Cách đất nhan de của Xuân Quỳnh so với nhà thơ khác

So sánh bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh và Vội vàng của Xuân Diệu

  • Dàn ý so sánh bài thơ Sóng và Vội vàng
  • So sánh bài thơ Sóng và Vội vàng - Mẫu 1
  • So sánh bài thơ Sóng và Vội vàng - Mẫu 2
  • So sánh bài thơ Sóng và Vội vàng - Mẫu 3
  • So sánh bài thơ Sóng và Vội vàng - Mẫu 4

Dàn ý so sánh bài thơ Sóng và Vội vàng

I. Mở bài:

- Xuân Quỳnh là một trong những gương mặt tiêu biểu của thế hệ thơ trẻ thời chống Mĩ cứu nước. Thơ Xuân Quỳnh in đậm vẻ đẹp nữ tính, vẻ đẹp tâm hồn người phụ nữ nhiều trắc ẩn, hồn nhiên, chân thành, đằm thắm, da diết trong khát vọng đời thường.

Bài thơ “Sóng” được sáng tác năm 1967, trong chuyến đi thực tế ở vùng biển Diêm Điền (Thái Bình), là bài thơ tiêu biểu cho phong cách thơ Xuân Quỳnh.

- Xuân Diệu - một trong ba đỉnh cao của phong trào Thơ Mới 1932 - 1945. Ông được đánh giá là "nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ Mới" bởi những cách tân cả về tư tưởng và bút pháp nghệ thuật.

"Vội vàng" là bài thơ tiêu biểu của Xuân Diệu trước cách mạng tháng Tám, được coi là tuyên ngôn sống, tuyên ngôn nghệ thuật của nhà thơ.

- Cả 2 đoạn thơ trên đều là đoạn kết của hai tác phẩm, thể hiện những khát vọng mãnh liệt.

II. Thân bài:

1. Đoạn thơ trong bài Vội vàng của Xuân Diệu:

- Đoạn thơ thể hiện “cái tôi” ham sống, muốn tận hưởng cuộc đời mãnh liệt. Như một tuyên ngôn của lòng mình, nhà thơ tự xác định một thái độ sống gấp, tận hưởng vì cảm nhận cái hữu hạn của cuộc đời (Mau đi thôi ! Mùa chưa ngả chiều hôm); ý thức chiếm lĩnh, tận hưởng cuộc sống ở mức độ cao nhất (chếnh choáng, đã đầy, no nê ) những gì tươi đẹp nhất (mùi thơm, ánh sáng, thời tươi ).

- Các yếu tố nghệ thuật như điệp từ, điệp cấu trúc câu, động từ mạnh.. góp phần thể hiện cái hối hả, gấp gáp, cuống quýt của tâm trạng, khiến nhịp điệu đoạn thơ sôi nổi, cuồng nhiệt.

2. Đoạn thơ trong bài Sóng của Xuân Quỳnh:

- Đoạn thơ thể hiện khát vọng lớn lao, cao cả trong tình yêu: ước mong được tan hòa cái tôi nhỏ bé-con sóng cá thể, thành cái ta chung rộng lớn- “trăm con sóng” giữa biển cả mênh mông. Những câu thơ có tính chất tự nhủ mình gợi cách sống, tình yêu mãnh liệt, hết mình: mong muốn được tan hòa vào tình yêu lớn lao của cuộc đời. Đó là cách để tình yêu trở thành bất tử.

- Thể thơ năm chữ với hình tượng “sóng”vừa ẩn dụ vừa giàu tính thẩm mĩ khiến đoạn thơ sâu sắc, giàu nữ tính.

3. So sánh:

- Điểm tương đồng: Hai đoạn thơ đều bộc lộ cảm xúc mãnh liệt, những suy ngẫm trước cuộc đời. Đây là hai đoạn thơ có sự kết hợp giữa cảm xúc-triết lí.

- Điểm khác biệt: không chỉ nằm ở phong cách thơ (Xuân Diệu sôi nổi, mãnh liệt đầy nam tính, xuân Quỳnh thủ thỉ, tâm tình đầy nữ tính) mà còn trong cách “ứng xử” của mỗi nhà thơ: trước sự “chảy trôi” của thời gian, Xuân Diệu chọn cách sống gấp gáp, tận hưởng, Xuân Quỳnh lại thể hiện khát vọng muốn được tan hòa cái riêng vào cái chung để tình yêu trở thành bất tử …

III. Kết bài:

Kết luận lại giá trị nội dung và nghệ thuật của hai đoạn thơ trên. Kết luận lại giá trị nội dung và nghệ thuật của hai đoạn thơ trên.

Ý nghĩa nhan đề bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh

Bài văn mẫu Ý nghĩa nhan đề bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh

Ý nghĩa nhan đề bài thơ Sóng

Quảng cáo

Xem thêm:

  • Phân tích 3 khổ thơ cuối trong bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh
  • Phân tích hình tượng sóng trong bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh
  • Cảm nhận của anh chị về bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh

- “Sóng” và “em” là “em” và “sóng”. Hai hình tượng tuy hai mà một, có lúc tách đôi ra để soi chiếu cho nhau,có lúc lại hòa nhập vào nhau để tạo ra sự cộng hưởng. Hai hình tượng ấy đan cài, quấn quýt với nhau như hình với bóng.

- Tác giả mượn hình ảnh “sóng” để thể hiện những cảm xúc, cung bậc tình cảm của trái tim khao khát yêu thương. Nổi bật trong bài thơ là vẻ đẹp tâm hồn thiết tha nồng hậu và niềm khao khát của người phụ nữ về một tình yêu thủy chung, bất diệt.

Loigiaihay.com

  • Cảm nhận về đoạn trích sau trích trong bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh:

  • Cảm nhận về bài thơ Sóng - Xuân Quỳnh

  • Hình tượng sóng và em trong bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh

Quảng cáo

Luyện Bài Tập Trắc nghiệm Ngữ Văn 12 - Xem ngay

Báo lỗi - Góp ý

So sánh khát vọng tình yêu qua đoạn thơ trong Vội vàng và Sóng

Xuất bản ngày 09/05/2019 - Tác giả: Giangdh

[Văn mẫu 11] So sánh khát vọng tình yêu qua hai đoạn thơ trong Vội vàng và Sóng để thấy được cái tôi được bộc lộ trước cuộc sống và tình yêu của hai tác giả Xuân Diệu và Xuân Quỳnh

Mục lục nội dung

  • 1. Đề bài
  • 2. Dàn ý chi tiết
  • 3. Bài văn mẫu được đánh giá cao
  • 4. Bàicủa học sinh chuyên văn

Mục lục bài viết

So sánh khát vọng tình yêu qua đoạn thơ trong Vội vàng và Sóng của hai tác giả Xuân Diệu và Xuân Quỳnh để thấy cái tôi được bộc lộ trước cuộcsống và tình yêucủa mỗi tác giả

Đề bài: So sánh khát vọng tình yêu qua đoạn thơ trong Vội vàng và Sóng

Dàn ý chi tiếtso sánh khát vọng tình yêu qua hai đoạn thơ trong Vội vàng và Sóng

I. Mở bài (Chọn điểm chung của hai đoạn thơ để dẫn dắt vấn đề)

- Giới thiệu chung về tác giả, tác phẩm

+/ Sóng - Xuân Quỳnh

  • Xuân Quỳnh là một trong số những nhà thơ nữ tiêu biểu nhất của thế hệ các nhà thơ trẻ trong thời kì kháng chiến chống Mĩ. Thơ Xuân Quỳnh là tiếng lòng của một tâm hồn phụ nữ nhiều trắc ẩn, vừa hồn nhiên tươi tắn vừa chân thành đằm thắm và luôn da diết với khát vọng hạnh phúc đời thường. “Sóng” là bài thơ tình yêu đặc sắc của Xuân Quỳnh, in trong tập “Hoa dọc chiến hào”.
  • Bài thơ “Sóng” được sáng tác năm 1967, trong chuyến đi thực tế ở vùng biển Diêm Điền (Thái Bình), là bài thơ tiêu biểu cho phong cách thơ Xuân Quỳnh.

