C, Fraser H. Những người khác. 2017. Tuberculosis. Trong các ưu tiên kiểm soát bệnh, các bệnh truyền nhiễm lớn (Phiên bản thứ ba): Tập 6, được chỉnh sửa bởi Holmes K K, Bertozzi S, Bloom B R, JHA P, biên tập viên. Washington, DC: Ngân hàng Thế giới.

  10. Burnett S M, Mbonye M K, Martin R, Ronald A, Zawedd-Muyania S. Những người khác. 2016. Hiệu quả của hỗ trợ tại chỗ đối với thực hành trong phòng thí nghiệm đối với virus gây suy giảm miễn dịch ở người, bệnh lao và xét nghiệm sốt rét. Tạp chí bệnh lý lâm sàng Hoa Kỳ 146 (4): 469 Từ77. [PubMed: 27686173]: 27686173]

  11. Canchihuaman F A, García P J, Gloyd S. S, Holmes K K. 2011. Một khóa học giáo dục thường xuyên dựa trên Internet tương tác về các bệnh lây truyền qua đường tình dục cho các bác sĩ và nữ hộ sinh ở Peru. PLOS ONE 6 (5): E19318. [Bài viết miễn phí PMC: PMC3090386] [PubMed: 21573054]: PMC3090386] [PubMed: 21573054]

  12. CDC (Trung tâm kiểm soát và phòng ngừa dịch bệnh Hoa Kỳ). 1993. Khuyến nghị của Lực lượng đặc nhiệm quốc tế về loại bỏ bệnh tật. Tỷ lệ mắc bệnh và tử vong hàng tuần Báo cáo 42 (RR-16): 8.

  13. Chalker J, Chuc N T K, Falkenberg T, Do N T, Tomson G. 2000. Quản lý STD của các nhà thuốc tư nhân ở Hà Nội: Thực hành và kiến ​​thức của người bán ma túy. Nhiễm trùng lây truyền qua đường tình dục 76 (4): 299 Từ302. [Bài viết miễn phí PMC: PMC1744190] [PubMed: 11026888]: PMC1744190] [PubMed: 11026888]

  14. Chesson H W, Mayaud P, Aral S O. 2017. Nhiễm trùng lây truyền qua đường tình dục: Tác động và hiệu quả chi phí của phòng ngừa. Trong các ưu tiên kiểm soát bệnh, các bệnh truyền nhiễm lớn (Phiên bản thứ ba): Tập 6 do Holmes K K, Bertozzi S, Bloom B R, JHA P, biên tập viên chỉnh sửa. Washington, DC: Ngân hàng Thế giới.

  15. Crump J, Newton P N, Baird S J, Lubell Y. 2017. Bệnh sốt sốt ở thanh thiếu niên và người lớn. Trong các ưu tiên kiểm soát bệnh, các bệnh truyền nhiễm lớn (Phiên bản thứ ba): Tập 6, được chỉnh sửa bởi Holmes K K, Bertozzi S, Bloom B R, JHA P, biên tập viên. Washington, DC: Ngân hàng Thế giới.

  16. Dodd P J, Garnett G. P, Hallett T B. 2010. Kiểm tra lời hứa loại bỏ HIV bằng ‘xét nghiệm và điều trị trong các cơ sở siêu kinh. AIDS 24 (5): 729 Từ35. [Bài viết miễn phí PMC: PMC2852517] [PubMed: 20154580]: PMC2852517] [PubMed: 20154580]

  17. Du L, You J, Nicholas K M, Cichewicz R H. 2016. Các sản phẩm tự nhiên chemoreactive có khả năng kháng kháng sinh và độc tố khác nhau. Angewandte Chemie International Edition 18 (55): 4220 Từ25. [Bài viết miễn phí PMC: PMC4959538] [PubMed: 26928999]: PMC4959538] [PubMed: 26928999]

