Mỗi người thường sẽ xảy ra ít nhất một có bệnh lý tiêu hóa trong cuộc đời. Có thể đơn giản là đau bụng âm ỉ thoáng qua, nôn, hoặc tiêu chảy, táo bón… Có thể là các bệnh nghiêm trọng hơn như viêm loét, polyp dạ dày đại tràng hay thậm chí là ung thư. Dưới đây là những bệnh lý về đường tiêu hóa phổ biến nhất mà bạn cần biết.
Mục đích chính của hệ tiêu hóa là phân hủy thức ăn thành các chất dinh dưỡng có thể hấp thụ được vào cơ thể. Qua đó cung cấp năng lượng cho cơ thể hoạt động. Thức ăn vào miệng phải được xử lý cơ học (nhai) và làm ẩm. Thứ hai, quá trình tiêu hóa diễn ra chủ yếu ở dạ dày và ruột non, nơi protein, chất béo và carbohydrate được phân hủy hóa học thành các thành phần nhỏ hơn. Các phân tử nhỏ hơn đó tiếp tục được hấp thụ qua biểu mô của ruột non vào máu. Sau đó chúng đi vào vòng tuần hoàn. Ruột già đóng vai trò chính trong việc tái hấp thu lượng nước dư thừa. Cuối cùng, các chất không tiêu hóa được và các chất cặn bã bài tiết được đào thải ra ngoài cơ thể qua đường đại tiện (phân). Mắc bệnh lý tiêu hóa là khi có sự trục trặc ở một trong các khâu này. Tức là, các chức năng của đường tiêu hóa không được thực hiện thành công. Bệnh nhân trong những trường hợp này có thể xuất hiện các triệu chứng đau bụng, buồn nôn, nôn, tiêu chảy, kém hấp thu, táo bón hoặc tắc nghẽn. Thậm chí có thể biểu hiện dấu hiệu trên da, niêm mạc. Ví dụ: vàng da, vàng mắt, da xanh, niêm mạc nhợt. Hệ thống đường tiêu hóa ở người II. Các bệnh tiêu hóa phổ biến 1. Bệnh về thực quản Bệnh trào ngược dạ dày thực quản (GERD) phổ biến, xảy ra ở 10 đến 20% số người lớn. Bệnh cũng xảy ra thường xuyên ở trẻ nhỏ, có thể khởi phát từ lúc mới sinh. – Căn nguyên có trào ngược cho thấy cơ thắt thực quản dưới (LES) hoạt động kém hiệu quả, có thể là do mất toàn bộ trương lực cơ thắt trong hoặc do các đợt giãn thoáng qua không thích hợp tái đi tái lại (tức là không liên quan đến nuốt). – Triệu chứng nổi bật nhất của GERD là ợ nóng, có hoặc không có trào ngược dạ dày vào miệng. GERD không được kiểm soát có thể ăn mòn lớp niêm mạc của thực quản và dẫn đến chảy máu. Tình trạng này cũng có thể gây đau tức ngực đến mức đôi khi bị nhầm với cơn đau tim.Chẩn đoán dựa trên triệu chứng lâm sàng, nội soi dạ dày thực quản. – Kiểm soát bệnh GERD thường bắt đầu bằng những thay đổi lối sống đơn giản. Ví dụ tránh ăn ít nhất ba giờ trước khi đi ngủ, không hút thuốc, nâng đầu giường, hạn chế chất béo… – Điều trị GERD có thể dùng thuốc hoặc phẫu thuật với trường hợp nặng. Ngoài ra, một số trường hợp có khối u hoặc ung thư ở thực quản. Triệu chứng phổ biến nhất khi đó là nuốt nghẹn, khó nuốt. 2. Dạ dày – tá tràng 2.1 Viêm dạ dày Viêm dạ dày là tình trạng viêm niêm mạc dạ dày do các nguyên nhân sau gây ra, bao gồm nhiễm trùng (Helicobacter pylori), thuốc (thuốc chống viêm không steroid, rượu), căng thẳng và hiện tượng tự miễn dịch (viêm teo dạ dày). Nhiều trường hợp không có triệu chứng, nhưng khó tiêu và chảy máu đường tiêu hóa đôi khi xảy ra. Chẩn đoán bằng nội soi. Điều trị định hướng theo nguyên nhân nhưng thường bao gồm sử dụng thuốc ức chế bài tiết axit và đối với nhiễm Helicobacter pylori thì dùng kháng sinh. Viêm dạ dày cấp được đặc trưng bởi xâm nhập bạch cầu đa nhân trung tính tại niêm mạc ở hang vị và phần thân Viêm dạ dày mạn tính ngụ ý một số mức độ teo (mất chức năng của niêm mạc) hoặc chuyển sản. Bệnh chủ yếu liên quan đến phần hang vị (kèm theo mất dần các tế bào G và giảm bài tiết gastrin) hoặc thân vị (kèm theo mất tuyến tiết axit, dẫn đến giảm axit, pepsin và yếu tố nội sinh). Tổn thương trong bệnh lý viêm, loét dạ dày – tá tràng 2.2 Loét dạ dày tá tràng