+/ Vội vàng - Xuân Diệu

  • Xuân Diệu là “nhà thơ mới nhất trong các nhà Thơ Mới” (Hoài Thanh). Ông được giới trẻ tấn phong là “Ông hoàng của thi ca tình yêu”. Ông mang đến cho thơ ca đương thời một sức sống mới, một nguồn cảm xúc mới, thể hiện một quan niệm sống mới mẻ cùng với những cách tân nghệ thuật đầy sáng tạo. Ông là nhà thơ của tình yêu, của mùa xuân và tuổi trẻ với giọng thơ sôi nổi, đắm say, yêu đời thắm thiết. Vội vàng được trích trong tập Thơ Thơ là một trong những bài thơ hay nhất của Xuân Diệu trước cách mạng.
  • "Vội vàng" là bài thơ tiêu biểu của Xuân Diệu trước cách mạng tháng Tám, được coi là tuyên ngôn sống, tuyên ngôn nghệ thuật của nhà thơ.

=> Cả 2 đoạn thơ trên đều là đoạn kết của hai tác phẩm, thể hiện những khát vọng mãnh liệt.

II. Thân bài

1. Đoạn thơ trong bài Sóng của Xuân Quỳnh thể hiện cái tôi đầy khao khát

  • Khát vọng được hòa thành trăm con sóng nhỏ, khát vọng được tan thành trăm con sóng nhỏ là khát vọng được cho đi và dâng hiến bởi có một nghịch lí trong tình yêu là “Hạnh phúc thật sự chỉ đến khi bạn dám mạnh dạn cho đi chứ không phải nắm giữ thật chặt “ (Christopher Hoare).
  • Khát vọng muốn hòa nhập tình yêu của mình để ngàn năm còn vỗ . Đây là khát vọng muốn được vĩnh cửu hóa, bất tử hóa tình yêu.
  • Trong quan niệm tình yêu của Xuân Quỳnh ta thấy được một tư tưởng nhân văn : ” yêu và sự hiến dâng” , chữ ” hiến dâng” không được hiểu theo nghĩa thông tục . Tình yêu của cá nhân không tách rời cộng đồng.
  • Đặt bài thơ trong hoàn cảnh năm 1968 khi đất nước đang có chiến tranh ta càng hiểu một cách thấm thía và sâu sắc về tình yêu và những khát vọng của những con người trong thời đại ấy.

*/ Nghệ thuật : bài thơ sử dụng thể thơ năm chữ giàu nhịp điệu , âm hưởng của những con sóng biển; sử dụng phép nhân hóa, so sánh .

2. Đoạn thơ trong bài thơ Vội Vàng của Xuân Diệu bộc lộ một cái tôi sôi nổi, vồ vập và giàu khát vọng.

- Khát vọng của Xuân Diệu là khát vọng tắt nắng và buộc gió. “Tắt nắng ” để màu hoa không tàn, “Buộc gió” để hương đừng bay đi.

  • Nắng và gió, hương và hoa ở đây chính là mùa xuân của đất trời với bạt ngàn hoa thơm cỏ lạ. Đó là ” hoa đồng nội xanh rì”, “là cành tơ phơ phất “, là” khúc tình si của yến anh “, là ” mây đưa gió lượn ” ….mùa xuân ấy thật thanh tân diễm lệ đầy quyến rũ như bờ môi thiếu nữ “tháng giêng ngon như một cặp môi gần” .
  • “Hương” với “màu” ở đây là những ẩn dụ để nói đến tuổi trẻ của đời người. Xuân Diệu là người luôn lo sợ về thời gian , về tuổi tác vì theo nhà thơ : “Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua/ Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già/ Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất/ Lòng tôi rộng nhưng lượng trời cứ chật/ Không cho dài thời trẻ của nhân gian/ Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn/Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại”
  • Cho nên Xuân Diệu khát vọng chiếm lấy quyền năng của tạo hóa để vũ trụ ngừng quay, thời gian ngừng trôi , để thi nhân tận hưởng những phút giây đẹp nhất của đời người. Đây cũng chính là một khát vọng rất nhân văn.

*/Nghệ thuật : thể thơ ngũ ngôn giàu nhịp điệu, sử dụng động từ mạnh ” tắt, buộc”.

3. So sánh khát vọng tình yêu qua hai đoạn thơ trong Vội vàng và Sóng

  • Giống nhau : đều sử dụng thể thơ ngũ ngôn giàu nhịp điệu , đều thể hiện được khát vọng mãnh liệt, cháy bỏng về tình yêu với cuộc đời.
  • Khác nhau : khát vọng trong Sóng là khát vọng của tình yêu lứa đôi , là khao khát dâng hiến đến tận cùng. Còn trong Vội Vàng thì thể hiện một qun niệm sống : sống vội vàng, sống giục giã, cuống quýt, phải tận hưởng vì thời gian đi qua tuổi trẻ sẽ không còn.

Bài văn mẫu được đánh giá cao so sánh khát vọng tình yêu quađoạn thơ Vội vàng và Sóng

Xuân Quỳnh và Xuân Diệu đều là hai nhà thơ trữ tình lớn của thơ ca Việt Nam. Một người là nữ văn sĩ với những hồn thơ bay bổng, đậm màu sắc trữ tình, một người lại là hồn thơ mới mẻ, phóng khoáng và đầy mạnh mẽ. Trong hai tác phẩm Sóng và Vội vàng, hai nhà thơ đã thể hiện phong cách thơ cùng tư tưởng quan điểm của mình về tình yêu đối với tuổi trẻ, với con người một cách rất riêng biệt.

Đối với nữ sĩ Xuân Quỳnh, nhà thơ sử dụng hình ảnh sóng và em song song để diễn tả các cung bậc trạng thái của tình yêu đồng thời bày tỏ khát vọng mãnh liệt được tìm tới với tình yêu của mình. Có lúc sóng và em đi song song, xong cũng có lúc, cả hai như hòa lại làm một, con sóng dù trải qua muôn vàn biến động thì cuối cùng cũng vỗ về một bến bờ, còn người con gái thì dù trăm phương ngàn hướng cũng chỉ hướng về tình yêu của mình. Nhân vật em ở đây có một tình yêu mãnh liệt cháy bỏng, và em không ngại thể hiện, bộc lộ điều đó. Em dám mạnh dạn bày tỏ những cảm xúc, suy nghĩ ấy của bản thân. Em ước mong rằng mình được hòa tan với biển lớn tình yêu để tình yêu trở thành bất diệt, còn mãi với thời gian. Khát vọng ấy cho thấy nhà thơ có một tình cảm và ước mong mãnh liệt thế nào. Đó là khát vọng hòa tan, khát vọng cống hiến, hết mình trong tình yêu

Còn đối với nhà thơ Xuân Diệu, ông dành hết lời, hết ngôn từ để ca ngợi tuổi trẻ, ca ngợi tuổi xuân của đất trời. Với ông, mùa xuân là mùa đẹp nhất của nhân gian, cũng giống như tuổi thanh xuân là thời điểm đẹp nhất của đời người. Chỉ khác rằng mùa xuân thì còn lặp lại chứ tuổi trẻ thì không. Chính vì vậy, nhà thơ mong muốn được sống trọn vẹn với tuổi trẻ của mình. Chính điều đó đã thôi thúc ông phải sống vội vàng, sống hối hả cho kịp với tuổi trẻ có hạn của con người. Các hành động tắt nắng cho màu đừng nhạt, buộc gió cho hương đừng bay cũng là để lưu giữ lại những vẻ đẹp, hương hoa tinh túy nhất của đất trời, để những điều đó không nhanh chóng tàn phai. Đây là tư tưởng sống tận dụng từng phút giây của tuổi trẻ, của đời người để làm những điều ý nghĩa nhất. Con người hãy biết lưu giữ những gì là tốt đẹp nhất, biết trân trọng và tận hưởng nó để không lãng phí với cuộc đời.