  18. Fitzpatrick C, Nwankwo U, Lenk E, De Vlas S, Bundy D. 2017. Một trường hợp đầu tư để chấm dứt các bệnh nhiệt đới bị bỏ quên. Trong các ưu tiên kiểm soát bệnh, các bệnh truyền nhiễm lớn (Phiên bản thứ ba): Tập 6, được chỉnh sửa bởi Holmes K K, Bertozzi S, Bloom B R, JHA P, biên tập viên. Washington, DC: Ngân hàng Thế giới. [PubMed: 30212103]: 30212103]

  19. Fitzpatrick M C, Floyd K. 2012. Một đánh giá có hệ thống về chi phí và hiệu quả chi phí của điều trị cho bệnh lao đa kháng thuốc. Dược phẩm dược lý 30 (1): 63 Mạnh80. [PubMed: 22070215]: 22070215]

  20. Foster A L, Gaisa M M, Hijdra R M, Turner S S, Morey T J. Những người khác. 2017. Viêm virus viêm gan C vào trực tràng của những người đàn ông nhiễm HIV có quan hệ tình dục với nam giới. Bệnh truyền nhiễm lâm sàng 64 (3): 284. [PubMed: 28013267]: 28013267]

  21. García P J, Carcamo C P, Garnett G P, Campos P E, Holmes K K. 2012. Quản lý hội chứng STD cải tiến bởi một mạng lưới các bác sĩ lâm sàng và nhân viên dược ở Peru: Mạng lưới Preven. PLOS Một 7 (10): E47750. [Bài viết miễn phí PMC: PMC3474757] [PubMed: 23082208]: PMC3474757] [PubMed: 23082208]

  22. Gomez G B, Borquez A, Case K K, Wheelock A, Vassall A, Hankins C. 2013. PLOS Y học 10 (3): E1001401. [Bài viết miễn phí PMC: PMC3595225] [PubMed: 23554579]: PMC3595225] [PubMed: 23554579]

  23. Gower E, Estes C, Blach S, Razavi-Shearer K, Razavi H. 2014. Dịch tễ học toàn cầu và phân bố kiểu gen của nhiễm virus viêm gan C. Tạp chí Gan 61 (1): S45 Từ57. [PubMed: 25086286]: 25086286]

  24. Grant R M, Lama J R, Anderson P L, McMahan V, Liu A Y. Những người khác. Năm 2010. Preexposeure Intremoprophylaxis để phòng ngừa HIV ở những người đàn ông quan hệ tình dục với nam giới. Tạp chí Y học New England 363 (27): 2587 Từ99. [Bài viết miễn phí PMC: PMC3079639] [PubMed: 21091279]: PMC3079639] [PubMed: 21091279]

  25. Hader S. 2017. (Ngăn chặn) Dịch bệnh sắp tới: HIV ở tuổi trẻ. Trình bày về Hội nghị thường niên về retrovirus và nhiễm trùng cơ hội (Croi), Seattle, WA, ngày 15 tháng 2.

  26. Harrison O B, Cole K, Peters J, Cresswell F, Dean G. Những người khác. 2017. Phân tích bộ gen của các phân lập ureoridis neisseria neisseria cho thấy các bệnh não mô cầu hyperococci được đóng gói và gonococci đa dạng trùng khớp. Nhiễm trùng lây truyền qua đường tình dục 2017 (tháng 1): 1 trận7. doi: 10.1136/sextrans-2016-052781. [Bài viết miễn phí PMC: PMC5574384] [PubMed: 28137933]: PMC5574384] [PubMed: 28137933]

  27. Hecht R, Jamison D T, Augenstein J, Partridge G, Thorien K. 2012. Nghiên cứu và phát triển vắc -xin. Trong Rethink HIV: Những cách thông minh hơn để đầu tư vào việc chấm dứt HIV ở châu Phi cận Sahara, được biên tập bởi Lomborg B, biên tập viên. 299 Từ320. New York: Nhà xuất bản Đại học Cambridge.

  28. Hutton G, Chase C. 2017. Cung cấp nước, vệ sinh và vệ sinh. Trong các ưu tiên kiểm soát dịch bệnh, phòng ngừa chấn thương và sức khỏe môi trường (phiên bản thứ ba): Tập 7, được chỉnh sửa bởi Mock C N, Kobusingye O, Nugent R, Smith K R, biên tập viên. Washington, DC: Ngân hàng Thế giới.

