Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585) Đây là phần cuối của bản trường thiên Sấm Trạng Trình, Sở Cuồng-Mai Lĩnh (1930), dài 487 câu. Phần đầu làm theo thể thơ lục bát. Phần cuối từ câu 395 là tiếng Hán Việt, ngoại trừ 8 câu từ 402-409 là bài thất ngôn bát cú chữ Nôm. Người viết sẽ giải từng đoạn theo khả năng hiểu biết của mình, và có thể sẽ cập nhật khi có ý tưởng mới. Bài viết có nhiều nhóm chữ màu xanh, là những link trực tiếp với một trang khác, dùng như dẫn chứng, hoặc đưa tới một đoạn khác trong bài. Hãy nhấn vào nếu muốn biết thêm thông tin. Căn bản, người viết không tin đây là sản phẩm của Trạng Trình, mà là một bài ‘diễn sấm’, (tức diễn bài sấm thành thơ, xem phụ chú 1) của một hậu nhân nào đó trong quá khứ, có thể trong thời Pháp thuộc, vì: – Phần chữ Hán Việt cuối bài, có độ khả tín cao hơn, vì đa số các đoạn theo khuôn khổ ngũ ngôn. Và rất dễ dàng để thấy đa số đây là những cặp câu, đối từ và ngữ nghĩa, tức là, khi giải, các từ loại phải đi với nhau (danh từ theo danh từ, động từ theo động từ, ..). Đây là một cách để xác định lại những chữ bị viết sai. Có nhiều người giải sấm trên các trang mạng nhất là các trang ở hải ngoại, tuy nhiên độ thuyết phục rất thấp do bị thiên kiến chính trị che lấp, lời giải thích một chiều, và đa số chấp ngữ (xem phụ chú 2). Người viết quan niệm, để có thể hiểu sấm rốt ráo, ta phải ở ngoài 2 bên, nhìn sự kiện một cách khách quan, không thiên vị. Vì bài sấm được viết với chữ quốc ngữ mẫu tự Latin, nên chắc chắn lỗi chính tả sẽ có. Nếu không cẩn thận xem xét từng chữ, thì lời giải sẽ đi theo một hướng khác. Phần sấm dưới đây (chữ đỏ) được copy trực tiếp từ bài Sấm Trạng Trình Toàn Tập của tác giả Nguyễn Thiên Thụ. Không hiểu ông đánh máy lại, hay copy từ cuốn sách, do đó không biết những lỗi chính tả (chữ xanh) này xuất hiện bao giờ. Người viết sẽ lướt qua phần chính tả, bằng cách so sánh với những chữ nghi ngờ với các bài viết trên mạng, hay những bản sấm khác. Bản sao ở Gia Hội Thư Trang có thêm phần chữ Hán, dịch từ âm Hán Việt, rất tiện dụng cho bài viết, tuy nhiên chưa được thẩm định, nên có nhiều chữ không đúng. Trước khi thử giải bài sấm, có lẽ chúng ta nên tìm hiểu đại ý mà bài sấm muốn nói đến. Không gì bằng xem đoạn 6 câu, được tác giả Lưu Văn Vịnh đánh giá “đây mới là bài sấm đích thực của Trạng Trình” đăng trong Việt Sử Siêu Linh: Bốc đắc Càn thuần quái hàm ý 8 đời sau thời Trạng Trình, chiến tranh sẽ xảy ra trên đất nước Việt Nam không dứt, cho đến khi các vì tinh tú tụ trên sông Bảo giang, thì vị đại nhân, tức thánh nhân, sẽ ra đời, Việt Nam sẽ trở thành trung tâm thế giới. Đây là giai đoạn gọi là Thượng Nguyên Thánh Đức. Ở miền Nam, các giáo phái Cao Đài, Hoà Hảo, Hồng Tâm, .. đều nói đến giai đoạn này, trực tiếp từ các vị giáo chủ, hay qua cơ bút (xem phụ chú 3). Và trước khi đến giai đoạn này, Hội Long Hoa sẽ được thành lập. Đây là thời ‘hạ nguơn’ hay ‘hạ nguyên’, có lẽ đang xảy ra trên toàn thế giới, bao gồm thiên tai, địa ách, dịch bệnh, chiến tranh cục bộ, khu vực rồi lan ra thành chiến tranh thế giới, .. Do vậy, bài sấm liên hệ rất nhiều đến tài liệu của các tôn giáo này, như đã giải thích một phần nào qua bài Thử Giải Bài Hố Hò Khoan Của Đức Huỳnh Phú Sổ, và Định Vị Bảo Giang. Những đoạn sấm phần Hán Việt của bản Sở Cuồng-Mai Lĩnh (1930), được Nguyễn Thiên Thụ đánh giá là bản chữ quốc ngữ xưa nhất, dù nguyên bản chữ Nôm chưa tìm được, cho là viết về giai đoạn hiện tại và tương lai, nhưng không theo một trình tự thời gian, mà lại lộn xộn, không hiểu vì lý do gì, hoặc ai làm. Và đặc biệt, ít nhất những câu đầu lại không thấy xuất hiện ở những bản sau, cho thấy có sự khác biệt rất lớn giữa những bản sấm, được “viết” bởi rất nhiều người, với nhiều mục đích, mà chính trị có lẽ là nguyên nhân. PHẦN GIẢI THÍCH Sấm Trạng Trình có rất nhiều chữ liên hệ đến 12 con giáp. Những chữ nêu đích danh các năm, tháng như Tý, Sửu, .. thì không thành vấn đề. Tuy nhiên những chữ như ‘long’, ‘xà’, .. chắc phải có ẩn ý gì đó, ngoài ý nghĩa tháng, năm. Ý nghĩa này có thể là biểu tượng, ví dụ như ‘long’ là vua, ‘xà’ là kẻ ác độc, hoặc gồm cả 2 (thời gian và biểu tượng). Có hai danh từ được nói đến trong các đoạn sấm: ‘thiên tử’ và ‘thánh nhân’, hàm ý có thể không phải để chỉ cùng một nhân vật. Người viết nghĩ thánh nhân chỉ là người phụ tá cho thiên tử, nhưng với sứ mạng rất lớn lao (xem phụ chú 4). Để tiện việc theo dõi, các phân đoạn được cài vào những page jumps ở đầu câu. Chỉ cần nhấn vào một câu đầu nào đó, sẽ dẫn đến đoạn muốn đọc. 395. Canh niên Tân phá Trở lên đầu trang Canh niên tàn phá (->tân) Chỉ 3 câu nhập này không chúng ta cũng thấy có vấn đề. Tại sao 3 câu, mà không phải 2 hoặc 4, như những đoạn theo sau? Có khả năng một câu bị mất không? (Nếu vậy, người viết nghĩ câu kế phải là ‘Lục thất miên diên‘ 六七綿延, tức triều đại ‘lục thất’ dài dặc liên miên, hay ‘Lục thất vĩnh yên’ 六七永安, tức triều đại ‘lục thất’ vĩnh viễn bình yên). Câu đầu, rất nhiều trang mạng viết ‘canh niên tân phá‘ chớ không phải ‘canh niên tàn phá’ như trên. Rõ ràng đây là lỗi chính tả. Hai câu sau, ta thấy các cặp ‘tuất hợi‘ của 12 con giáp, và ‘nhị ngũ‘ của các số, hay hào của quẻ Dịch. Do vậy, ở trên ‘canh’ và ‘tân’, một cặp