Hai nhà thơ có quan điểm rất riêng, cách nhìn nhận rất riêng nhưng tựu chung lại thì họ đều có một điểm chung đó là sống cống hiến, sống hết mình với tình yêu của mình. Họ cùng gửi gắm tất cả đối với tình yêu ấy, người thì mong muốn được thể hiện tình cảm với người con trai mình thương, người lại mong muốn được sống trọn từng phút giây của tuổi thanh xuân. Tuy vậy, cách thể hiện của Xuân Quỳnh lại có xu hướng hòa tan, hòa nhập để tình cảm của mình trở thành bất diệt với thiên nhiên đất trời. Ngược lại Xuân Diệu lại muốn thâu tóm, gom góp những vẻ đẹp, những tình yêu ấy để có thể lưu giữ nó, tận hưởng nó một cách trọn vẹn, chân thực và lâu dài

Dù là cách thể hiện thế nào thì thông qua hai bài thơ này, người đọc cũng được mở mang tầm mắt, thấy được những tình cảm dạt dào của hai thi sĩ đồng thời cảm nhận được những triết lí, quan điểm nhân sinh từ câu chuyện của họ. Đó là cách sống, là quan niệm sống, là cách thể hiện tình cảm của mình với đối phương, với cuộc đời, để cuộc sống trở nên ý nghĩa hơn.

Bàicủa học sinh chuyên vănso sánh khát vọng tình yêu qua haiđoạn thơ trongVội vàng và Sóng

“Sống và khát vọng” là lí tưởng cao đẹp của thanh niên thời hiện đại. Tuổi trẻ nên biết tận hưởng và cống hiến sức mình cho đời. Đó có lẽ là biểu hiện niềm ham sống mãnh liệt, hay là nỗi khao khát hòa mình vào tình yêu chung của nhân loại. Xuân Diệu và Xuân Quỳnh – những nhà thơ của tuổi trẻ – đã thể hiện quan niệm sống mới mẻ này qua hai tác phẩm tiêu biểu là “Sóng” và “Vội vàng” mà tiêu biểu là hai đoạn thơ sau:

Làm sao được tan ra

Thành trăm con sóng nhỏ

Giữa biển lớn tình yêu

Để ngàn năm còn vỗ

(Sóng – Xuân Quỳnh)

Tôi muốn tắt nắng đi

Cho màu đừng nhạt mất,

Tôi muốn buộc gió lại

Cho hương đừng bay đi

(Vội vàng – Xuân Diệu)

Xuân Quỳnh là một trong những nhà thơ tiêu biểu nhất của thế hệ các nhà thơ thời chống Mỹ. Thơ Xuân Quỳnh là tiếng lòng người phụ nữ khi yêu, nhiều trắc ẩn – vừa hồn nhiên, tươi tắn lại vừa đằm thắm, chân thành. Nhân vật trữ tình trong thơ Xuân Quỳnh đều là những người phụ nữ mạnh mẽ, luôn da diết khát vọng hạnh phúc đời thường. Bài thơ “Sóng” ra đời trong chuyến đi thực tế ở biển Diêm Điền (Thái Bình). Đây là thi phẩm đặc sắc, đậm chất phong cách thơ Xuân Quỳnh. Bài thơ được in trong tập “Hoa dọc chiến hào”.

Xuân Diệu là “nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới” (Hoài Thanh). Ông đã đem đến cho thi ca đương thời một sức sống mới, một nguồn cảm xúc mới cùng những cách tân nghệ thuật đầy sáng tạo. Cũng như Xuân Quỳnh, Xuân Diệu là nhà thơ của tình yêu và tuổi trẻ với giọng thơ sôi nổi, đắm say, yêu đời thắm thiết. Từ sau cách mạng, thơ Xuân Diệu gắn liền với đất nước và rất giàu tính thời sự. Bài thơ “Vội vàng” là một trong số những thi phẩm về lòng yêu cuộc sống của người trẻ, được in trong tập “Thơ Thơ”.

“Tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại” (Xuân Diệu). Vì thế, sống và để yêu thương và khát vọng luôn song hành cùng tuổi trẻ. Đó là tính quy luật muôn đời.

Trước hết, ta sẽ tìm hiểu khát vọng mà nữ sĩ Xuân Quỳnh đã đề cập đến trong “Sóng”. Tuổi trẻ sinh ra là để được yêu và tình yêu đóng vai trò đặc biệt đối với tuổi thanh xuân của mỗi người. Bởi lẽ:

Làm sao sống được mà không yêu

Không nhớ không thương một kẻ nào.

(Xuân Diệu)

Tình yêu trong “Sóng” của Xuân Quỳnh không chỉ có những cung bậc cảm xúc đời thường của người phụ nữ khi yêu mà nó còn ẩn chứa lí tưởng cao đẹp của tình yêu hiện đại:

Làm sao được tan ra

Thành trăm con sóng nhỏ

Giữa biển lớn tình yêu

Để ngàn năm còn vỗ.

Người trẻ yêu rất say đắm, rất mãnh liệt, họ luôn khát vọng tình yêu, luôn “bồi hồi trong ngực trẻ”. Chính vì vậy, mà họ sẵn sàng hi sinh, hiến dâng cho hạnh phúc của mình. Chỉ với bốn câu thơ, nữ tác giả đã bộc lộ cái tôi bản thân cũng như suy nghĩ của thế hệ trẻ. Hai chữ “làm sao” thật giàu cảm xúc. Là nỗi băn khoăn, trăn trở của Xuân Quỳnh. Đó chính là nỗi khát khao được “tan thành trăm con sóng nhỏ”. Vì sao vậy, vì nhà thơ bằng trực cảm của mình đã nhận ra tình yêu không thuộc về vĩnh viễn. Nó giống như:

Cuộc đời tuy dài thế

Năm tháng vẫn đi qua

Như biển kia dẫu rộng

Mây vẫn bay về xa

Cuộc đời tuy dài nhưng không ngăn nổi tháng năm của tuổi trẻ sẽ đi qua. Biển dẫu đến vô cùng vẫn không thể nào giữ nổi một đám mây bay về cuối chân trời. Vì vậy mới sinh ra khát vọng của thi nhân. Khát vọng được hóa thân thành sóng là khát vọng được cho đi, được dâng hiến. Bởi vì, có một nghịch lí trong tình yêu là “hạnh phúc thật sự chỉ đến khi bạn biết mạnh dạn cho đi chứ không phải nắm giữ thật chặt” (Christopher Hoare). Con sóng lớn là tổng hòa của “Trăm con sóng nhỏ” để hòa vào đại dương mênh mông sâu thẳm. Trong bao la vô tận ấy, sóng sẽ mãi mãi vỗ muôn điệu yêu thương mà không bao giờ lo âu vì tình yêu trong biển rộng trời cao ấy chẳng bao giờ vơi cạn. Bên cạnh đó, có thể thấy rằng, Xuân Quỳnh đang ngầm so sánh cuộc đời tựa hồ như biển lớn tình yêu được tạo nên từ những con sóng nhỏ. Sóng chẳng thể tồn tại nếu nó không còn là một phần của biển khơi. Cũng như tình yêu của muôn người, nếu tách khỏi cộng đồng thì chỉ mãi là một tình yêu lẻ loi, vị kỉ. Từ đó, người đọc cảm nhận được khao khát bất tử hóa tình yêu của nhà thơ:

Giữa biển lớn tình yêu

Để ngàn năm còn vỗ.