  29. Imani P. 2015. Hiệu quả của đào tạo bệnh truyền nhiễm tích hợp và hỗ trợ tại chỗ đối với việc quản lý các bệnh ở trẻ em ở Uganda: một thử nghiệm ngẫu nhiên cụm. Nhi khoa BMC 5 (13). [Bài viết miễn phí PMC: PMC4551363] [PubMed: 26315284]: PMC4551363] [PubMed: 26315284]

  30. Jamison D T, Breman J G, Synham A R, Alleyne G, Claeson M, Evans D B, Musgrove P. eds. 2006. Ưu tiên kiểm soát bệnh ở các nước đang phát triển, phiên bản thứ hai. Washington, DC: Ngân hàng Thế giới và Nhà xuất bản Đại học Oxford. [PubMed: 21250309]: 21250309]

  31. Jamison D T, Mosley W H, Synham A R, Bobadilla J. L. eds. 1993. Ưu tiên kiểm soát dịch bệnh ở các nước đang phát triển Washington, DC: Ngân hàng Thế giới và Nhà xuất bản Đại học Oxford. [PubMed: 21250309]: 21250309]

  32. Jamison D T, Nugent R, Gelband H, Horton S, JHA P, Laxminarayan R, Mock C. N. Eds. 2015 201518. Ưu tiên kiểm soát bệnh Phiên bản thứ ba. 9 tập. Washington, DC: Ngân hàng Thế giới.

  33. Jenness S M, Goodreau S M, Rosenberg E, Beylerian E N, Hoover K W. Những người khác. 2016. Tác động của các trung tâm kiểm soát dịch bệnh, hướng dẫn điều trị dự phòng Preexposeure của HIV đối với những người đàn ông quan hệ tình dục với nam giới ở Hoa Kỳ. Tạp chí Bệnh truyền nhiễm 214 (12): 1800 Từ07. [Bài viết miễn phí PMC: PMC5142082] [PubMed: 27418048]: PMC5142082] [PubMed: 27418048]

  34. Johnson A P, Woodford N. 2013. Tạp chí Vi sinh học Y khoa 62 (PT 4): 499 Từ513. [PubMed: 23329317]: 23329317]

  35. John-Stewart G, Peeling R W, Levin C, Garcia P J, Mabey D, Kinuthia J. 2017. Phòng chống lây truyền HIV và bệnh giang mai từ mẹ sang con. Trong các ưu tiên kiểm soát bệnh, các bệnh truyền nhiễm lớn (Phiên bản thứ ba): Tập 6, được chỉnh sửa bởi Holmes K K, Bertozzi S, Bloom B R, JHA P, biên tập viên. Washington, DC: Ngân hàng Thế giới.

  36. Kahn J G, Bollinger L, Stover J, Marseille E. 2017. Cải thiện hiệu quả của phản ứng chính sách HIV/AIDS: Hướng dẫn về mô hình phân bổ tài nguyên. Trong các ưu tiên kiểm soát bệnh, các bệnh truyền nhiễm lớn (Phiên bản thứ ba): Tập 6, được chỉnh sửa bởi Holmes K K, Bertozzi S, Bloom B R, JHA P, biên tập viên. Washington, DC: Ngân hàng Thế giới. [PubMed: 30212092]: 30212092]

  37. Katz I T, Wright A A. 2008. Cắt bao quy đầu Một chiến lược phẫu thuật để phòng ngừa HIV ở Châu Phi. Tạp chí Y học New England 359 (23): 2412 Từ15. [Bài viết miễn phí PMC: PMC3136162] [PubMed: 19052123]: PMC3136162] [PubMed: 19052123]

  38. Kippax S, Stephenson N. 2012. Vượt ra ngoài sự khác biệt giữa các khía cạnh y sinh và xã hội của phòng chống HIV thông qua lăng kính của một sức khỏe cộng đồng xã hội. Tạp chí Y tế Công cộng Hoa Kỳ 102 (5): 789 Từ99. [Bài viết miễn phí PMC: PMC3483918] [PubMed: 22493997]: PMC3483918] [PubMed: 22493997]