trong thập can, rất hợp lý để đi với ‘tuất hợi’, để chỉ các năm Canh Tuất, Tân Hợi. Chữ “phá” là động từ, do vậy chữ “niên” cũng là động từ, 撚, nghĩa là giẩm, đạp, xua, đuổi, mới hợp lý về mặt ngữ vựng. Bản Hương Sơn (1950) dùng “canh tân tàn phá” cũng cùng ý nghĩa, và người viết thích hơn, vì các cặp chữ đều xuất hiện đầu câu. Như vậy, đoạn này được chỉnh lại: Canh niên Tân phá Canh niên Tân phá 庚撚辛破 Canh Tân tàn phá Tuất Hợi phục sinh 戌亥復生 Tuất Hợi phục sinh Nhị ngũ dư bình 二五餘平 2, 5 dư bình Chữ ‘nhị ngũ‘ được dùng 2 lần trong nguyên đoạn sấm này. Theo lý số, đây là hào 2 và 5 của các quẻ. Hào 2, âm, chỉ dân, trong khi hào 5, dương, chỉ vua (xem Tương Quan Giữa Các Hào). ‘Nhị ngũ‘ cũng có nghĩa là 2 lần 5, tức 10, và có lẽ là ý nghĩa trong đoạn này. (Xin xem thêm phần phụ chú 5). Câu này cũng có thể hiểu: Sau (dư, hậu) cuộc thư hùng của khối CS/TB (nhị: âm, Chấn, Đông; ngũ: dương, Đoài, Tây) sẽ thái bình (bình). Như vậy, bắt đầu bằng năm Canh/Tân nào đó, trải qua những biến cố lớn lao (giẩm đạp, xua đuổi, tàn phá), 10 năm sau đó, cho tới Canh Tuất 2030/Tân Hợi 2031 mới phục sinh. Hai năm đó có thể là Canh Tý 2020/Tân Sửu 2021. Tuy nhiên vì vị trí của chữ ‘Tân’ không nằm kế ngay sau ‘Canh’, có thể để chỉ 2 năm không liên tục nhau, mà phải trải qua một con giáp khác (như Canh Tý 2020, Tân Hợi 2031, hoặc Canh Tuất 2030, Tân Dậu 2041) mới đủ diễn tả sự tàn phá xảy ra (11 năm, tức ‘nhị ngũ dư‘). Cho dù giữ nguyên câu ban đầu ‘canh niên tàn phá‘, tức năm Canh sẽ có chiến tranh, hay một sự tàn phá nào đó, vì năm Canh gồm 2 số cuối là bội số của 10, thì cũng phải là Canh Tý 2020, hoặc trễ lắm là bắt đầu từ Canh Tuất 2030 để phải qua một chu kỳ 12 (nghĩa của chữ ‘dư‘, 10 dư tức hơn 10) năm nữa mới phục sinh. Đây vẫn còn trong thời hạ nguyên (1983-2044) (Xem ‘Chúng Ta Đang Sống Trong Thời Đại Hạ Nguyên‘). (Xin xem thêm phần phụ chú A). (Trở về tiểu mục lục phân đoạn) Long hổ xà đầu khởi chiến tranh (->vĩ) Đa số các bài trên mạng dùng ‘long vĩ‘, đối với ‘xà đầu‘ hợp lý hơn. Và ‘xứ xứ‘ tức khắp các nước, hơn là ‘tứ xứ’ nghĩa là 4 xứ, mặc dù hàm ý khắp các nước. Câu 2 có lẽ là chữ ‘khổ‘, chớ không phải ‘khởi’, theo ý nghĩa. Như vậy, đoạn này được chỉnh lại: Long vĩ xà đầu khởi chiến tranh Đoạn này nói về Thế Chiến Thứ 3. Xin xem bài “Đệ Tam Thế Chiến” và phụ chú 6 để chiêm nghiệm. Long vĩ xà đầu khởi chiến tranh 龍尾蛇頭起戰爭 Đuôi rồng đầu rắn khởi chiến tranh – Đa số cho rằng đây chỉ thời gian: cuối năm Thìn, đầu năm Tỵ, tức khoảng 4 tháng. Tại sao phải cần khoảng thời gian như vậy để khởi chiến tranh? Và tại sao phải dùng 2 mốc thời gian? Tại sao không phải một để chỉ không gian, và một để chỉ thời gian mới rõ ràng hơn?Người viết cho rằng đây để chỉ trận chiến Thất Sơn, gồm những ngọn núi cuối cùng thuộc dãy Trường Sơn, phát nguyên từ tổ long Hy Mã Lạp Sơn, do vậy nên gọi là ‘long vĩ‘ (đuôi rồng), và ‘xà đầu‘ là can đầu của năm Tỵ, tức Ất Tỵ 2025. Thất Sơn trong các đạo giáo miền Nam được gọi là Non Tần, và Tần để chỉ nước Miên, là nơi sẽ xảy ra trận chiến bởi 18 nước tranh giành châu báu khi những ngọn núi này nổ (xem nguồn). Can qua xứ xứ khổ đao binh 干戈處處苦刀兵 Can qua mọi xứ khổ đao binh – Lôi kéo tất cả các nước trên thế giới vào cuộc Thế Chiến Thứ 3, mọi nơi sẽ đau khổ nạn binh đao. Mã đề dương cước anh hùng tận 馬啼羊腳英雄盡 Móng ngựa chân dê anh hùng tận – Ngựa là hình tượng chiến tranh, dê là hình tượng tế thần, tức chỉ sự chết chóc. Móng, chân: chỉ sự giẩm đạp, dày xéo. Anh hùng để chỉ những người chiến sĩ trong trận mạc. Những năm Ngọ, Mùi, chiến tranh sẽ huỷ hoại phần lớn trai trẻ. Thân Dậu niên lai kiến thái bình 申酉年來見太平 Đến năm Thân Dậu thấy thái bình – Mới có dấu hiệu thái bình từ các năm Thân Dậu, ví dụ như các trận chiến thưa dần. (Xin xem thêm phần phụ chú B). (Trở về tiểu mục lục phân đoạn) 402. Bài thất ngôn bát cú tiếng Nôm này được biết là bài thơ Thế Sự của Nguyễn Bỉnh Khiêm, được tác giả bài sấm đặt vào đây chắc có thâm ý. Người viết cho rằng để ám chỉ những sự kiện xảy ra trên thế giới và chủ yếu là Việt Nam từ Thế Chiến Thứ 2 cho đến 1954. Non đoài vắng vẻ bấy nhiêu lâu Có một đàn xà đánh lộn nhau Vượn nọ leo cành cho sỉ bóng Lợn kia làm quái phải sai đầu Chuột nọ lăm le mong cắn tổ Ngựa kia đủng đỉnh bước về tầu Hùm ở trên rừng gầm mới dậy Tìm về quê cũ bắt ngựa tầu. (Xin xem thêm phần phụ chú C). 410. Có rất nhiều giải thích về đoạn này. Đa số cho rằng đây là sự kiện quân Việt Minh kéo về Hà Nội năm 1945 (link). Có ý kiến cho rằng đây là giai đoạn quân giải phóng chiếm Sàigòn 1975 (link, phần, 10 thoughts on “Sấm Trạng Trình toàn tập”). Và có người cho đây là những sự kiện xảy ra trong tương lai (link). Hãy xem bản Trình Công Ngữ Vịnh Thái Bình có phần chữ Nôm, để xem sự tam sao thất bổn của đoạn này, có ý nghĩa gần như tương phản, khiến người viết không biết phải tin bản nào: Cửu cửu Càn Khôn định Tuy nhiên, người viết vẫn tin tưởng đây chỉ giai đoạn tương lai, sẽ xảy ra tại vùng Thất Sơn. Bốn câu này tương đương với 2 câu ở bài lục bát dưới “Kiền khôn phú tái vô lương, Đào viên đỉnh phí quần dương tranh hùng“. ‘Hồ binh’ thường mang ý nghĩa xấu, mà người tàu dùng để chỉ quân ngoại xâm người Hồ ở phía Bằc, Tây Bắc TQ. Trong trường hợp này, chữ lại dùng để