Những con sóng đó quyện mình vào đại dương bao la, cùng vỗ nhịp yêu thương đến ngàn đời sau tượng trưng cho tình yêu vĩnh hằng. Tình yêu cá nhân cần phải hòa mình vào tình yêu chung của nhân loại thì mới trường tồn, vĩnh cửu. Bởi một lẽ “giọt nước chỉ không thể cạn khi nó hòa vào biển cả”. Hơn nữa, bài thơ được ra đời vào năm 1968, trong bối cảnh đất nước đang bước vào giai đoạn ác liệt của cuộc chiến tranh chống Mỹ xâm lược. Thanh niên nam nữ đều xông pha mặt trận, chiến trường khói lửa bom đạn. Biết bao nhiêu cuộc chia li màu đỏ giữa các cặp gái trai diễn ra vào thời điểm đó. Nghĩ đến điều này, ta lại càng thấm thía hơn về lý tưởng tình yêu của con người thời đại ấy. Nói tóm lại, thông qua khổ cuối của bài thơ “Sóng”, Xuân Quỳnh đã gửi đến độc giả thông điệp nhân văn về tình yêu: yêu là hiến dâng và tình yêu cá nhân không thể và cũng không thể tách rời bể lớn tình yêu nhân loại.

Xuân Quỳnh đã rất khéo léo khi chọn viết “Sóng” bằng thể thơ ngũ ngôn, giàu nhịp điệu. Nhịp điệu của sóng, nhịp điệu của tâm hồn giúp cho nhà thơ phần nào truyền tải ý nghĩa nhân văn của mình đến người đọc một cách sâu sắc và xúc động nhất. Cách so sánh “em” với “sóng” độc đáo, cùng những hình ảnh nhân hóa, ẩn dụ những con sóng tựa như tâm hồn trắc ẩn của người phụ nữ đang yêu đã tạo nên thành công cho bài thơ.

Chẳng những yêu hết mình, yêu chân thành mà tuổi trẻ còn có một niềm ham sống mãnh liệt. Không ai khác ngoài Xuân Diệu có thể bộc lộ cái tôi sôi nổi, giàu khát vọng ấy của đời thanh niên:

Tôi muốn tắt nắng đi

Cho màu đừng nhạt mất

Tôi muốn buộc gió lại

Cho hương đừng bay đi.

Bốn câu thơ trên là lời mở đầu cho thi phẩm “Vội vàng”. Đặc biệt thay, chỉ những câu thơ này được viết bằng thể ngũ ngôn. Với nhịp ngắn, nhanh, giàu nhạc điệu, thì đây là thể thơ thích hợp nhất để bộc lộ cái tôi đầy khát vọng mãnh liệt và táo bạo của nhà thơ. Nhân vật trữ tình trong “Vội vàng” có một khao khát được “tắt nắng” cho màu hoa đừng phai, được “buộc gió” cho “hương đừng bay đi”. Nắng và gió, hương và hoa ở đây là mùa xuân của đất trời. Mùa xuân là mùa đẹp nhất trong năm với bạt ngàn hoa thơm, cỏ lạ, với không khí ấm áp, muôn chim hội tụ. Đó là “đồng nội xa rì”, là “lá cành tơ phơ phất” và còn là “của yến anh này đây khúc tình si”. Mùa xuân qua “cặp mắt xanh non biếc rờn” của nhà thơ càng trở nên thanh tân, quyến rũ đến lạ lùng: “Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”.

Nhưng ẩn sâu trong vẻ đẹp diệu kì ấy của mùa xuân là vòng quay không ngừng của thời gian. Thời gian có sức mạnh ghê gớm, nó bào mòn mọi thứ, kể cả tuổi thanh xuân của con người. Vì vậy mà Xuân Diệu luôn lo sợ về tình yêu, về tuổi già trước mắt: Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già.

Nỗi sợ vô hình ấy cứ ám ảnh nhà thơ mãi không thôi. Chính vì lẽ đó mà Xuân Diệu đã khát vọng chiếm đoạt quyền năng của tạo hóa, buộc vũ trụ ngừng quay, thời gian dừng lại. Từ đó, thi nhân được hưởng trọn vẹn những phút giây đẹp nhất của đời người. Khát khao ấy nghe có vẻ ngông cuồng, điên rồ nhưng lại rất hợp lí. Có người từng bảo rằng: “Tuổi trẻ như một cơn mưa rào, cho dù bị cảm, vẫn muốn quay lại để được ướt thêm một lần nữa”. Tuổi thanh xuân, là quãng thời gian mà con người cảm thấy mình đẹp nhất, sung sức nhất. Nhà thơ muốn được níu giữ, được tận hưởng thời trẻ, điều đó cũng không quá khó hiểu. Đây chính là khát vọng đầy chất nhân văn của tác giả. Xuân Diệu, qua đó, cũng nhắc nhở người đọc: “Mau đi thôi, mùa chưa ngả chiều hôm”. Nghĩa là ta phải nhanh lên để tình non chẳng chóng già, để một mai ngẫm lại ta không hối tiếc vì đã “chờ nắng hạ mới hoài xuân”.

Tác giả sử dụng thể thơ ngũ ngôn giàu nhịp điệu, lột tả chân thực khát vọng mãnh liệt của bản thân cũng như làm tăng sức truyền cảm đối với độc giả. Chỉ vỏn vẹn bốn câu thơ mở đầu, mà các động từ mạnh “tắt”, “buộc”,… cùng với điệp ngữ “Tôi muốn” đồng loạt xuất hiện, góp phần nhấn mạnh nội dung của thi phẩm, đồng thời tạo nên cái hay cho đoạn thơ, mang đậm phong cách thơ Xuân Diệu.

Dễ dàng nhận thấy, cả Xuân Quỳnh lẫn Xuân Diệu đều sử dụng thể thơ ngũ ngôn, giàu nhịp điệu nhằm tăng tính biểu cảm khi truyền tải ý nghĩa nhân văn đến người đọc. Ngoài ra, hai khổ thơ trên đều bộc lộ cái tôi khát vọng với đời vô cùng cháy bỏng của thế hệ trẻ thời hiện đại. Tuy nhiên, khát vọng trong “Sóng” là khát vọng tình yêu lứa đôi, là khao khát được tận hiến, được hi sinh cho một tình yêu đẹp, giữa “biển lớn ngàn năm sóng vỗ”. Còn trong “Vội vàng”, ấy lại là một quan niệm nhân sinh về lẽ sống: sống vội vàng , giục giã để tận hưởng những giá trị của cuộc sống.

