Bệnh tim có nên uống nhiều nước

Khi uống nước, cần phải biết phương pháp uống nước chính xác, nếu có những thói quen uống nước sai lầm, cũng có thể dẫn đến tổn hại sức khỏe, đặc biệt là ảnh hưởng đến tim.

Nước là nguồn sống, bình thường cần phải bổ sung đủ nước mới có thể duy trì sự lưu thông bình thường trong cơ thể. Trong quá trình uống nước, cần phải biết phương pháp uống nước chính xác, nếu có những thói quen uống nước sai lầm, cũng có thể dẫn đến tổn hại sức khỏe, đặc biệt là ảnh hưởng đến tim.

Ba thói quen uống nước gây bất lợi cho chức năng tim mạch

1. Chỉ uống nước khi thấy khát

Nhiều người có thói quen, chỉ khi cơ thể cảm thấy rất khát mới uống nước. Khi cơ thể cảm thấy khát, uống nước lúc này vẫn khiến cơ thể thiếu nước, thận ở trạng thái phụ tải cao, thời gian dài sẽ dẫn đến suy giảm chức năng thận.

Ngoài ra, việc thiếu nước sẽ làm tăng độ nhớt của máu, dễ dẫn đến tắc nghẽn nguồn cung cấp máu cho tim. Sau khi máu dính đặc, máu cục bộ không thể cung cấp kịp thời, có thể dẫn đến suy giảm chức năng tim, điều này không tốt cho sức khỏe tim mạch. Do đó, để duy trì một trái tim khỏe mạnh, uống nước đúng cách chính là chìa khóa, đừng đợi đến khi cơ thể quá khát mới uống nước.

Khi cơ thể cảm thấy khát, uống nước lúc này vẫn khiến cơ thể thiếu nước, thận ở trạng thái phụ tải cao, thời gian dài sẽ dẫn đến suy giảm chức năng thận.

2. Uống nhiều nước cùng một lúc

Rất nhiều người có thói quen uống ngụm nước to hoặc một lần uống lượng nước lớn, nếu thời gian ngắn uống quá nhiều nước, ngược lại sẽ gây bất lợi cho sức khỏe, bởi uống quá nhiều nước cùng lúc có thể khiến các thế bào bị ngộ độc nước. Hơn nữa sau khi uống nhiều nước, có thể làm tăng lưu lượng máu, gây gánh nặng cho tim, tiêu thụ oxy cơ tim tăng nhanh chóng, và tăng nguy cơ gây suy tim cho bạn.

Đặc biệt, nếu bạn uống nước lạnh, vấn đề thậm chí còn nghiêm trọng hơn. Nếu một người có chức năng tim không tốt, dưới sự kích thích của lượng lớn nước lạnh sẽ làm tăng nhịp tim và tăng mức tiêu thụ oxy của tim, có thể gây đau nhức tim, đột quỵ nguy hiểm tính mạng.

Nếu thời gian ngắn uống quá nhiều nước, ngược lại sẽ gây bất lợi cho sức khỏe, bởi uống quá nhiều nước cùng lúc có thể khiến các thế bào bị ngộ độc nước.

3. Uống quá nhiều nước trước khi đi ngủ

Nhiều người có thói quen uống lượng nước lớn trước khi đi ngủ, điều này có thể gây tổn thương chức năng tim. Uống nước cũng nên lựa chọn thời gian thích hợp. Uống quá nhiều nước trước khi đi ngủ rất dễ làm tăng gánh nặng cho thận, đi tiểu nhiều lần vào ban đêm, cản trở chất lượng giấc ngủ, đồng thời cũng làm tăng gánh nặng cho tim. Uống nhiều nước trước khi đi ngủ khiến cơ thể luôn ở trạng thái lưu thông, không được nghỉ ngơi, có thể dẫn đến các cơ quan trong cơ thể bị tổn thương.

Uống nước như thế nào để tốt cho hệ tim mạch?

- Uống đủ nước trong ngày, nên uống nước lọc. Một số bệnh nhân suy tim mãn tính cần hạn chế lượng nước và muối đưa vào cơ thể để giảm tải cho tim. Cách tốt nhất là uống theo chỉ định của bác sĩ tim mạch.

Uống đủ nước trong ngày, nên uống nước lọc.

- Không nên uống nước quá nóng hoặc quá lạnh đột ngột dễ gây ảnh hưởng đến hệ tiêu hóa và dẫn tới co thắt mạch máu não.

- Nếu uống quá nhiều nước lạnh, hệ thống thần kinh có thể sẽ bị ức chế dẫn tới suy giảm nhịp tim.

- Cách tốt nhất là uống nước ấm mỗi ngày.

- Không nên vừa ăn, vừa uống nước (đặc biệt với nước lạnh). Vì nó ảnh hưởng tới hệ tiêu hóa, khiến cơ thể nhanh no.