chỉ quân TQ, Tây dương và các nước tham dự trận Thất Sơn. Có thể thấy đoạn 15 câu từ đầu (không kể bài thất ngôn bát cú Thế Sự chữ Nôm), những thông báo về thời gian và sự kiện xảy ra liên tục: Thìn Tỵ (long vĩ xà đầu), Ngọ Mùi (mã đề dương cước), Thân Dậu (thân dậu niên lai), Tuất Hợi (tuất hợi phục sinh): chiến tranh, chết chóc, dấu hiệu thái bình và phục sinh. Đây là giai đoạn mà Đức Huỳnh Phú Sổ, trong bài Vén Màn Bí Mật, gọi là “Năm năm lục ngoạt cơ hàn thừ” (cuối Thìn và đầu Hợi). Cửu cửu kiền khôn dĩ định 九九乾坤已定 Chín chín càn khôn đã định – Cửu: là số 9 trong hệ thống thập phân, là số cuối cùng để chuyển qua một dãy số mới bắt đầu từ 0, để chỉ sự chấm dứt của một sự kiện lớn lao gì đó. Câu có 2 chữ cửu, tức có 2 sự kiện trọng đại sẽ xảy ra trên đất nước Việt Nam, cho dân tộc Việt Nam, có lẽ khi chúng ta mất đi chủ quyền. (1) Chữ thứ nhất chỉ cuộc chiến thắng Pháp ở Điện Biên Phủ năm Giáp Ngọ 1954 giành lại độc lập, chấm dứt sự đô hộ gần trăm năm của thực dân, rồi sau đó là chiến tranh với Mỹ để thống nhất đất nước 1975. (2) Chữ thứ hai dành cho giai đoạn tương lai. Thanh minh thời tiết hoa tàn 清明時節花殘 Thanh minh thời tiết hoa tàn – Thanh minh: trong sáng, không còn u tối. Thời: lúc. Thanh minh thời: về thời gian để chỉ tháng 3 âm lịch. Tiết 洩: tiết chế, kềm hãm. Hoa: tinh hoa, văn minh. Tàn: tàn lụi, thua cuộc. (1) Đế quốc Pháp được đánh giá là một đất nước văn minh, có lực lượng quân sự thành công nhất trong lịch sử từ 1495 (nguồn 1, và 2). Và Mỹ sau Thế Chiến Thứ 2 là nước hùng mạnh nhất gần như về mọi phương diện. Việt Nam đã thắng hai đế quốc này một cách oanh liệt (đều diễn ra ở tháng 3 âm lịch), và rõ ràng sau đó những nước này bắt đầu đi xuống, không còn hùng mạnh như xưa. Sau 1975, Việt Nam thật sự được độc lập, thống nhất, bắt đầu cho giai đoạn không còn chiến tranh ít nhất là gần 5 thập kỷ qua. (2) Đây là giai đoạn gọi là thời Thượng Nguyên Thánh Đức, tinh hoa nhân loại của thời hiện tại sẽ bị tàn lụi, để thay thế bằng một nền văn minh chú trọng về đạo đức. Trực đáo dương đầu mã vĩ 直到羊頭馬尾 Thẳng đến đầu dê đuôi ngựa – Trực đáo: thẳng đến, đến liền (1) Dương 羊: dê, đồng âm với dương 洋: biển, để chỉ các nước phương Tây. Đầu: thủ lĩnh, trùm. Dương đầu: thủ lĩnh của thế giới phương Tây để chỉ Mỹ. Mã: ngựa, và vĩ: đuôi, hàm ý sau năm Giáp Ngọ 1954, tức sau khi Pháp thất trận Điện Biên Phủ, Mỹ liền thay Pháp nhảy vào tiếp tục cuộc chiến tranh. (2) Có thể đỉnh điểm thời gian quân giặc xâm lấn VN vào cuối năm Ngọ, đầu Mùi, hoặc là đỉnh điểm của chết chóc (như ‘Mã đề dương cước anh hùng tận‘). Các nước đang có chiến thuyền ngoài biển (dương: 洋) đến trước (đầu), các nước gần biên giới VN đem xe tăng, bộ binh (mã) đến sau (vĩ). Ngoài ra, ‘mã dương’, tức ngựa dê, cùng loài, ám chỉ ‘quần dương’ như trong ‘Đào viên đỉnh phí quần dương tranh hùng‘ ở phần cuối. Hồ binh bát vạn nhập trường an 胡兵八萬入長安 Binh Hồ tám vạn vào kinh – Trường An từng là kinh đô của nhiều triều đại TQ. Hồ: là người phương Bắc của TQ, luôn gây khó khăn cho các triều đại. Sấm mượn chữ để chỉ (1) thủ đô miền Nam, hay rộng ra là miền Nam trước 1975, và (2) kinh đô Việt Nam tương lai thuộc địa phận Thất Sơn-Cửu Long. (1) Để chỉ 8 nước tham gia cuộc Chiến Tranh Việt Nam gồm: Mỹ, Campuchia, Lào, Thái, Phillippines, Hàn quốc, Úc và Tân Tây Lan (2) Binh 18 nước vào Thất Sơn. Trường An từng là kinh đô của TQ qua 13 triều đại, còn có tên gọi khác là Nam Kinh, tức kinh đô phía Nam, và Kim Lăng 金陵, nghĩa là mộ vàng. Nhà Tần 秦 gọi mả vua là sơn 山, nhà Hán 漢 gọi là lăng 陵. Đây ám chỉ vùng núi non Thất Sơn (xem phụ chú 7). (Trở về tiểu mục lục phân đoạn) Bảo Giang thiên tử xuất Bảo giang thiên tử xuất 寳江天子出 Sông quí vua xuất hiện – Xem bài “Định Vị Bảo Giang“. Bất chiến tự nhiên thành 不戰自然成 Không đánh cũng tự thành Lê dân đào bão noãn 犁民醄飽煖 Dân đen vui no ấm Tứ hải lạc âu ca 四海樂謳歌 Bốn biển vui hát ngâm (Trở về tiểu mục lục phân đoạn) Dục thức thánh nhân hương Dục thức thánh nhân hương 欲識聖人鄕 Muốn biết quê thánh nhân – Quê quán hàm nghĩa gốc tích. Quá kiều cư Bắc phương 過橋居北方 Qua cầu về phương Bắc – Nhiều người cho rằng Bắc phương là miền Bắc VN, không hiểu có phải vì tính địa phương hay là một lý do nào đó, do vậy không thể giải nghĩa chữ Bảo giang rốt ráo. Phương nghĩa là hướng, Bắc phương là hướng bắc một nơi nào đó. Qua cầu ở hướng bắc, như vậy cây cầu phải duy nhất và có ý nghĩa lịch sử. Nổi tiếng là cầu Hiền Lương và Tràng Tiền. Tuy nhiên với hai cầu này thì khó định được hương quán của thánh nhân. Theo thiển ý, Trạng cố ý lắc léo trong câu này. Qua cầu tức là qua sông. Qua sông phải đi từ hướng Nam tới Bắc chớ không phải hướng khác. Như vậy sông phải chảy theo hướng Tây-Đông hay Đông-Tây hoặc gần như vậy. Đây chính là Bảo giang, là sông Vàm Nao nối liền hai sông Tiền và Hậu giang. Xin xem “Định Vị Bảo Giang“. Danh vi Nguyễn gia tử Kim tịch sinh Ngưu lang (Trở về tiểu mục lục phân đoạn) Thượng đại nhân bất nhân Vai trò của vị thánh nhân? Thượng đại nhân bất nhân Thánh ất dĩ vong ân 聖乙已忘恩 Thánh ất trừ vong ân – Vị thánh đó (ất) không chấp nhận, dung túng (dĩ) bọn vong ân. – Tự điển: (Danh) Viết có chỗ mất, ngoặc cái dấu 乙 để chữa cũng gọi là ất. Có phải một chữ bị mất trong nguyên bản? Bạch hổ kim