Người ta nói: “Tuổi trẻ là tuổi không ngại ngùng gì và không nghi ngờ gì”. Tuổi thanh xuân của đời người trôi qua nhanh lắm. Vậy nên, đừng ngại ngùng, hãy yêu hết mình, sống vội vàng với cả nhiệt huyết của người trẻ như Xuân Diệu và Xuân Quỳnh. Chỉ có thế, ta mới vươn tới được hạnh phúc vĩnh hằng và hưởng thụ lấy những tinh hoa, những khoảnh khắc tươi đẹp của cuộc đời này.

----------

Trên đây là bài văn so sánh khát vọng tình yêu qua đoạn thơ trong Vội vàng và Sóng mà Đọc tài liệu đã biên soạn. Hy vọng sẽ giúp các em có con mắt nhìn nhận rõ nét hơn về cái nhìn của hai tác giả trước khi đặt bút vào viết bài. Chúc các em học tốt môn văn mẫu 11.

So sánh phong cách thơ xuân quỳnh và xuân diệu nguyễn ngọc lan chi 12cv

  • docx
  • 13 trang

Nguyễn Ngọc Lan Chi – 12CV – 03

SO SÁNH PHONG CÁCH NGÔN NGỮ THƠ
GIỮA XUÂN QUỲNH VÀ XUÂN DIỆU
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
- Xuân Diệu, Xuân Quỳnh là hai nhà thơ lớn, có nhiều đóng góp xuất sắc cho nền văn học dân
tộc, đặc biệt là về mảng thơ tình.
- Tuy Xuân Diệu, Xuân Quỳnh thuộc hai thế hệ ở hai thời đại khác nhau nhưng họ gặp nhau ở
một điểm trong tâm hồn, đó là: niềm khát khao đến cháy bỏng yêu và được yêu. Chính vì vậy mà
những vần thơ về tình yêu của họ là những vần thơ bất tử, bởi lẽ tình yêu là đề tài lớn của thơ ca
và giá trị thơ tình Xuân Diệu, Xuân Quỳnh đã được khẳng định qua thời gian và qua dư luận
công chúng.
- Cùng thể hiện thành công và xuất sắc đề tài này, Xuân Diệu, Xuân Quỳnh đã khiến cho thơ tình
của họ trở thành đối tượng quan tâm đặc biệt của nhiều nhà nghiên cứu phê bình. Người ta nhận
ra hai nét phong cách vô cùng khác biệt của hai đại biểu thơ tình xuất sắc nhất nền thơ ca Việt
Nam::
+ Một Xuân Diệu - đại diện cho cái tình khao khát mãnh liệt, ồn ào, sôi nổi, vồ vập ở nam giới
+ Một Xuân Quỳnh - đại diện cho những tình cảm đôn hậu, đằm thắm, đầy nữ tính nhưng cũng
không kém phần mãnh liệt.
Thơ ca của mỗi thi sĩ mang một vẻ đẹp riêng, giá trị riêng; một trong những điểm tạo nên
sự khác biệt về vẻ đẹp và giá trị đó chính là sự khác biệt về phong cách và ngôn ngữ thơ.
ð

II. NỘI DUNG: ĐẶC ĐIỂM NGÔN NGỮ THƠ XUÂN DIỆU VÀ
XUÂN QUỲNH
A. NHẠC TÍNH TRONG NGÔN TỪ
- “Nhạc điệu là một yếu tính của thi ca. Thiếu nhạc tính thơ trở thành văn xuôi” => Tính nhạc
là nét đặc thù rất cơ bản của ngôn ngữ thơ.
- Nhạc tính chính là yếu tố quan trọng làm nên vẻ đẹp trong thơ, đây cũng chính là yếu tố tạo
mĩ cảm cho người thưởng thức. “Ly khai với nhạc tính, thơ chỉ còn là một nhan sắc trơ trẽn
thiếu duyên” => Ngôn ngữ trong thơ là thứ ngôn ngữ đặc biệt, vừa mang nhiều ý nghĩa hình
tượng, vừa giàu nhịp điệu, phong phú về cách hoà âm, tiết tấu.

- Nhạc tính trong thơ được tạo nên từ những yếu tố như nhịp điệu, cách gieo vần, phối
thanh,..
+ Một trong số đó chính là vần: bộ phận chủ yếu của âm tiết, là âm tiết trừ đi thanh điệu và
phụ âm đầu. Hiện tượng lặp lại vần hoặc có vần nghe giống nhau giữa những âm tiết có vị trí
nhất định trong câu (thường là câu thơ), được tạo ra để làm cho lời có nhịp điệu và tăng sức gợi
cảm.
+ Thơ truyền thống thường tuân thủ rất nghiêm nhặt các quy tắc gieo vần. Đến thơ hiện đại,
đặc biệt là thơ mới không còn bó buộc về hiệp vần, nhưng các nhà thơ vẫn sử dụng vần như một
yếu tố biểu cảm làm tăng vẻ đẹp của thơ.
ð

Dùng nhạc của ngôn từ để mô phỏng nhạc của cuộc sống và tâm hồn mình.
-

Đề cập đến tính nhạc trong thơ, không thể không kể đến hồn thơ Xuân Diệu - có cái rạo
rực của lòng khát khao được sống, được giao cảm với đời và nhạy cảm với những rung
động nhỏ nhất của cuộc sống. Một hồn thơ như thế không thể không viết về nhạc. Cảm
hứng về nhạc của nhà thơ là đi mãi vào cái thế giới bên trong nhạc. Vào thế giới riêng
của Nguyệt Cầm, thi sĩ đã hoà tan vào một niềm thơ duy nhất, thành mối tương giao kỳ
diệu giữa hồn người, hồn nhạc và hồn tạo vật.
1. Nhạc tính trong thơ Xuân Diệu

- Ở những câu đầu của bài thơ, tác giả đã đưa tâm hồn người đọc vào thế giới của âm thanh, đó
là một thế giới tràn đầy tiếng nhạc của trăng và đàn:
Trăng nhập vào dây cung nguyệt lạnh
Trăng thương, trăng nhớ, hỡi trăng ngần
Đàn buồn, đàn lặng, ôi đàn chậm!
Mỗi giọt rơi tàn như lệ ngân.
+ Những điệp từ: “trăng” và “đàn”, cách ngắt nhịp 2/2/3 vừa tạo nên nhạc tính nhuần nhị cho
câu thơ vừa gợi lên một bức tranh đã có hình lại có thanh.
ð

Nếu ngôn ngữ là sợi dây đàn thì nhạc tính và âm điệu là những cung bậc thanh âm ngân
lên từ sợi dây đàn ấy. Bằng khả năng sử dụng ngôn ngữ điêu luyện, Xuân Diệu tạo ra âm
điệu cũng chính là tạo nên nhạc tính trong thơ. Từ đó dẫn dụ người đọc đi vào thế giới
lung linh màu nhiệm của Nguyệt Cầm.