3.1 Hội chứng ruột kích thích (IBS)
3.2 Viêm loét đại tràng
3.3 Bệnh lý tiêu hóa viêm dạ dày – ruột Viêm dạ dày ruột là viêm lớp niêm mạc dạ dày, ruột non và đại tràng. Hầu hết các trường hợp đều do nhiễm trùng, mặc dù viêm dạ dày ruột có thể xảy ra sau uống thuốc và nuốt phải chất độc hoá học (ví dụ kim loại, chất có nguồn gốc thực vật). Sự lây nhiễm có thể là lây lan qua đường thực phẩm, đường nước, từ người sang người hoặc đôi khi lây lan qua động vật. Ở Mỹ, ước tính cứ 6 người thì có 1 người mắc bệnh do thực phẩm gây ra mỗi năm. Triệu chứng bao gồm chán ăn, buồn nôn, nôn ói, tiêu chảy và khó chịu vùng bụng. Chẩn đoán dựa trên lâm sàng hoặc bằng cấy phân, mặc dù xét nghiệm phản ứng chuỗi polymerase và xét nghiệm miễn dịch ngày càng được sử dụng nhiều hơn. Điều trị theo triệu chứng, mặc dù một số bệnh nhiễm trùng do ký sinh trùng và vi khuẩn cần có liệu pháp chống nhiễm trùng đặc hiệu. .4. Các bệnh về gan Các nguyên nhân thường gặp của viêm gan bao gồm
4.1 Viêm gan siêu vi Viêm gan vi-rút cấp tính là tình trạng viêm gan lan tỏa do một số vi-rút hướng gan có nhiều phương thức lây truyền và đặc điểm dịch tễ khác nhau gây ra. Tiền triệu không điển hình của vi-rút là chán ăn, buồn nôn, và thường có biểu hiện sốt hoặc đau thượng sườn phải. Bệnh vàng da thường tăng, điển hình là khi các triệu chứng khác bắt đầu thuyên giảm. Hầu hết các trường hợp đều tự khỏi, nhưng một số có thể tiến triển thành viêm gan mạn tính. Đôi khi, viêm gan vi-rút cấp tính tiến triển thành suy gan cấp tính (chứng tỏ viêm gan tối cấp). Chẩn đoán bằng các xét nghiệm chức năng gan và xét nghiệm huyết thanh học để xác định vi-rút. Vệ sinh tốt và các biện pháp phòng ngừa phổ cập có thể giúp ngăn ngừa viêm gan vi-rút cấp tính. Tùy thuộc vào loại vi-rút cụ thể, các biện pháp dự phòng trước và sau phơi nhiễm có thể được sử dụng bao gồm tiêm vaccine và globulin huyết thanh. Điều trị thường là hỗ trợ.
4.2 Viêm gan mạn Viêm gan mạn tính là viêm gan kéo dài > 6 tháng. Các nguyên nhân thường gặp bao gồm vi-rút viêm gan B và C, viêm gan nhiễm mỡ không do rượu (NASH), bệnh gan do rượu và bệnh gan tự miễn (viêm gan tự miễn). Nhiều bệnh nhân không có tiền sử viêm gan cấp tính, và dấu hiệu đầu tiên là phát hiện tăng aminotransferase không triệu chứng. Một số bệnh nhân có xơ gan hoặc các biến chứng của xơ gan (ví dụ: tăng áp lực tĩnh mạch cửa). Đôi khi cần sinh thiết để khẳng định chẩn đoán và phân loại cũng như phân giai đoạn bệnh. Điều trị hướng đến các biến chứng và bệnh nền (ví dụ: corticosteroid cho viêm gan tự miễn, liệu pháp kháng vi-rút đối với viêm gan vi-rút). Ghép gan thường được chỉ định cho bệnh nhân xơ gan mất bù.
Ngộ độc thực phẩm là do một loại độc tố được tạo thành từ vi khuẩn đã làm ô nhiễm thực phẩm. Các triệu chứng buồn nôn và nôn kèm theo đau quặn bụng thường khởi phát nhanh chóng, thường trong vòng vài giờ sau khi ăn uống. Chẩn đoán dựa trên lâm sàng và điều trị hỗ trợ bằng truyền dịch.