  39. Klein E Y, Makowsky M, Orlando M, Hatna E, Braykov N P. Người khác. 2015. Ảnh hưởng của nhà cung cấp và mật độ chăm sóc khẩn cấp trên các tầng lớp kinh tế xã hội khác nhau đối với việc kê đơn kháng sinh ngoại trú ở Hoa Kỳ. Tạp chí hóa trị liệu kháng khuẩn 70 (5): 1580 Từ87. [Bài viết miễn phí PMC: PMC4398474] [PubMed: 25604743]: PMC4398474] [PubMed: 25604743]

  40. Kratz M M, Weiss D, Ridpath A, Zucker J R, Geevarughese A. Những người khác. 2015. Sự bùng phát dựa trên cộng đồng của Neisseria meningitidis Serogroup C nhiễm trùng ở những người đàn ông có quan hệ tình dục với nam giới, Thành phố New York, New York, Hoa Kỳ 2010 2015. Bệnh truyền nhiễm mới nổi 21 (8): 1379 Từ86. [Bài viết miễn phí PMC: PMC4517726] [PubMed: 26197087]: PMC4517726] [PubMed: 26197087]

  41. Laxminarayan R, Van Boeckel T, Teillant A. 2015. Chi phí kinh tế để rút các chất kích thích tăng trưởng kháng khuẩn từ ngành chăn nuôi. Thực phẩm, Nông nghiệp và Thủy sản 78, Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế, Paris.

  42. Liang X, Bi S, Yang W, Wang L, Cui G. Những người khác 2009. Đánh giá về tác động của tiêm vắc -xin viêm gan B ở trẻ em được sinh ra trong năm 19922002005 ở Trung Quốc. Tạp chí Bệnh truyền nhiễm 200 (1): 39 Từ47. [PubMed: 19469708]: 19469708]

  43. Looker K J, Magaret A S, Turner K M E, Vickerman P, Gottliev S L. Những người khác. 2015. Ước tính toàn cầu về nhiễm virus loại 2 phổ biến và sự cố loại 2 trong năm 2012. PLOS Một 10 (10): E0140765. [Bài viết miễn phí PMC: PMC4624804] [PubMed: 26510007]: PMC4624804] [PubMed: 26510007]

  44. Madhav N, Oppenheim B, Galivan M, Mulembakani P, Rubin E, Wolfe N. 2018. Hợp chất: Rủi ro, tác động và giảm thiểu. Trong các ưu tiên kiểm soát bệnh, các ưu tiên kiểm soát bệnh: cải thiện sức khỏe và giảm nghèo (phiên bản thứ ba): Tập 9, được chỉnh sửa bởi Jamison D T, Nugent R, Gelband H, Horton S, JHA P, Laxminarayan R, Mock C N, biên tập viên. Washington, DC: Ngân hàng Thế giới.

  45. Millerpetrie M, Pant S, Laxminarayan R. 2017. Nhiễm trùng kháng thuốc. Trong các ưu tiên kiểm soát bệnh, các bệnh truyền nhiễm lớn (Phiên bản thứ ba): Tập 6, được chỉnh sửa bởi Holmes K K, Bertozzi S, Bloom B R, JHA P, biên tập viên. Washington, DC: Ngân hàng Thế giới.

  46. Mohapatra B, Warrell D A, Suraweera W, Bhatia P, D Breathra N. Những người khác. 2011. Tỷ lệ tử vong của Snakebite ở Ấn Độ: Một cuộc khảo sát tử vong đại diện trên toàn quốc. PLO bỏ qua các bệnh nhiệt đới 5 (4): E1018. [Bài viết miễn phí PMC: PMC3075236] [PubMed: 21532748]: PMC3075236] [PubMed: 21532748]

  47. Mokdad A H, Forouzanfar M H, Daoud F, Mokdad A A, El Bcheraoui C. Những người khác. 2016. Gánh nặng toàn cầu về bệnh tật, thương tích và các yếu tố nguy cơ đối với những người trẻ tuổi Sức khỏe trong năm 1990 2015 The Lancet 387 (10036): 2383 Từ401. [PubMed: 27174305]: 27174305]