Thời điểm uống nước có lợi cho tim?

- Uống nước khi bạn vừa ngủ dậy: đây là thời điểm mà các cục máu đông có nguy cơ hình thành cao nhất (nguyên nhân gây ra bệnh tim mạch và tắc mạch máu), nếu uống ly nước vào sáng sớm sẽ khiến các khối mỡ trên thành mạch bong ra. Ngoài ra còn tốt cho hệ bài tiết, đường tiết niệu.

- Uống nước trước khi bạn đi ngủ 30 phút: trước khi ngủ khoảng 30 phút bạn nên uống 1 ly nước ấm nhỏ khoảng 100ml sẽ ngăn ngừa được huyết khối cũng như bệnh tim mạch hiệu quả. Lưu ý không uống quá nhiều và uống sát giờ đi ngủ.

(Nguồn: Aboluowang)

Hà Vũ

Kiêng cữ trong ăn uống được xem là một biện pháp điều trị các bệnh tim mạch. Ðối với một số bệnh như cao huyết áp, suy tim, hay tiểu đường, suy thận, chế độ kiêng cữ hợp lý sẽ giúp cải thiện triệu chứng của bệnh, giảm bớt lượng thuốc cần phải uống hàng ngày, tăng tác dụng của một số thuốc điều trị. Tuy nhiên trên thực tế, biện pháp điều trị này hầu như chưa được thực hiện đúng mức.

1. CHẾ ÐỘ ĂN

Trước hết cần phải hiểu rõ quan niệm về kiêng cữ của Tây y. Dân gian ta thường cho rằng kiêng cữ nghĩa là phải tránh dùng một vài loại thức ăn nào đó, chẳng hạn không được ăn thịt bò, cá lóc, trứng vịt, rau muống v.v... Thật ra, Tây y quan tâm nhiều hơn đến loại chất trong thức ăn, chẳng hạn chất đạm (thịt, cá...), chất béo (dầu, mỡ...), chất tinh bột (gạo, khoai...), chất xơ (rau củ), hay potasium (có nhiều trong nho, chuối) v.v... Do đó, nếu bác sĩ khuyên nên kiêng bớt chất đạm nghĩa là bạn phải hạn chế ăn thịt cá, bất kể loại thịt hoặc cá nào. Nếu bạn không ăn thịt nhưng vẫn ăn nhiều cá thì cũng không đạt được hiệu quả gì.

Ðối với phần lớn các bệnh tim mạch, bác sĩ thường khuyên bạn kiêng ăn mặn và chất béo. Hạn chế ăn mặn có ý nghĩa đặc biệt quan trọng nếu bạn bị các bệnh suy tim, cao huyết áp. Ăn mặn ở đây không phải là chay-mặn mà là mặn-lạt, nghĩa là bạn phải hạn chế muối. Muối có nhiều trong nước chấm, các loại thức ăn khô như cá khô, chà bông, mắm... Tóm lại là bạn phải tránh những thức ăn có vị mặn. Một câu hỏi thường được đặt ra là phải hạn chế đến mức độ nào? Xin nêu một ví dụ, người bệnh suy tim nặng chỉ nên ăn tối đa 5g muối NaCl (tương đương với 2 muỗng cà phê muối ăn) cho cả ngày, tính cả lượng nêm nếm trong khi nấu. Chế độ ăn như vậy sẽ làm thay đổi khẩu vị nên đa số mọi người (nhất là ở nông thôn) có thói quen ăn mặn hầu như không thể thực hiện được. Như vậy phải làm sao?

Cách tốt nhất là bạn phải hạn chế ăn mặn đến mức tối đa có thể được. Hãy tập thay đổi từ từ, đầu tiên đừng dùng nước chấm khi ăn, tránh các loại mắm, cá thịt khô, nếu cần hãy nấu ăn riêng. Nên nhớ rằng nếu thực hiện được chế độ kiêng cữ tốt thì không những bệnh thuyên giảm mà còn giúp bạn giảm bớt được thuốc men, đỡ tốn tiền chữa bệnh.

Nếu bác sĩ cho biết bạn bị rối loạn mỡ máu hay béo phì, bạn nên hạn chế ăn chất béo như thịt mỡ, phô mai, kem, bơ. Các loại thức ăn này làm tăng lượng cholesterol trong máu, đọng lại trong mạch máu gây nhiều bệnh như nhồi máu cơ tim, tai biến mạch máu não...

Người bệnh tim không cần phải kiêng ăn chất đạm nếu không bị bệnh khác kèm theo (như bệnh thận) vì đây là nguồn cung cấp năng lượng cần thiết cho cơ thể. Ðặc biệt là các bệnh nhân bị bệnh tim nặng, suy kiệt càng cần phải ăn nhiều chất đạm để tạo đủ năng lượng cho cơ thể. Bạn nên tư vấn bác sĩ về chế độ ăn của mình, loại thức ăn nào cần phải kiêng và loại nào không cần để có một chế độ hợp lý.