- Theo giáo sư Hà Minh Đức: “Nhịp điệu là kết quả của một sự chuyển động nhịp nhàng, sự lặp
lại đều đặn những âm thanh nào đó ở trong thơ” Câu thơ thu hút người đọc ngoài việc ý hay lời
đẹp còn phải thu hút người nghe bằng nhịp điệu của sự hài hoà:
Long lanh tiếng sỏi vang vang hận

+ Câu thơ trên sở dĩ “đầy nhạc” chính vì sự tập trung dày đặc các nguyên âm mở và phụ âm
vang tạo âm điệu cho thơ.
+ Sử dụng những từ láy và lặp lại chúng: “long lanh”, “lung linh”… => tạo nhịp điệu trong thơ.
Nhịp điệu có vai trò quan trọng trong việc tạo nhạc tính trong thơ, đồng thời thể hiện một cách
tinh tế những trạng thái cảm xúc của nhà thơ.
- Ngoài ra, nhạc thơ chủ yếu còn do các thanh điệu tạo nên. Trong bài Nhị Hồ, để gợi tả điệu
nhạc du dương, đưa tâm hồn phiêu diêu bay bổng cùng tiếng đàn, Xuân Diệu đã viết hai dòng
thơ toàn vần bằng:
Sương nương theo trăng ngừng lưng trời
Tương tư nâng lòng lên chơi vơi…
- Dùng nhạc của ngôn ngữ để tạo hình: Trong bài thơ Đây màu thu tới:
+ Sử dụng chuỗi phụ âm r: Những luồng run rẩy rung rinh lá.
+ Những từ láy: “run rẩy”, “rung rinh”
+ Mang đến những xúc cảm mạnh mẽ về mặt thính giác và những trải nghiệm về một
mùa thu mới lạ và độc đáo.
ð

+ Nhịp thơ 2/2/3 rất quen thuộc trong thể thơ 7 chữ của thơ Mới vẫn tạo được tính nhạc
riêng nhờ nghệ thuật láy âm:


âm “iu” (liễu – đìu – hiu – chịu)



âm “ang” (tang – ngàn – hàng)



âm “uông” (buồn – buông – xuống)

ð

Các chữ thơ như quyện chặt vào nhau, dính vào nhau. Đặc biệt là ba chữ âm “ ang” (âm
mở) lại là thanh không dấu và dấu huyền đứng ở cuối hai dòng thơ đã tạo nên một nhạc
điệu buồn mênh mang lan toả thấm thía.
ð

Câu thơ không thể đọc nhanh mà phải đọc chậm theo một nhịp dàn trải từng chỗ lên bổng
xuống trầm du dương thú vị.

=> Nhạc tính trong thơ Xuân Diệu là thứ nhạc tính mạnh mẽ với những âm sắc trầm độc
đáo. Cách thể hiện mới lạ, gây ấn tượng mạnh mẽ với người đọc, dẫn dắt người đọc vào
một thế giới hư hư thực thực, đầy âm sắc.
=> Cái tôi thi nhân mãnh liệt và giàu cá tính.

2. Nhạc tính trong thơ Xuân Quỳnh
- Bên cạnh việc sử dụng những thể thơ tự do, Xuân Quỳnh là nhà thơ rất thích sử dụng những thể
thơ truyền thống.
=> Thơ Xuân Quỳnh tồn tại sự đan xen giữa truyền thống và hiện đại, từ đó tạo nên mạch thơ trữ
tình, tươi tắn.
=> Thơ của Xuân Quỳnh có nhạc điệu độc đáo, làm người thưởng thức có thể cảm thấy quen như
đã gặp ở đâu, nhưng vẫn có trong thơ những cảm nhận mới lạ.
- Ví như trong bài Thơ viết tặng anh:
Tháng mười trời trải nắng hanh
Có cô hàng phố phơi chăn trước thềm
Gió qua lay động bức rèm
Tấm gương trong suốt ánh đèn nê-ông
+ Sử dụng thể thơ lục bát => âm điệu du dương, nhẹ nhàng, đậm đà màu sắc dân tộc.
+ Xuân Quỳnh không quá chú trọng đến niêm luật, cho phép những cảm xúc được tự do trong
thơ nhưng không vì thế mà thơ lục bát của bà mất đi vẻ mềm mại vốn có của nó.
+ Âm điệu trong thơ không trúc trắc mà vẫn êm ái như một lời thì thầm. Thơ lục bát của Xuân
Quỳnh vẫn giữ được những uyển chuyển, dễ đọc và dễ thuộc như thể thơ truyền thống.
- Thành công nhất của Xuân Quỳnh là phải kể đến thể thơ ngũ ngôn với những tác phẩm
như: Sóng, Thuyền và biển, Thơ tình cuối mùa thu…
- Ngoài thành công trong việc sáng tạo nên những hình tượng nghệ thuật điển hình cho phong
cách thơ của riêng mình, Xuân Quỳnh còn thể hiện được nhạc điệu quen thuộc, gần gũi, kéo gần
khoảng cách giữa người sáng tác và người tiếp nhận thơ ca.
- Thể hiện nhịp điệu trong thơ => Xuân Quỳnh đồng thời diễn tả nhịp điệu của trái tim mình, vừa
nhẹ nhàng, duyên dáng nhưng cũng vừa sắc sảo, nồng nàn và da diết.
B. NGÔN TỪ NGHỆ THUẬT
- Macxim Gorki đã từng nói: “Ngôn ngữ là yếu tố thứ nhất của văn học”.
=> Nếu như âm nhạc lấy âm thanh làm chất liệu; hội hoạ dùng đường nét, màu sắc; kiến trúc
được tạo nên từ những mảng khối, thì ngôn từ chính là chất liệu của tác phẩm thi ca.
=> Không có ngôn từ thì không làm nên được tác phẩm văn chương.

- Ngôn từ trong thơ có những khác biệt so với ngôn từ bình thường, nó được xem là phần tinh lọc
nhất của ngôn ngữ.
+ Ngoài việc biểu hiện tính nhạc còn biểu hiện hình ảnh, sắc màu trong thơ.
+ Là thứ ngôn ngữ có tính tinh luyện, hàm xúc; ngôn ngữ gợi hình cụ thể; và có tính biểu
cảm cao
Nhà thơ phải lựa chọn ngôn từ một cách khéo léo, sắp đặt chúng để tạo ra một bài thơ
hoàn chỉnh.
ð

1. Trong thơ Xuân Diệu
- Cách sử dụng từ ngữ có vẻ tân kì và rất Tây: Trong bài thơ Đây mùa thu tới, tác giả sử dụng
những từ như “hơn một” và “rụng cành”, thay vì gọi “luồng gió” thi sĩ đã gọi là “luồng run
rẩy”…
=> Những từ ngữ mới mẻ chưa từng có trước đây trong thi ca, đã tạo cho người đọc cảm giác kì
lạ và độc đáo, đồng thời đó cũng là điểm đặc trưng cho thi cảm của Xuân Diệu.
=> Như một nhà quay phim cận cạnh tài ba, Xuân Diệu đã đưa sát ống kính thi ca vào từng cảnh
vật, cảm nhận tinh tế dù chỉ là rung động khẽ khàng của nhánh cây nhỏ bé, mảnh mai, đang run
lên tựa những dây đàn.
=> Người đọc không chỉ nhìn mà còn có thể nghe được, cảm được những rung động ấy. Chính vì
vậy mà nhà phê bình văn học Hoài Thanh đã từng nhận xét: “Xuân Diệu mới nhất trong các nhà
thơ mới”
- Xuân Diệu là người đã đưa nhục thể vào thơ một cách đầy tinh tế bằng việc sử dụng những
động từ mạnh như: “muốn”, “ôm”, “riết”, “say”, “cắn”, “ngoàm”, “hút” …
Chúng ta đau, thôi em tới đây mà!
Mơn man nào, em đừng khóc, đôi ta
Thế, riết thế, hãy vòng tay chật nữa.
Cho em hút những chút hồn đã rữa;
Cho em chuyền hơi độc rất tê ngon
(Sầu)
+ Tuy nhiên, không vì thế mà thơ Xuân Diệu trở nên trần trụi hay sống sượng, xác thịt mà trái lại
thơ ông lại gợi lên những nồng nàn, thiết tha, rạo rực của tình yêu.
ð