đai ấn 白虎今帶印 Cọp trắng nay đai ấn – Hổ trắng là hình ảnh của đấng minh quân, đồng thời tượng trưng cho sức mạnh, uy quyền của vị tướng quân dũng mãnh, can trường (xem Hình Tượng Con Hổ Trong Văn Hóa). Trong chữ sỉ (褫 ) có chữ hổ (虎), như vậy Bạch hổ tức là Bạch Sỉ, hay Bạch Xỉ (齒, răng), hay Bạch Sĩ (士) qua luật đồng âm. Thất thập cổ lai xuân 七十古來春 Bảy mươi xưa đến xuân – ‘Thất thập‘ có lẽ hàm ý giống như Khương Tử Nha lúc 72 tuổi mới gặp Văn Vương, mới thật sự đem tài năng ra thi thố với đời, giống như cây cỏ gặp mùa xuân. (Xem Khương Tử Nha Và Những Thời Điểm Cùng Cực Trong Cuộc Đời và ‘Tứ Bửu Linh Tự‘). Đây cũng là khoảng thời gian Đức Huỳnh Phú Sổ ẩn dạng từ biến cố 1947. Bàn thêm về đoạn này: Theo luận giải của bài Sấm Trạng Trình – Thầy Nhân Thập, thì đây là đoạn để chỉ trách nhiệm của ngài. Đoạn có 4 chữ nhân 人 (bộ nhân 人 trong các chữ 代 đại, 仁 nhân, 今 kim, 來 lai), và chữ thập 十. Chữ xỉ 齒 cũng có 4 chữ nhân 人. Những hạng người bất nhân và vong ân chắc chắn sẽ không tồn tại sau Hội Long Hoa. (Trở về tiểu mục lục phân đoạn) Bắc hữu kim thành tráng Đoạn này, bản Anh Phương và Trịnh Văn Thanh (xem Sấm Trạng Trình Toàn Tập) chỉ giống 2 câu đầu, gợi ý rằng có thể các đoạn sấm ngũ ngôn được thiết lập chỉ 2 câu. Rõ ràng đoạn có 2 cặp câu đối nhau. Trong “Tận Thế và Hội Long Hoa”, phần Thiên Thơ (link) của tác giả Vương Kim, cho rằng Kim Thành là huyệt ở Thất Sơn, Ngọc Bích là huyệt ở Bà Rịa. Điều này khó thể xảy ra vì Thất Sơn-Bà Rịa chạy theo hướng Tây-Đông. Vả lại, ở Bà Rịa núi Kỳ Vân là huyệt Bích Ngọc, chớ không phải Ngọc Bích. Người viết nghĩ rằng đây là giai đoạn sau Hiệp định đình chiến Geneva 20/7/1954, nước Việt Nam bị những thế lực Tây phương chia cắt thành 2 miền Bắc Nam. Cụ thể là giai đoạn 1954 đến 1963. Xem phụ chú 8. Bắc hữu kim thành tráng Nam tạc ngọc bích thành 南鑿玉璧城 Nam đắp tường ngọc theo – Miền Nam tạo lập một bức tường đẹp đẽ với Sàigòn được mệnh danh là ‘hòn ngọc Viễn Đông’. Ngọc là vật xa hoa, làm dáng, dễ vỡ. Tường dùng để bao bọc chung quanh khu nhà lớn, trong trường hợp này là ám chỉ các thành phố ở miền Nam. Rõ ràng rất dễ nhận thấy thời VNCH, an ninh chỉ ở phạm vi các thành phố. Nếu bảo rằng ‘kim thành‘ là bức thành trì xã hội chủ nghĩa bao bọc miền Bắc, thì giai đoạn này, ở miền Nam, các hàng rào ấp chiến lược cũng đang được dựng lên, tức là ‘ngọc bích‘. Chữ ‘thành‘ 城: (v) đắp thành, động từ đối với ‘tráng‘ câu trên. ‘Tạc‘ hàm ý bắt chước (theo khuôn mẫu). Hỏa thôn đa khuyển phệ 火村多犬吠 Thôn lửa nhiều chó sủa – Thôn: một đơn vị hành chánh nhỏ, làng xóm, hoả: lửa, tức hành hoả trong ngũ hành, chỉ phương Nam. “Hỏa thôn” ám chỉ miền Nam VN. “Khuyển“, như đã giải trong bài “Giai Đoạn Cận Đại VN” chỉ những người TCG VN. Nguyên câu hàm ý miền Nam VN phải sống dưới sự ảnh hưởng, áp lực của TCG tức thời VNCH. (Vì khi đàn chó sủa, mọi người ai cũng phải lắng nghe để định xem chuyện gì đang xảy ra). Mục giả dục nhân canh 牧者欲人耕 Kẻ chăn cầu người cày – Mục giả: người chăn, chỉ giới linh mục TCG. Dục: muốn, dục: 浴, tắm gội, một hình thức rửa tội của TCG. Đây là giới TCG muốn công giáo hoá nông dân miền Nam. (Trở về tiểu mục lục phân đoạn) 430. Có lẽ để chỉ những giai đoạn mà thế giới, con người chúng ta sẽ trải qua từ thời cuối hạ nguyên, cho tới chu kỳ của thượng nguyên tới. Phú quí hồng trần mộng 富貴紅塵夢 Giàu sang bụi hồng mộng – Hồng trần: bụi hồng, thế tục, cõi đời, nơi phồn hoa náo nhiệt. Giai đoạn hiện tại của chúng ta đang sống, giàu mạnh về của cải vật chất. Bần cùng bạch phát sinh 貧窮白髮生 Nghèo hèn tóc trắng sinh – Bạch phát: tóc trắng. Kế tiếp là giai đoạn nghèo đói, có thể từ thiên tai, địa ách, dịch bệnh, khiến nền kinh tế các nước kiệt quệ. Anh hùng vương kiếm kích 英雄迋剑戟 Anh hùng đến kiếm kích – Vương: đi tới, đến. Kiếm kích: vũ khí sát thân. Giai đoạn chiến tranh theo qui luật cá lớn nuốt cá bé, cuối cùng là thế chiến. Manh cổ đổ thái bình 盲瞽睹太平 Người mù thấy thái bình – Manh cổ: người mù, không bị sắc dục chi phối. Chỉ những ai sống như người mù tức không bị vật dục chi phối, luôn tu tỉnh, sẽ có cơ hội thấy thái bình thời Thượng Nguyên Thánh Đức. Bàn thêm về câu 1 và 2: phú quí tức nhiều, hồng (huyết mẹ) chỉ âm, bần cùng tức ít, bạch (tinh cha) chỉ dương. Đây là giai đoạn âm thịnh dương suy tức thời hạ nguyên này. (Trở về tiểu mục lục phân đoạn) Nam Việt hửu Ngưu tinh (->hữu) Đoạn này nói về vùng thánh địa tương lai. Xem phụ chú 9. Nam Việt hữu Ngưu tinh 南越有牛精 Nam Việt có Ngưu tinh – Rõ ràng Trạng viết Nam Việt, tức miền Nam nước Việt. Như vậy Ngưu tinh xuất hiện ở miền Nam, chứng minh Bảo giang ở miền Nam chớ không phải ở miền Bắc như nhiều người cố giải. Ngưu tinh là sao chủ mạng của dân Việt tương lai. Ám chỉ vùng đồng bằng sông Cửu Long. Quá thất thân thủy sinh Ðịa giới xỉ vị bạch 地界齒未白 Địa giới răng chưa lộ – Đây là khu vực Bảo giang để chỉ vùng đất, hay đúng hơn là một đại cù lao, bao bọc bởi các sông Tiền Giang, Vàm Nao, Hậu Giang và Kinh Xáng. Nhìn giống như chiếc răng với chân ở Vàm Nao, đầu là Kinh Xáng. Vì bị các dòng nước bao quanh, nên nhìn như chiếc răng chưa mọc (lộ). Xin dùng google map để nhìn vùng sông Vàm Nao. Còn nếu nhìn rộng hơn là toàn miền Tây, với ranh giới mặt Tây Nam giáp Campuchia, Bắc là dòng sông Cửu Long