  48. Nanduri S, Foo C, NGO V, Jarashow C, Civen R. Những người khác. 2016. Sự bùng phát của bệnh huyết thanh C Meningococcal chủ yếu ảnh hưởng đến những người đàn ông quan hệ tình dục với nam giới ở phía nam California. Tỷ lệ mắc bệnh và tử vong hàng tuần Báo cáo 65 (35): 939 Từ40. [PubMed: 27606798]: 27606798]

  49. Newman L, Rowley J, Vander S, Hoorn N S, Wijesooriya Unemo M. Những người khác. 2015. Ước tính toàn cầu về tỷ lệ lưu hành và tỷ lệ mắc bốn nhiễm trùng lây truyền qua đường tình dục có thể chữa khỏi năm 2012 dựa trên đánh giá có hệ thống và báo cáo toàn cầu. PLOS Một 10 (12): E0143304. [Bài viết miễn phí PMC: PMC4672879] [PubMed: 26646541]: PMC4672879] [PubMed: 26646541]

  50. Norheim O, Jha P, Admasu K, Godal T, Hum R. Những người khác. 2015. Tránh 40% số ca tử vong sớm ở mỗi quốc gia, 20103030: Đánh giá các xu hướng tử vong quốc gia để giúp định lượng mục tiêu phát triển bền vững của Liên Hợp Quốc về sức khỏe. The Lancet 385 (9964): 239 Từ52. [PubMed: 25242039]: 25242039]

  51. Okeke I N, Klugman K P, Bhutta Z A, Duse A G, Jenkins P. Người khác. 2005. Kháng kháng sinh ở các nước đang phát triển. Phần II: Chiến lược ngăn chặn. Các bệnh truyền nhiễm Lancet 5 (9): 568 Từ80. [PubMed: 16122680]: 16122680]

  52. Owusu-edusei Jr K, Tao G, Gift T L, Wang A, Wang L. Những người khác. 2014. Hiệu quả chi phí của việc cung cấp thông thường tích hợp của sàng lọc HIV trước khi sinh và bệnh giang mai ở Trung Quốc. Bệnh lây truyền qua đường tình dục 41 (2): 103 Từ10. [PubMed: 24413489]: 24413489]

  53. Pretorius C, Stover J, Bollinger L, Bacaer N, Williams B. 2010. Đánh giá hiệu quả chi phí của điều trị dự phòng trước phơi nhiễm (PREP) và tác động của nó đối với việc lây truyền HIV-1 ở Nam Phi. Plos một 5 (11). [Bài viết miễn phí PMC: PMC2974638] [PubMed: 21079767]: PMC2974638] [PubMed: 21079767]

  54. Sánchez J, Gotuzzo E, Escamilla J, Carrillo C, Moreyra L. Những người khác. 1998. Nhiễm trùng lây truyền qua đường tình dục ở phụ nữ gái mại dâm: giảm do sử dụng bao cao su nhưng không phải do chương trình kiểm tra định kỳ hạn chế. Bệnh lây truyền qua đường tình dục 25 (2): 82 Ném89. [PubMed: 9518383]: 9518383]

  55. Schweitzer A, Horn J, Mikolajchot R T, Krause G, Ott J J. 2015. Ước tính về tỷ lệ nhiễm virus viêm gan B mãn tính trên toàn thế giới: Một tổng quan hệ thống về dữ liệu được công bố từ năm 1965 đến 2013. The Lancet 386 (10003): 1546 Từ55. [PubMed: 26231459]: 26231459]

  56. Shretta R, Liu J, Cotter C, Cohen J, Dolenz C. Những người khác. 2017. Loại bỏ sốt rét và loại bỏ. Trong các ưu tiên kiểm soát bệnh, các bệnh truyền nhiễm lớn (Phiên bản thứ ba): Tập 6, được chỉnh sửa bởi Holmes K K, Bertozzi S, Bloom B R, JHA P, biên tập viên. Washington, DC: Ngân hàng Thế giới.