Diễn tả một phần tất yếu của con người, mà khi đọc, người thưởng thức có thể dễ dàng
đồng cảm với ông.
2. Trong thơ Xuân Quỳnh

- Xuân Quỳnh ưu tiên sử dụng từ ngữ đơn giản, gần gũi với ngôn ngữ đời thường nhưng biết
cách đặt chúng vào vị trí phù hợp nhất
=> Ngôn từ trong thơ Xuân Quỳnh có tính biểu cảm cao.
- Viết về người phụ nữ rất gần, rất thật nhưng thơ vẫn hay và cuốn hút lạ thường:
Chúng tôi chỉ là những người đàn bà bình thường không tên tuổi
Quen với việc nhỏ nhoi bếp núc hàng ngày
(Thơ vui về phái yếu)
+ Hình ảnh người phụ nữ trong thơ được thi sĩ khắc hoạ rất đỗi bình thường và quen thuộc nhưng
bằng cách nhìn nhận tinh tường và sự sắp xếp khéo léo => Xuân Quỳnh đã khẳng định vai trò
không thể thiếu của phái yếu.
- Làm nổi bật lên hình tượng người phụ nữ nhỏ bé nhưng giàu đức hi sinh, chịu thương chịu khó.
Anh thân yêu, người vĩ đại của em
Anh là mặt trời, em chỉ là hạt muối
Một chút mặn giữa đại dương vời vợi
Loài rong rêu chưa ai biết tới bao giờ
Em chỉ là ngọn cỏ dưới chân qua
Là hạt bụi vô tình trên áo
Nhưng nếu sáng nay em chẳng đong được gạo
Chắc chắn buổi chiều anh không có cơm ăn.
(Thơ vui về phái yếu)
- Các nhân xưng gần gũi với những cách gọi thân mật hằng ngày:
+ Ngôi thứ nhất:“tôi”, “em”, “mẹ”, “ta”, “chúng tôi”... Ngôi thứ hai: “anh”, “con”, “các
anh”… Ngôi thứ ba:“cha tôi”, “anh ta”, “cỏ”, “thuyền”, “sóng”..Đ
- Đặc biệt, trong bài thơ Chị, Xuân Quỳnh đưa cả tên mình vào:
Đi qua đường là phải trông xe
Chị biết Quỳnh rất hay vô ý
- Hình ảnh Xuân Quỳnh rất nữ tính, giàu cảm xúc, không chỉ dành cho chồng cho con mà bà còn
thể hiện tình cảm của mình với mẹ chồng một cách tinh tế:
Chắt chiu tự những ngày xưa
Mẹ sinh anh để bây giờ cho em
(Mẹ của anh)

+ “chắt chiu”: những tình cảm mà người mẹ đã dành cho con, sự biết ơn của người con dâu đối
với mẹ chồng.
ð

Nhìn chung, Xuân Quỳnh là một giọng thơ trữ tình, linh hoạt, tự nhiên và đầy cá
tính. Người ta nhận ra sự đằm thắm, sâu lắng trong mảng thơ tình; sự hồn nhiên, dí
dỏm trong mảng thơ thiếu nhi; sự lạc quan, mạnh mẽ trong mảng thơ viết về cuộc
sống. Những cảm xúc tươi mới kết hợp với kĩ thuật viết tài hoa đã tạo ra một Xuân
Quỳnh rất đời mà cũng rất thơ.

* Cách sử dụng từ ngữ chỉ màu sắc:
- Bằng nhãn quang bay bổng và lí tưởng của mình, Xuân Quỳnh đã vẽ ra những bức tranh thi ca
đầy màu sắc và mê hoặc lòng người.
+ Thường sử dụng trong thơ những gam màu tươi sáng, là những màu mô phỏng màu có trong
thực tế như: xanh, trắng, vàng, đỏ… Tần số xuất hiện của từ ngữ chỉ màu sắc trong thơ Xuân
Quỳnh là rất cao. => Người đọc thường nhận xét trong thơ Xuân Quỳnh có hoạ.
Hàng bí ngô bên cạnh hàng bầu
Xanh mườn mượt màu xanh rau muống
Những bắp cải tròn vo đẫm nước
Lớp rau cần óng ả xếp đầy quang
Đỏ ối cà chua, vàng rực đậu vàng
(Rau – Xuân Quỳnh)
- Hay sử dụng nhất là màu xanh: màu sắc ưa nhìn, không chỉ biểu thị màu sắc của tạo vật mà đó
còn là màu của ước mơ và hi vọng => tâm hồn thơ đầy mơ ước và luôn tươi mới của Xuân
Quỳnh.
Nắng đùa mái tóc
Chồi biếc trên cây
Lá vàng bay bay
Như ngàn cánh bướm
(Chồi biếc – Xuân Quỳnh)
- Đa phần đều là những màu sắc cụ thể, không pha trộn, là những màu sắc của thế giới thực được
phản ánh vào trong thơ, tạo cho người đọc cảm giác gần gũi và quen thuộc.
=> Điểm khác biệt của thơ Xuân Quỳnh so với thơ của Xuân Diệu. Thế giới màu sắc của Xuân
Diệu có phần đa dạng hơn, vừa có màu thực, vừa có màu hư. Trong thơ của ông hoàng thơ tình
thường tồn tại những màu sắc được pha trộn, đặc biệt là màu của cảm xúc.
Hơn một loài hoa đã rụng cành
Trong vườn sắc đỏ rũa màu xanh
(Đây mùa thu tới – Xuân Diệu)
Hay như:

Trăng ở đó. Đất vườn thêu bóng lá
Trời trên kia vàng mạ, sáng như băng…
Hoa lài xanh dưới ánh nguyệt tuôn trời;
Ánh nguyệt trắng trên hoa lài đúc sữa.
(Hoa đêm – Xuân Diệu)
- Xuân Quỳnh hầu như không sử dụng những màu sắc mang tính chất ước lệ, chỉ sử dụng những
màu chuẩn của sự vật, không dùng màu đã pha trộn.
+ Trong thực tế những gam màu chuẩn thường không đủ để diễn tả hết những màu sắc của sự vật
nên người ta thường dùng thêm những màu pha tạp của sự vật => cách sử dụng màu mang tính
chất ước lệ và thường gặp trong thơ cổ.
ð

Điểm khác biệt giữa thơ Xuân Quỳnh và thơ Xuân Diệu.
+ Mặc dù được xem là nhà thơ mới nhất trong những nhà thơ mới nhưng Xuân Diệu vẫn
sử dụng những màu sắc ước lệ trong thơ.
Ta gửi trời ta giữa mắt nào
Ở gần má lửa, cạnh mày dao...
Khi ta trở lại, trời đâu vắng
Lạnh lẽo mày xanh phản má đào.
(Gửi trời – Xuân Diệu)

- Đôi lúc các tác giả này cùng sử dụng những từ giống nhau nhưng lại mang ý nghĩa và hiệu quả
thẩm mĩ khác nhau. Cách cảm nhận về biển của họ khác nhau, với Xuân Diệu:
Đã hôn rồi hôn lại
Cho đến mãi muôn đời
Đến tan cả đất trời
Anh mới thôi dào dạt...
(Biển – Xuân Diệu)
+ Động từ “tan”: một tình yêu mạnh mẽ, ước muốn cháy bỏng muốn làm tan chảy mọi thứ xung
quanh, khiến người đọc cảm nhận được tình cảm mãnh liệt của một người đàn ông với mong
muốn khát khao chinh phục.
>< Nhà thơ Xuân Quỳnh cũng sử dụng động từ ấy trong bài Sóng nhưng lại mang đến cho người
đọc những cách cảm hoàn toàn khác so với Xuân Diệu:
Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Ðể ngàn năm còn vỗ.