đi theo hướng Tiền giang, và phần còn lại tiếp giáp với biển, với chân răng là mũi Cà Mau. Thủy trầm nhĩ bất kinh 水沈耳不驚 Nước chìm tai chẳng kinh – Hàm ý: nước tới lổ tai nhưng không sợ vì quen rồi. Có lẽ là nghĩa này để chỉ quê hương thánh nhân “thuỷ trung“. Đây là hiện tượng mùa nước nổi ở miền Tây, nhất là các tỉnh An Giang, Châu Đốc. Xem phụ chú 10. (Trở về tiểu mục lục phân đoạn) Ký mã xu dương tẩu Giai đoạn Việt Nam cận đại từ 1954 tới nay. Ký mã khu dương tẩu 驥馬驅羊走 Ngựa ký đuổi dê chạy Phù kê thăng khuyển minh 扶雞升犬鳴 Chó sủa gà phù thăng Trư thử giai phong khởi 猪鼠佳風起 Heo chuột gió lành khởi Thìn Mão xuất thái bình 辰昴出太平 Thìn Mão hiện thái bình Phần này xin xem “Giai Đoạn Cận Đại VN Trong STT” đã viết (Trở về tiểu mục lục phân đoạn) Phân phân tùng Bắc khởi Có lẽ là giai đoạn gần trước, cho đến khi Hội Long Hoa xảy ra. Xem phụ chú 11. Phân phân tùng Bắc khởi 紛紛從北起 Rối loạn theo Bắc khởi – Khởi từ phương Bắc (VN? TQ?), rối loạn (phân) này theo (tùng) rối loạn (phân) khác Nhiễu nhiễu xuất Ðông chinh 擾擾出東征 Nhiễu loạn xuất Đông chinh – Chinh chiến ở biển Đông, nhiễu loạn này làm ra (xuất) nhiễu loạn khác. Đây chính là Thế Chiến Thứ 3 mặt trận Thái Bình Dương Bảo sơn thiên tử xuất 寳山天子出 Núi quí vua xuất hiện – Ở trên đã nói ‘Bảo giang thiên tử xuất‘, bây giờ lại nói ‘Bảo sơn thiên tử xuất‘, tạo nhiều nghi vấn: 1. Bảo giang và Bảo sơn phải cùng một nơi. Chính vì lý do này, mà nhiều người tin rằng thiên tử sẽ xuất hiện vùng Thất Sơn/Cửu Long 2. Câu sau có thể hàm ý thiên tử xuất từ phái Bảo sơn, tức Bửu Sơn Kỳ Hương? Nếu nghĩ ‘thiên tử’ không phải là vua, mà là một vị con trời, tức trời sai xuống để làm một sứ mạng nào đó, thì điều này khả dĩ hợp lý. Bất chiến tự nhiên thành 不戰自然成 Chẳng đánh tự nhiên thành (Trở về tiểu mục lục phân đoạn) Thủy trung tàng bảo cái Quê hương thánh nhân ở đâu? Thủy trung tàng bảo cái 水中藏寳蓋 Trong nước ẩn lọng quí – Đây là hình tượng lá sen hay súng vì có cuống giống như thân cây lọng (cái). Để chỉ vùng nước nổi miền Tây với những cánh đồng mênh mông hoa súng (tiếng Hán thụy liên, tức sen ngủ). Bảo chỉ Phật, tàng tức đang ẩn để chờ thời cứu đời. Xem phụ chú 12. Hứa cập thánh nhân hương Mộc hạ châm châm khẩu 木下針針口 Dưới cây khâu cài miệng – Rất nhiều người giải theo lối chiết tự câu này. Hãy dùng google search trên mạng sẽ thấy nhiều lời giải khác nhau. Ở đây, do đã định vị Bảo giang, tức sông Vàm Nao, như vậy, câu này có liên hệ đến giáo phái Hoà Hảo hay không? Mộc hạ: nghĩa là dưới cây, chỉ phần gốc, rễ. Châm châm: chích chich (bằng mũi nhọn). Đây là hành động cấy lúa ngày xưa, và có lẽ vẫn còn tồn tại cho đến hôm nay, bằng cách dùng cái nọc cấy, hay có thể dùng vài ngón tay, đâm xuống đất bùn cho có lỗ nhỏ (khẩu), rồi nhét phần gốc rễ của lúa non (cũng là nghĩa của chữ ‘miêu‘ trong ‘gia miêu‘, gọi là mạ) xuống, hết cây này tới cây khác. Toàn bộ 4 chữ ‘mộc hạ châm châm‘ cho ta chữ ‘hoà‘ là lúa. Cộng thêm ‘khẩu‘ thành ‘hoà‘ (和). Bản khác: Danh thế xuất nan lường 名世出難量 Danh thế hiện khó lường – Tên ở thế gian xuất hiện một cách rất khó lường (hàm ý chẳng ai nghĩ tới). Câu trên chỉ mới cho ta được chữ hoà (和), nhưng chưa khẳng định ở đâu. Danh vi Nguyễn gia tử 名為阮家子 Tên gọi con nhà Nguyễn – Như đã bàn ở đoạn ‘Dục thức thánh nhân hương‘, tên đó là Gia Miêu, nghĩa là lúa tốt, Hán dịch ngược lại thành ‘hòa hảo‘ để chỉ vùng Hoà Hảo (和 好). Một chữ tử khác, 秄, gồm chữ hòa 禾 là lúa và tử 子, dịch nghĩa là hạt giống, hay động từ nghĩa là lấy đất lắp vào gốc lúa cho chắc, cũng dẫn đến Gia Miêu và Hòa Hảo. Tinh bản tại Ngưu lang 精本在牛郞
Sao mạng tại Ngưu lang (Trở về tiểu mục lục phân đoạn) 452. Hành trạng của 4 vị phật. Xin xem Sấm Trạng Trình – Thầy Nhân Thập. Mại dữ lê viên dưỡng 賣與棃園養 Bán cho vườn lê nuôi Khởi nguyệt bộ đại giang Hoặc kiều tam lộng ngạn Hoặc ngụ kim lăng cương (Trở về tiểu mục lục phân đoạn) Thiên dữ thần thực thụy Giai đoạn thiên tử xuất hiện Thiên dữ thần thực thụy 天與神殖瑞 Trời cùng thần dựng điềm Thụy trình ngũ sắc quang 瑞呈五色光 Điềm bày 5 sắc sáng – Theo quan niệm đông phương, khi các vị tiên phật giáng thế thì có mây ngũ sắc xuất hiện. Cũng có thể đây để chỉ các đền đài vàng ngọc lộ ra khi núi Cấm nổ (thụy còn nghĩa là ngọc). Kim kê khai lựu diệp Hoàng cái xuất quí phương 黄蓋出癸方 Lọng vua ở quí phương – ‘Quí‘ cũng đồng nghĩa với ‘bảo‘ 寶, và ‘phương‘ 芳: hương thơm của cỏ hoa, đồng nghĩa với ‘hương‘ 香, chữ đầu và cuối trong ‘Bửu Sơn Kỳ Hương‘. (Trở về tiểu mục lục phân đoạn) Nhân nghĩa thùy vi địch. Vị thánh vương là chân mệnh thiên tử. Chú ý đoạn này có các cặp câu đối từ và ngữ nghĩa. Nhân nghĩa thùy vi địch 仁義誰為敵 Nhân nghĩa khó ai địch Ðạo đức thục dữ đương 道德孰與當 Đạo đức chẳng ai đương Tộ truyền nhị thập ngũ 祚傳二十五 Ngôi truyền 25 đời Vận khải ngũ diên trường 運啓五延長 Vận mở 5 vạn năm – Vì thời Thượng Nguyên Thánh Đức con người sống rất thọ. (Họ Hồng Bàng với 18 đời Hùng Vương, 4000 năm). Đồng nghĩa với: Lục thất dư ngũ vạn xuân (Triều đại Lục Thất kéo dài trên 5 vạn năm). (Trở về tiểu mục lục phân đoạn) Vận đáo dương hầu ách Đây là chuyện tương lai, chỉ bàn chớ không nắm vững. Chưa chắc mọi người còn sống đến giai đoạn này để kiểm chứng. Vận đáo dương hầu ách 運到羊猴厄 Vận đến dê khỉ ách – Có thể là “Qua năm dê [Mùi] tới lúc mùa hè (tháng