  57. Smith J S, Gilbert P A, Melendy A, Rana R K, Pimenta J M. 2011. Tỷ lệ nhiễm papillomavirus ở người ở nam giới ở nam giới: một đánh giá toàn cầu. Tạp chí Sức khỏe vị thành niên 48 (6): 540 Từ52. [PubMed: 21575812]: 21575812]

  58. Stanaway J D, Flaxman A D, Naghavi M, Fitzmaurice C, Vos T. Những người khác. 2015. Gánh nặng toàn cầu về viêm gan virus từ năm 1990 đến 2013: Những phát hiện từ nghiên cứu về gánh nặng toàn cầu năm 2013. The Lancet 388 (10049): 1081 Từ88. [Bài viết miễn phí PMC: PMC5100695] [PubMed: 27394647]: PMC5100695] [PubMed: 27394647]

  59. Liên Hợp Quốc (Liên Hợp Quốc). 2015a. Nghị quyết được thông qua bởi Đại hội đồng vào ngày 25 tháng 9 năm 2015. Biến đổi thế giới của chúng ta: Chương trình nghị sự năm 2030 để phát triển bền vững. Nghị quyết A/RES/70/1, Đại hội đồng Liên Hợp Quốc, New York.

  60. Liên Hợp Quốc (Liên Hợp Quốc). 2015b. Báo cáo Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ 2015. New York: UN.

  61. UNAIDS (Chương trình Liên Hợp Quốc về HIV/AIDS). 2015. AIDS bởi các con số 2015. Tập sách, UNAIDS, Geneva.

  62. UNAIDS (Chương trình Liên Hợp Quốc về HIV/AIDS). 2016. Thống kê HIV toàn cầu. Tờ thông tin, tháng 11, UNAIDS, Geneva.

  63. Bộ Y tế và Dịch vụ Nhân sinh Hoa Kỳ. 2014. Hướng dẫn chăm sóc lâm sàng HIV/AIDS. Hướng dẫn tham khảo lâm sàng, Cục HIV/AIDS, Cơ quan quản lý tài nguyên y tế và dịch vụ Hoa Kỳ Bộ Y tế và Dịch vụ Nhân sinh, Rockville, MD.

  64. Van Boeckel T P, Gandra S, Ashok A, Caudron Q, Grenfall B T. Những người khác. 2014. Tiêu thụ kháng sinh toàn cầu năm 2000 đến 2010: Phân tích dữ liệu bán hàng dược phẩm quốc gia. Các bệnh truyền nhiễm Lancet 114 (8): 742 Từ50. [PubMed: 25022435]: 25022435]

  65. Verguet S, Laxminarayan R, Jamison D T. 2015. Tài chính công cộng toàn cầu về điều trị bệnh lao ở Ấn Độ: Phân tích hiệu quả chi phí mở rộng. Kinh tế y tế 24 (3): 318 Từ32. [PubMed: 24497185]: 24497185]

  66. Weaver M R, Burnett S M, Crozier I, Kinoti S N, Kirunda I. Những người khác. 2014. Cải thiện hiệu suất của cơ sở trong chăm sóc bệnh truyền nhiễm ở Uganda: Một nghiên cứu thiết kế hỗn hợp với các thành phần thử nghiệm ngẫu nhiên trước/POST và cụm. Plos một 9 (8). [Bài viết miễn phí PMC: PMC4136733] [PubMed: 25133799]: PMC4136733] [PubMed: 25133799]

  67. Ai (Tổ chức Y tế Thế giới). 2015. Đầu tư để vượt qua tác động toàn cầu của các bệnh nhiệt đới bị bỏ quên: người thứ ba báo cáo về các bệnh nhiệt đới bị bỏ quên. Geneva: Ai.

  68. Ai (Tổ chức Y tế Thế giới). 2016a. Báo cáo bệnh lao toàn cầu 2016. Geneva: Ai.

  69. Ai (Tổ chức Y tế Thế giới). 2016b. Nhiễm trùng lây truyền qua đường tình dục (STI). Tờ thông tin, người, Geneva.

  70. Ai (Tổ chức Y tế Thế giới). 2017. Ghana Ghana, Kenya và Malawi tham gia chương trình thí điểm vắc -xin sốt rét. Thông cáo tin tức, WHO, Geneva, ngày 24 tháng 4.