Các loại rau quả, trái cây chứa nhiều chất xơ, vitamin và các khoáng chất vi lượng. Nói chung loại thức ăn này thường chỉ có lợi chứ không hại gì đối với cơ thể, ngoài ra chất xơ còn giúp hoạt động của hệ tiêu hóa dễ dàng, tránh được táo bón. Một số trái cây còn chứa các chất có tác dụng tốt đối với bệnh tim mạch, như bưởi có thể làm giảm mỡ trong máu, cà chua có thể giảm nguy cơ bị tai biến mạch máu não... Tuy nhiên trước những thông tin như vậy, người bệnh thường lại hay áp dụng một cách quá đáng, như mỗi ngày ăn tới vài ký bưởi, uống đến chục ly nước cà chua. Xin nhớ rằng nguyên tắc quan trọng nhất trong vấn đề ăn uống vẫn là điều độ. Ngoài ra một chất rất quan trọng đối với tim là potasium có nhiều trong các loại quả như nho, chuối, dừa. Ðể tim hoạt động tốt, lượng potasium trong máu phải ổn định, không quá nhiều hay quá ít. Trong các thuốc chữa bệnh tim, có loại thuốc làm giảm potasium, có loại lại làm tăng lượng potasium trong máu. Do đó, bạn phải hỏi kỹ bác sĩ xem mình có cần kiêng cữ các loại trái cây này hay không?

2. NƯỚC UỐNG

Nhiều người cho rằng uống càng nhiều nước càng tốt vì giúp lọc sạch cơ thể. Thật ra, quan niệm này không hẳn là đúng, nhất là với bệnh tim hay bệnh thận. Ðối với một người khỏe mạnh, khi uống nhiều nước, tim và thận phải tăng hoạt động để thải bớt nước ra ngoài, giữ sự cân bằng trong cơ thể. Ngược lại, ở người đã có bệnh tim hay bệnh thận, hai cơ quan này không còn hoạt động tốt nên nước sẽ bị giữ lại trong cơ thể gây triệu chứng khó thở, phù, thậm chí còn gây ra tình trạng "ngộ độc nước", biểu hiện qua triệu chứng lơ mơ, hôn mê.

Nói chung, người bị bệnh tim nên uống nước theo nhu cầu cơ thể, nghĩa là chỉ uống khi cảm thấy khát. Nếu bệnh của bạn chỉ ở mức độ nhẹ, việc hạn chế uống nước là không cần thiết. Những trường hợp suy tim nặng chỉ nên hạn chế uống khoảng 1 lít nước mỗi ngày. Nên nhớ rằng uống quá ít nước cũng rất nguy hiểm vì có thể gây tụt huyết áp, choáng váng, chóng mặt. Bác sĩ sẽ cho biết nhu cầu nước thế nào là phù hợp với mức độ bệnh của bạn.

3. RƯỢU BIA - THUỐC LÁ

Y học đã chứng minh việc nghiện rượu bia có ảnh hưởng rất xấu đối với sức khỏe nói chung và bệnh tim mạch nói riêng. Nhưng đối với những người chỉ uống ít thì sao? Các nghiên cứu cho thấy uống ít hơn 60ml rượu nguyên chất (khoảng 680ml bia, 95ml rượu whiskey, 285ml rượu vang) mỗi ngày không ảnh hưởng xấu đối với bệnh tim mạch. Rượu vang đỏ còn có tác dụng tốt đối với cholesterol máu.

Như vậy, người bệnh tim không cần phải kiêng cữ bia rượu tuyệt đối. Tuy nhiên cần nhắc lại điều độ luôn là nguyên tắc quan trọng nhất để giữ gìn sức khỏe. Rượu bia có thể không ảnh hưởng đến bệnh tim nhưng lại gây bệnh dạ dày, bệnh gan. Ngoài ra, có một thể bệnh tim đặc biệt gọi là bệnh cơ tim do rượu. Nếu bị bệnh này, bạn phải kiêng cữ rượu bia hoàn toàn.

Còn thuốc lá là thứ cần phải kiêng cữ tuyệt đối khi bị bệnh tim mạch. Thuốc lá ảnh hưởng rất xấu đối với các bệnh do nguyên nhân xơ vữa động mạch như thiếu máu não, thiếu máu cơ tim. Nếu không bỏ thuốc lá, bạn có thể bị tai biến mạch máu não, nhồi máu cơ tim, suy tim...Và nhất thiết bạn phải cố gắng bằng mọi cách bỏ hút thuốc lá ngay khi biết mình bị bệnh tim mạch.

BS. HOÀNG CÔNG ÐƯƠNG

Xem thêm: Khám tim mạch - Dinh dưỡng phòng bệnh tim mạch

Video liên quan

Chủ đề