Thân 7), Trong bá tánh biết ai hữu chí” (Đức Huỳnh Phú Sổ)? (link). Trong ‘Dự Ngôn Của Lưu Bá Ôn Trên Bia Đá‘ có câu: ‘Cho dù là La Hán làm bằng đồng bằng sắt, khó qua ngày mười ba tháng Bảy‘. Tháng 7 là tháng Thân, chắc chỉ giai đoạn này. Đến tượng La Hán làm bằng đồng mà cũng không chịu nổi, có lẽ bị nạn lửa trời, hoặc bom hạch nhân. Chấn đoài cương bất trường 震兌綱不長 Đông Tây cứng không trường – Đông: CS, đỏ (hồng), âm, ma. Tây: TB, trắng (bạch), dương, quỷ. Hai thế lực dùng sức mạnh (cương) không trường thọ. Đồng nghĩa với ‘Đông Tây vô sự‘ ở câu chót. Quần gian đạo danh tự 群奸盜名字 Bầy gian trộm danh tự – Có lẽ nhiều người trộm xưng danh hiệu phật tiên để lừa người Bách tính khổ tai ương 百姓苦災殃 Trăm họ khổ tai ương – Người dân sẽ chịu đủ mọi thứ tai trời ách đất. Âu cũng là do con người tạo nghiệp làm ra. (Trở về tiểu mục lục phân đoạn) Can qua tranh đấu khởi Chiến Tranh Thế Giới 3 Can qua tranh đấu khởi 干戈争鬥起 Chiến tranh thế giới khời Phạm địch thán hung hoang 犯敵嘆兇荒 Phạm địch thán hung hoang – Kẻ thù (địch) xâm phạm (phạm) bờ cõi làm trăm họ ta thán (thán), bất an (hung), khắp nơi tan hoang (hoang) Ma vương sát đại quỉ 魔王殺大鬼 Vua ma giết quỉ lớn – Theo câu này thì thế lực CS (ma) sẽ thắng TB (quỷ). Xem phụ chú 13. Hoàng thiên tru ma vương 皇天誅魔王 Trời cao diệt vua ma – Cuối cùng trời cũng diệt bọn ma vương. (Trở về tiểu mục lục phân đoạn) Kiền khôn phú tái vô lường Trận chiến ở Thất Sơn, thánh vương cùng bầy tôi xuất hiện và kết quả Kiền khôn phú tái vô lường 乾坤覆載無量 Đất trời che chở không bao dung – Trong Bát quái, quẻ Kiền (hay càn) chỉ trời, quẻ Khôn chỉ đất. Hàm ý thiên phú: trời che, địa tái: đất chở, nhưng hình như không còn sức chứa nữa, tức mất thăng bằng, phải có cuộc thay đổi. Ðào viên đỉnh phí quần dương tranh hùng Núi ở Thất Sơn (đào viên) nổ, vạc (đỉnh) là vật truyền đời nắm giữ uy quyền của nước bá chủ (như ‘cửu đỉnh‘ của TQ từ thời Hạ Vũ) lộ ra (phí), các nước (quần dương) tranh giành (tranh hùng). Quần dương hàm ý đa số là các nước Tây phương. Bản Anh Phương dùng ‘phát‘ 發: (Động) hiện ra, lộ ra chớ không phải ‘phí‘, có lẽ đúng hơn. Người viết nghĩ chữ đỉnh 頂, tức đỉnh đầu, chỗ cao nhất để chỉ đỉnh núi thì hợp lý hơn. Cơ nhị ngũ thư hùng vị quyết Đảo Hoành sơn tam liệt ngũ phân Ta hồ vô phụ vô quân 嗟乎!無父無君 Than ôi! Không cha không vua – Ta ở vào tình trạng không còn người đứng đầu. Ðào viên tán lạc ngô dân thủ thành Ðoài phương phúc địa giáng linh 兌方福地降靈 Hướng Tây đất phúc giáng linh – Hướng Tây là hướng của Phật A Di Đà. Ý chỉ vị phật sẽ giáng linh ở đất phúc, tức vùng Bảo giang. Hướng này cũng còn gọi là hướng Dậu, ám chỉ phật sẽ xuất hiện năm Dậu. Cửu trùng thụy ứng long thành ngũ vân 九重瑞應龍成五雲 Điềm trời ứng thành rồng 5 sắc mây – Câu có chữ cửu và ngũ, chỉ bậc chí tôn. Long thành có lẽ là Núi Cấm. Mây ngũ sắc hiện trước ở long thành, đón chào vị minh chúa. Câu trên có bản viết ‘Đà giang phúc địa giáng linh‘, đà tức phật đà 佛佗, và đà giang tức Bảo giang, để chỉ sông Vàm Nao nối liền hai nhánh sông Tiền và Hậu giang Cửu Long (xem Định Vị Bảo Giang). Câu này có địa danh Cửu Long. Phá điền thiên tử giáng trần 破田天子降塵 Phá ruộng vua xuống trần – Nhiều người giải ‘phá điền‘ bằng cách chiết tự chữ ‘điền‘ để tìm vị thánh nhân. Nhưng người viết nghĩ rằng, ‘phá điền thiên tử‘, hàm nghĩa vị thiên tử phá điền, tức phá ruộng, tức cày ruộng, là công việc của con trâu, ám chỉ Ngưu tinh. Giáng trần hàm ý từ trên trời giáng xuống, khi thời cơ đến, chớ không phải đã xuất hiện ở nhân gian. Câu trên chỉ phật, câu này chỉ vua, chính là vị phật vương tương lai. Sau khi thánh vương xuất hiện, không thấy nói tới chiến tranh, rõ ràng ‘Bất chiến tự nhiên thành‘. Dũng sĩ nhược hải mưu thần như lâm 勇士若海謀臣如林 Dũng sĩ nhiều như nước ở biển, mưu thần nhiều như cây trong rừng Trần công nãi thị phúc tâm 塵公乃是腹心 Vị mang chức công thời xưa ấy là người tâm phúc – Trần 塵: nghĩa là bụi, dấu vết, tung tích, chớ không phải họ Trần 陳 như nhiều người giải thích. Vị tâm phúc (phúc tâm) giúp vua chính là (nãi thị) người đã từng có dấu vết (trần 塵) là một vị quan mang chức công (công) trong quá khứ, tức Trình Quốc Công Nguyễn Bỉnh Khiêm tái sinh với vai trò quân sư. Đây là vị thánh nhân. Giang hồ xử sĩ Đào Tiềm xuất du 江湖處士陶潛出遊 Sông hồ ẩn sĩ Đào Tiềm xuất du – Đào Tiềm: ẩn sĩ phiêu diêu ngoại vật. Giai đoạn này những ẩn sĩ thanh cao mới xuất hiện giúp đời. Tướng thần hệ xuất Y Chu 相臣系出[伊周 Hệ tướng thần xuất Y Chu – Y Doãn (Y) thời Thương, Chu Công (Chu) thời Châu bên tàu thuở xưa, là những bậc tài giỏi giúp vua dựng nước. Thứ ky phục kiến Đường Ngu thi thành 庶機復見唐虞施成 Nhiều kế sách phục lại thành thời Đường Ngu – Đường Nghiêu (Đường), Ngu Thuấn (Ngu) là 2 vị vua thượng cổ của TQ, 2 triều đại thái bình an lạc. Còn nhớ Hồ Quý Ly sau khi chiếm ngôi nhà Trần, đặt tên nước là Đại Ngu, hàm ý họ Hồ là con cháu vua Thuấn. Hiệu xưng thiên hạ thái bình 號 稱天下太平 Xưng hiệu thiên hạ thái bình – Hàm ý sau khi xưng hiệu nước “Đại Nam Quốc”, thì thiên hạ thái bình. Ðông Tây vô sự Nam thành quốc gia 東西無事南城國家 Đông Tây không tích sự, Nam thành quốc gia – Đông: CS, đỏ (hồng), âm, ma. Tây: TB, trắng (bạch), dương, quỷ. Đông Tây rốt cuộc chẳng làm nên trò trống gì, trong khi Nam, tức VN, sẽ trở thành quốc gia gọi là Đại Nam Quốc! Thiên hạ thái bình! (Trở về tiểu mục lục phân đoạn)