  71. Wilson D P, Donald B, Shattock A J, Wilson D, Fraser-Hurt N. 2015. Hiệu quả chi phí của việc giảm tác hại. Tạp chí quốc tế về chính sách dược phẩm 26 (Bổ sung 1): S5 Từ11. [PubMed: 25727260]: 25727260]

  72. Wilson D P, Taaffe J. 2017. Điều chỉnh đáp ứng HIV/AIDS tại địa phương đối với dịch HIV/AIDS tại địa phương. Trong các ưu tiên kiểm soát bệnh, các bệnh truyền nhiễm lớn (Phiên bản thứ ba): Tập 6, được chỉnh sửa bởi Holmes K K, Bertozzi S, Bloom B R, JHA P, biên tập viên. Washington, DC: Ngân hàng Thế giới.

  73. Winer R L, Hughes J P, Feng Q, Xi L F, Lee S K. Những người khác. 2012. Các yếu tố tỷ lệ lưu hành và nguy cơ đối với nhiễm trùng papillomavirus ở người gây ung thư ở phụ nữ giữa người trưởng thành có nguy cơ cao. Bệnh lây truyền qua đường tình dục 39 (11): 848 Từ56. [Bài viết miễn phí PMC: PMC3476060] [PubMed: 23064533]: PMC3476060] [PubMed: 23064533]

  74. Ngân hàng thế giới. 1993. Báo cáo phát triển thế giới 1993: Đầu tư vào sức khỏe. Washington, DC: Ngân hàng Thế giới và Nhà xuất bản Đại học Oxford.

  75. Ngân hàng thế giới. 2012. Con người, mầm bệnh và hành tinh của chúng ta: Tập 2, Kinh tế của một sức khỏe. Công việc kinh tế và ngành, Báo cáo 69145-GLB. Washington, DC: Ngân hàng Thế giới.

  76. Hội nghị sức khỏe thế giới. 2005. Quy định y tế quốc tế (2005). Geneva: Tổ chức Y tế Thế giới.

  77. Zhang Y, Lee B Y, Donohue J M. 2010. Sử dụng kháng sinh cứu thương và bảo hiểm thuốc theo toa ở người lớn tuổi. Lưu trữ nội khoa 170 (15): 1308 Từ14. [Bài viết miễn phí PMC: PMC3784024] [PubMed: 20696953]: PMC3784024] [PubMed: 20696953]

5 bệnh truyền nhiễm phổ biến nhất là gì?

Các bệnh truyền nhiễm phổ biến là gì?..
Cảm lạnh thông thường..
Cúm (cúm) ..
COVID-19..
Cúm dạ dày (viêm dạ dày ruột) ..
Hepatitis..
Virus hợp bào hô hấp (RSV) ..

3 bệnh truyền nhiễm hàng đầu là gì?

Nhiễm trùng nguy hiểm nhất thế giới, bao gồm bệnh lao, sốt rét và HIV/AIDS, đã được coi là bệnh truyền nhiễm "ba lớn" (BTID).Tuberculosis, Malaria and HIV/AIDS, have been considered as the "Big Three" infectious diseases (BTIDs).

5 bệnh giết người là gì?

Bài viết này nêu bật năm bệnh giết người-diarrhoea, sởi, ho gà, uốn ván và sốt.Diar-rhoea là nguyên nhân hàng đầu gây tử vong ở trẻ em ở thế giới thứ ba (191. Nó chịu trách nhiệm cho hơn một phần ba trong số 15 triệu trường hợp tử vong trẻ em ước tính cho năm 1987.

Các bệnh truyền nhiễm chính trên toàn thế giới là gì?

Đường dẫn nhanh..
Nhiễm trùng Campylobacter ..
Viêm gan A ..
Bệnh viêm gan B..
Viêm gan C ..
Coronavirus tiểu thuyết (Covid-19).
Cúm (cúm).
Measles..
Bệnh não mô cầu ..