Trong đó, thường gặp nhất là sỏi mật. Sỏi mật bao gồm sự lắng đọng của các thành phần của mật, phổ biến nhất là cholesterol. Nhiều viên sỏi nhỏ dạng bùn đến một viên sỏi lớn có thể hình thành. Nó có thể dẫn đến: – Cơn đau quặn mật: Nếu sỏi bị mắc kẹt trong cổ túi mật hoặc ống mật chủ, cơ trơn trong thành ống sẽ co thắt mạnh để cố gắng di chuyển sỏi ra ngoài. Từ đó gây đau. – Tình trạng viêm nhiễm: Sỏi gây kích ứng và viêm thành túi mật và ống mật chủ. – Sự tắc nghẽn ở cổ túi mật do sỏi dẫn đến căng túi mật và viêm túi mật. Điều này không gây vàng da vì mật từ gan vẫn có thể đi thẳng vào tá tràng. – Tắc nghẽn ống mật chủ dẫn đến giữ mật, vàng da và viêm đường mật (nhiễm trùng đường mật).
Tiêu chảy là bệnh lý tiêu hóa khá thường gặp, xảy ra ở mọi độ tuổi. – Việc đi ngoài phân lỏng – thường là ba lần hoặc nhiều hơn một ngày – kéo dài ít nhất bốn tuần có thể là tình trạng đáng lo ngại. – Tiêu chảy khó điều trị vì nó có thể có rất nhiều nguyên nhân. Đó có thể là kết quả của việc cơ thể không thể hấp thụ thức ăn như bệnh celiac và thức ăn có chứa gluten – hoặc một bệnh hoặc rối loạn, như hội chứng ruột kích thích (IBS) , bệnh Crohn hoặc viêm loét đại tràng. Nhiễm trùng – thường do virus hoặc ký sinh trùng cũng có thể là nguyên nhân. Ngoài việc gây khó khăn trong sinh hoạt hàng ngày, tiêu chảy mãn tính có thể là dấu hiệu của một vấn đề nghiêm trọng hơn có thể cần can thiệp y tế và cần được đánh giá bởi chuyên gia y tế. Bạn nên đi khám để được chẩn đoán và điều trị chính xác.
Táo bón là khó khăn hoặc giảm tần suất đại tiện, phân cứng, hoặc cảm giác tống phân không hết. Không có chức năng cơ thể nào có nhiều biến đổi và chịu ảnh hưởng từ bên ngoài hơn đại tiện. Thói quen đại tiện của mỗi người là rất khác nhau và bị ảnh hưởng bởi độ tuổi, sinh lý, chế độ ăn uống, xã hội và văn hoá. Nhiều người không tin rằng việc đại tiện hàng ngày là cần thiết và chỉ phàn nàn về táo bón nếu đại tiện ít thường xuyên hơn. Các thông tin khác về hình dạng bên ngoài (kích cỡ, hình dạng, màu sắc) hoặc khuôn phân cần được quan tâm. Đôi khi vấn đề chính là bệnh nhân không hài lòng với quá trình đại tiện hoặc cảm giác không hết bãi sau khi đại tiện. Táo bón gây nhiều cảm giác khó chịu (đau bụng, buồn nôn, mệt mỏi, chán ăn) là các triệu chứng thực sự của một vấn đề tiềm ẩn (ví dụ: hội chứng ruột kích thích [IBS], trầm cảm). Bệnh nhân không nên mong đợi tất cả các triệu chứng sẽ giảm bằng cách đại tiện hàng ngày và các biện pháp hỗ trợ thói quen đại tiện nên được sử dụng một cách thận trọng. Điều trị tình trạng này có thể bắt đầu bằng các biện pháp không kê đơn. Chẳng hạn như thuốc làm mềm phân và bổ sung chất xơ, thêm nhiều chất lỏng hơn vào chế độ ăn (cụ thể là uống nhiều nước). Nếu những biện pháp đó không giúp giảm táo bón, có thể cần áp dụng một số bài tập thể dục để tăng cường nhu động ruột đẩy phân ra ngoài. Táo bón là một trong những bệnh lý tiêu hóa gây khó chịu cho người bệnh. Nguyên nhân gồm: chế độ ăn thiếu chất xơ, thói quen nhịn đại tiện, lười vận động…
Trĩ là các tĩnh mạch giãn của đám rối trĩ ở ống hậu môn. Các triệu chứng bao gồm kích thích và chảy máu. Trĩ tắc mạch thường đau đớn. Chẩn đoán bằng kiểm tra kỹ và soi hậu môn. |