KẾT LUẬN Qua những kiến giải trên, người viết có thể kết luận như sau: 1. Những tài liệu của các giáo phái Bửu Sơn Kỳ Hương, Hoà Hảo, Hồng Tâm, chính là chìa khoá để giải bài sấm này. 2. Thánh nhân hương, tức quê quán thánh nhân, là làng Hoà Hảo, thánh địa của đạo Phật Giáo Hoà Hảo. 3. Thiên tử tức Ngưu tinh, và thánh nhân là Trạng Trình tái sanh, tức Đức Huỳnh Phú Sổ (sẽ trở lại trong tương lai như ngài hứa). 4. Bảo Giang là sông Vàm Nao (xem Định Vị Bảo Giang). Nơi đây thiên tử và vị thánh nhân sẽ đồng xuất hiện. PHỤ CHÚ 1. 2. Ở hải ngoại, là di sản của VNCH, nên hiện tượng ‘đa khuyển phệ’ (xin xem lời giải thích của ‘hoả thôn đa khuyển phệ‘ ở trên) vẫn tiếp diễn, mạnh nhất là giai đoạn 1975-80s. Những năm gần đây có vài phong trào làm sống lại bóng ma VNCH, Ngô Đình Diệm, thành lập những ‘chính phủ lưu vong’, .., của những người vẫn còn mơ tưởng về hào quang quá khứ, dù kết quả chẳng đi đến đâu. Những câu sấm lục bát của Trạng Trình, và bài cơ bút của công chúa Liễu Hạnh, đã nói lên được điều này: Nực cười những kẻ bàng quan, Thôi thôi mặc lũ trò hề Gió mây ta lại đi về gió mây Xin xem những bài viết liên quan: 3. 4. Siêu nhiên mùa hoa nở Rõ ràng thánh nhân xuất hiện trước, thu xếp mọi công chuyện, rồi dẫn dắt nhân loại gặp gỡ đức chân nhân, một vị chuyển luân thánh vương. Điều này rất dễ thấy trong truyện Phong Thần Diễn Nghĩa (xem Thử Giải Bài ‘Tứ Bửu Linh Tự’) vai trò quan trọng của Khương Tử Nha, phải cáng đáng mọi công chuyện để giúp nhà Châu dựng nghiệp, và cuối cùng Võ Vương mới xuất hiện. Tuy nhiên, theo định nghĩa, thánh 聖: (Tính) Sáng suốt, đức hạnh cao, thông đạt. ◎Như: thánh nhân 聖人, thần thánh 神聖, và trong các bản sấm lục bát cùng ngũ ngôn, có rất nhiều danh tự để chỉ người như thánh nhân, thiên tử, thánh quân, Ngưu tinh, đại nhân, song thiên, chân nhân, thầy tăng, thầy nhân thập, .. rất khó hiểu. Tất cả danh tự trên ai cũng có thể là thánh nhân cả. Có lẽ người viết sẽ tìm hiểu thêm và viết một bài khác trong tương lai về đề tài này. 5. Trong Sấm Trạng Trình, từ ‘nhị ngũ’ và ‘lục thất’ rất khó hiểu. Người viết có tìm được một số định nghĩa như sau: 5.1. Cao Đài Dịch Lý: Bởi Bát-quái Tiên-thiên do Đức Phục-Hi sáng lập ra, nói rằng vua Phục-Hi trị thủy trên sông Mạnh-Hà mới thấy trên lưng của Long-Mã có xuất hiện nhiều điểm, dưới dạng chữ thập, nhờ tài trí thông-minh quán thế, ông mới toán ra bằng số, tổng cộng là 55 điểm, như trên có nói đến. Có nghĩa là trong 10 con số này đã có âm dương, chẵn lẻ của nó. Nếu cộng cả hai tổng-số của âm-dương-số lại sẽ được là: Tổng-số dương là: 1+3+5+7+9 = 25 Tổng-số âm là: 2+4+6+8+10 = 30 Cộng hai tổng-số lại: 25+30 = 55. Tổng-số là 55. Hai con số 5 đi liền nhau Dịch nói là nhị ngũ, tức là hai con số (5) ngũ. Ngũ đây là Ngũ-hành, nên mới phân ngũ-hành dương và ngũ-hành âm; đấy là lý-do tại sao không đọc là 55 mà nói là cơ nhị ngũ. Bởi Dịch là biến, có biến mới có hóa, sự biến-hóa từ xưa đến giờ là vô cùng tận; nếu không như vậy thì địa-cầu này sẽ bị tiêu-diệt mà thôi. Thật vậy, đó là nguyên-lý: Bát-quái biến hóa vô-cùng, phân định Ngũ-hành, càn-khôn muôn vật. Thái-cực sanh LƯỠNG NGHI và cứ thế tiếp-tục biến-hóa ra mãi. Ấy cũng gọi là số của Hà-đồ, hay còn gọi là cơ nhị ngũ, tức là Khí-Hư-Vô phát-khởi, là trung-tâm điểm của vũ-trụ. 5.2. Ý Nghĩa Các Hào Những sự trùng hợp về ‘nhị ngũ’ âm dương: 5.2.1. Trong Kinh Thánh, Revelation 12:2 5.2.2. Núi Thất Sơn: 5.2.3 Đông-Tây Dựa vào câu ‘Chấn Đoài cương bất trường‘, có thể hiểu nhị-ngũ để chỉ các nước thuộc nhóm Chấn (Đông, âm, nhị, khối CS) gồm TQ và Nga, nhóm Đoài (Tây, dương, ngũ, khối TB) gồm Mỹ, Anh, Úc, Canada, Tân Tây Lan, và phương Tây như Pháp, Đức. 6. – Xà đầu: đầu rắn. Nước Syria có bản đồ giống như chiếc đầu rắn quay về hướng Tây Nam (xem bản đồ), với biên giới tiếp giáp: Bắc – Thổ Nhĩ Kỳ, Đông – Iran, Nam – Jordan, Tây – Israel và Lebanon. Hiện chiến tranh đang xảy ra (10/10/2019). Rắn sống trên đất nên đây là trận địa chiến. Đầu mang ý nghĩa xảy ra trước. 7. Bàn thêm về đoạn này: – 1918: kết thúc Chiến Tranh Thế Giới 1 – 1945: kết thúc Chiến Tranh Thế Giới 2 – 1954: VN đánh đuổi thực dân Pháp dành lại độc lập – 1963: chấm dứt chế độ Ngô Đình Diệm ở miền Nam – 1972: mùa hè đỏ lửa, mở màn cho hiệp định Paris, thống nhất đất nước Như vậy, ‘cửu cửu‘ chính là sự hoàn thành một chu kỳ lớn hơn, tức là sự chấm dứt hạ nguyên. Theo thuyết ‘tam nguyên cửu vận‘, chúng ta đang ở giai đoạn nguyên cuối (hạ) và vận 2, sắp vào vận 3, để rồi sau đó sẽ trở lại giai đoạn nguyên đầu (thượng). Đây là thời kỳ ‘đi ngược’, giống như đang ở mùa đông sắp trở lại xuân, mọi sinh vật khó mà tồn tại với thời tiết khắc nghiệt Để giải đoạn sấm khó hiểu này, cần liên hệ tới 4 câu trong bài “Hố Hò Khoan” của Đức Huỳnh Phú Sổ: Thất sơn tiếng nổ Do vậy, câu ‘Thanh minh thời tiết hoa tàn‘ ứng với câu ‘Quy cổ diệt kim‘ và được phân thành 2 vế: ‘thanh minh thời tiết‘ ứng với ‘quy cổ‘, và ‘hoa tàn‘ ứng với ‘diệt kim‘. Giai đoạn ‘diệt kim‘ giống như cuối mùa đông, nền văn minh hiện tại (tức tinh hoa) sẽ tàn lụi, như đã từng xảy ra trong quá khứ (nền văn minh Atlantis). Khi trái đất trở lại giai đoạn thượng nguyên, sẽ mở ra một khoảng thời gian trong sáng (‘thanh minh‘). Sấm Trạng Trình không nói rõ ràng về vụ sấm nổ ở Thất Sơn, nhưng cho biết sẽ có một số nước đem quân vào Trường An, như đã dẫn giải ở trên, ám chỉ vùng Thất Sơn (Trường An, tức Kim Lăng, tức kim sơn, là mộ vàng, là núi vàng) được hiểu là kinh đô của nước Việt sau khi trở lại nguyên thượng. Các nước sẽ tranh giành, chiếm đoạt trong một khoảng thời gian 5, 6 năm, cho đến khi vị thiên tử xuất hiện ở Bảo giang (4 câu đoạn sau) thì mới yên. Bàn về ‘tam nguyên‘. 7.1. Thiệu Khang Tiết (1011-1077) trong Hoàng Cực Kinh Thế: 12 canh/ngày 30 ngày/tháng 12 tháng/năm 30 năm/thế 12 thế/vận 30 vận/hội 12 hội/nguyên Như vậy: nguyên = 12^2 x 30^2 = 129600 năm Luật Lịch Chí trong Hán Thư, nguyên = 4617 năm 7.2. Theo Vũ trụ quan, Nhân sinh quan của đạo Phật Giáo Hòa Hảo: (trích) Mỗi một Nguơn còn chia ra làm ba thời kỳ nữa. Như Thượng nguơn chia ra làm : Thượng Nguơn Thượng, Thượng nguơn Trung, Thượng nguơn Hạ; đến Hạ nguơn cũng vậy, có Hạ nguơn Thượng, Hạ nguơn Trung, và Hạ nguơn Hạ. Mỗi thời kỳ có mỗi hoàn cảnh và đời sống con người khác nhau. Ở thời kỳ Thượng nguơn hoàn cảnh cưc kỳ tinh khiết, con người rất mực khinh thanh có đủ huyền năng của con người ở cõi Thiên sa xuống. Đến thời kỳ Trung nguơn thì hoàn cảnh có phần ô trược và con người cũng mất bản tính huyền linh. Nhưng xuống đến thời Hạ nguơn thì hoàn cảnh trở nên ác liệt và con người trở nên hung ác để rồi đi đến hoại diệt, trở lại thời kỳ Thượng nguơn. Nghĩa là thời kỳ Thượng xuống đến thời kỳ Hạ nguơn con người càng ngày càng trở nên thối hóa. Cứ theo Sấm Giảng của Môn phái Bửu Sơn Kỳ Hương thì nhân loại ngày nay đã bước vào Hạ nguơn Hạ, giai đoạn cùng cuối của chu kỳ Tam nguơn. 8. Bắc hữu kim thành tráng Nam tạc ngọc bích thành Hai câu đầu làm nhớ tới đoạn sấm khác: Hỏa thôn đa khuyển phệ Mục giả dục nhân canh 9. Nam Việt hữu Ngưu tinh Quá thất thân thủy sinh – Hoặc có thể giải thích: Qua 7 thân mạng sẽ xuất hiện trở lại như ban đầu (thuỷ: 始): 1. Trạng Trinh 2. Đức Phật Thầy Tây An 3. Đức Bổn Sư Ngô Lợi 4. Đức Phật Trùm 5. Sư Vãi Bán Khoai 6. Đức Huỳnh Giáo Chủ 7. Trong bài Tứ Bửu Linh Tự, cho biết “Quân sư Trạng Trình, minh mệnh tái sanh”, hay là sự trở lại của Đức Huỳnh Giáo Chủ. Địa giới xỉ vị bạch Thủy trầm nhĩ bất kinh Như vậy, đoạn này có thể được giải thích như sau: Vùng Nam Việt, cụ thể là Thủy Chân Lạp, hay hẹp hơn là địa phận Hòa Hảo, xuất hiện Phật (biểu hiện bởi hoa súng thụy liên). 10. 11. 12. Tóm lại: chữ ‘cái‘ để chỉ lá hoa súng, mà chẳng phải lá sen vì: 4) lá súng hình giống lỗ tai (nhĩ) và ‘bất kinh‘ chẳng sợ khi bị nước nhấn chìm (đoạn ‘Thủy trầm nhĩ bất kinh‘), 5) hoa súng nở sáng, chiều khép lại để giải thích sự ẩn tàng và trở lại của 4 vị phật (đoạn ‘Mại dữ lê viên dưỡng‘). 13. Nostradamus wrote, “the big war will start in France and all Europe will be attacked, it will be long and terrifying for everyone and then finally there will be peace but only a few will enjoy it – a war will start between the two great world powers and it will last for a period of 27 years.” Tạm dịch: Nostradamus viết, “Cuộc chiến tranh lớn (hàm ý Thế Chiến Thứ 3) sẽ bắt đầu ở Pháp và tất cả Âu châu sẽ bị tấn công, cuộc chiến này sẽ dài và sẽ là nỗi kinh hoàng cho mọi người, và rồi cuối cùng hòa bình sẽ lập lại, nhưng chỉ có số ít người được hưởng thụ nó – một cuộc chiến xảy ra giữa hai đại cường và sẽ kéo dài tới 27 năm.” 27 năm có lẽ tính từ lúc châu Âu khủng hoảng (như giai đoạn hiện tại bắt đầu từ Pháp), chớ cuộc Thế Chiến Thứ 3 chắc khoảng 5-7 năm, như Thế Chiến Thứ 1 (1914-1918), Thứ 2 (1939-1945). A. Trong Kinh Dịch, nhị là số 2, chẵn, có vị trí âm; ngũ là số 5, lẻ, có vị trí dương. Nhị ngũ để chỉ cuộc thư hùng của 2 thế lực âm dương, hay tà chính. Dư 餘: thừa, hơn, để chỉ hơn một lần thư hùng. Bình 平: yên, thái bình. Nhị ngũ dư bình: để chỉ nhiều cuộc thư hùng giữa 2 thế lực tà chính từ Thế Chiến Thứ 2, và tương lai là cuộc Thế Chiến Thứ 3, rồi sau đó là thái bình . Trong Thế Chiến Thứ 2, nhị là phe Trục, và ngũ là cánh Đồng Minh. Nhị gồm liên minh Đức Ý ở mặt trận Âu châu, và Nhật ở Á châu; trong khi ngũ gồm Mỹ, Anh, Nga, Pháp và Trung quốc. Canh Tân là các năm Canh Thìn 1940, Tân Tỵ 1941 là những năm khốc liệt của chiến tranh, cho đến năm Ất Dậu 1945 mới dứt, để sau đó các năm Bính Tuất 1946, Đinh Hợi 1947 các nước hồi phục trở lại, thế giới được thái bình. Thế Chiến Thứ 3 chắc chắn sẽ xảy ra, với 2 khối Cộng Sản (nhị): Nga, Trung Quốc; và Tư Bản (ngũ): Mỹ, Anh, Canada, Úc, Tân Tây Lan và Pháp. Theo câu “Ma vương sát đại quỷ, Hoàng thiên tru ma vương” hàm ý khối CS sẽ thắng, để sau đó sẽ bị trời phật tiêu diệt. B. Đoạn này cũng vậy, có thể giải thích cho trận Thế Chiến Thứ 2 và Thế Chiến Thứ 3. Trong Thế Chiến Thứ 2, Đức đã khởi đầu cuộc chiến năm 1939 ở Âu châu, và sau đó Nhật tham gia ở Á châu, nhập vào khối Trục. ‘Xà‘ là Nazi Đức đi trước (đầu), ‘long‘ là Nhật theo sau (vĩ) , và mãi tới Ất Dậu (1945) mới thấy thái bình. Đức Quốc Xã dùng chữ vạn 卍 của Phật giáo (chánh 正) sửa nghiêng 45 độ (tà 邪). Một trong những âm của tà 邪 là (shé) trùng âm với xà 蛇 (shé) là rắn. Nhật Bản, một con rồng châu Á, tham dự Thế Chiến Thứ 2 vào 27/9/1940, năm Canh Thìn. C. Trở lên đầu trang |