(Sóng – Xuân Quỳnh)
+ Động từ “tan” được đặt trong câu thơ: “Làm sao được tan ra”: như một câu hỏi tu từ, diễn tả
ước muốn được yêu trong một tình yêu rộng lớn và vĩnh cửu.
=> Cách thể hiện của Xuân Quỳnh có phần kín đáo, nhẹ nhàng và đằm thắm hơn. Nhà thơ hỏi để
mà khẳng định ước muốn, khao khát có được tình yêu, chứ không bộc lộ một cách trực tiếp và
mạnh mẽ như thi sĩ Xuân Diệu.
C. HÌNH TƯỢNG NGHỆ THUẬT
- Một bài thơ hay và để lại trong lòng người đọc những ấn tượng khó phai là một bài thơ có hình
tượng nghệ thuật độc đáo
=> biểu hiện cho tư duy nghệ thuật của tác giả, là sự phản ánh hiện thực trong tính toàn vẹn, sinh
động, cảm tính, cụ thể theo quy luật của cái đẹp, giúp người độc nắm bắt được quan niệm và
phong cách sáng tác của tác giả.
- Bằng việc lựa chọn ngôn ngữ phù hợp, Xuân Diệu và Xuân Quỳnh đã tạo nên những hình
tượng nghệ thuật giàu tính thẩm mĩ.
+ Những hình tượng nghệ thuật trong thơ tình của họ, thoạt nhìn có vẻ giống nhau, như cùng một
môtíp nhưng khi tiến hành khảo sát và phân tích sẽ thấy được nhiều điểm dị biệt thú vị.
1. Hình tượng trái tim
* Đối với Xuân Diệu:
- Xuân Diệu không phải là người duy nhất đưa trái tim vào trong thi ca.
+ Trong văn học, đã từ lâu trái tim được coi là biểu tượng của tình yêu, của tình cảm con
người, hình tượng này đã xuất hiện rất nhiều trong văn học cũng như trong đời sống.
+ Rất nhiều những tác gia lớn trên thế giới khi đề cập đến tình yêu thì thường hay nói tới
trái tim: “Ái tình không nhìn bằng mắt mà cảm nhận bằng trái tim. Vì vậy nhân loại khắc hoạ
thần tình ái có hai cánh nhưng con mắt mù loà” (W. Shakespeare).
- Ở Việt Nam, hình ảnh trái tim vốn được du nhập từ phương Tây, đã được các nhà văn nhà thơ
sử dụng làm biểu tượng về tình yêu trong các sáng tác của mình => Những sáng tác của Xuân
Diệu cũng không ngoại lệ.
- Hình ảnh “trái tim” được sử dụng rất hiệu quả trong việc diễn tả các cung bậc tình yêu trong
thơ Xuân Diệu, giúp ông thể hiện một tình yêu đích thực, giao cảm tuyệt đối từ nhục dục đến tâm
hồn. Ông cảm nhận tình yêu bằng tất cả trái tim và tâm hồn nghệ sĩ của mình.
Trái tim em thức đập

Nơi gốc của thời gian
Một nhịp mạnh nhịp khẽ
Ẩy tay anh nồng nàn
Anh gìn giữ trái tim
Cho em yên giấc ngủ...
… Trái tim em lạc đường
Anh thức hoài thức huỷ
Anh là trái tim thương
(Trái tim em thức đập – Xuân Diệu)
- Trái tim cũng chính là nơi thể hiện sự tự cảm thấy mình, là nơi suy nghĩ và thể hiện lăng kính
nhìn sự vật, hiện tượng, cuộc sống, con người của tác giả. Ngoài việc thể hiện trực tiếp hình
tượng trái tim bằng chính từ ngữ ấy, tác giả còn thể hiện hình tượng bằng từ “lồng ngực” dựa
trên mối quan hệ liên tưởng giữa chỉnh thể và bộ phận để nói về những cung bậc cảm xúc của
tình yêu => mang lại những nhục cảm rất thực trong thơ.
Hãy sát đôi đầu! Hãy kề đôi ngực!
Hãy trộn nhau đôi mái tóc ngắn dài!
Những cánh tay! Hãy quấn riết đôi vai!
Hãy dâng cả tình yêu lên sóng mắt!
(Xa cách – Xuân Diệu)
+ Trong tình yêu, Xuân Diệu là người rất mãnh liệt => ông luôn cảm thấy không bao giờ là đủ.
muốn người yêu sát lại gần mình, gần đến mức có thể nghe được từng nhịp thở của nhau, gần
hơn nữa để hai trái tim cùng hoà nhịp yêu thương.
* Đối với Xuân Quỳnh:
- Xuân Quỳnh có xu hướng đi tìm một cách lí giải khác cho hình tượng trái tim: đưa trái tim về
đúng với chức năng và nghĩa thực của nó.
Em trở về đúng nghĩa trái tim
Biết làm sống những hồng cầu đã chết
Biết lấy lại những gì đã mất
Biết rút gần khoảng cách yêu tin…
Em trở về đúng nghĩa trái tim em
(Tự hát – Xuân Quỳnh)
- Xuân Quỳnh không nói đến những gì quá cao siêu, quá bóng bẩy mà chỉ đề cập đến một trái
tim bình thường, một trái tim bằng máu thịt mà ai cũng có. Nhưng lại khác thường là bởi: “biết
yêu anh cả khi chết đi rồi!”.
Trái tim nhỏ nằm trong lồng ngực
Giây phút nào tim đập chẳng vì anh.

(Chỉ có sóng và em – Xuân Quỳnh)
=> Tình yêu rất đỗi thiêng liêng nhưng cũng vô cùng giản dị, nó ở ngay xung quanh ta và ta có
thể cảm nhận được, không đơn giản là bằng mắt nhìn mà phải cảm nhận nó theo từng nhịp đập
của con tim.
2. Hình tượng hoa
* Trong thơ Xuân Diệu
- Xuân Diệu là nhà thơ vô cùng nhạy cảm với thiên nhiên => hình ảnh của cỏ, cây, hoa, lá được
nhà thơ sử dụng làm chất liệu để viết lên những trang thơ tình lãng mạn.
- Trong số đó, hoa là vật có hương sắc và năng lực quyến rũ nhất, không thể thiếu được trong thơ
ông. Hình ảnh này xuất hiện trong thơ ông có khi là hoa thật trong đời sống.
Chen lá lục, những búp lài mở nửa
Hớp bóng trăng đầy miệng nhỏ xinh xinh;
(Hoa đêm – Xuân Diệu)
- Nhưng thông thường khi hình ảnh hoa đi vào thơ ông, ông luôn xem chúng như một chủ thể trữ
tình sống động:
Ôi vắng lặng! – Trong giờ mơ ngủ ấy
Bông hoa lài thức dậy, sáng từng đôi…
Sao họ khéo nõn nà mà bợ ngợ,
Những nàng hoa chờ đợi gió phong lưu!
(Hoa đêm – Xuân Diệu)
- Có lúc ông gọi thẳng: hoa kĩ nữ. Phải chăng kỹ nữ đẹp như hoa mà hoa cũng là kỹ nữ, người và
hoa lúc này là một.
“Miệng thở ra hương, hương toả tình ngầm/
Hoa kĩ nữ đã mở lời trêu ghẹo…”
ð

Tạo ra sự kết hợp từ độc đáo: người hoa “Có lẽ người hoa nay đã tươi” (Gặp gỡ I), môi
hoa “Và các môi hoa như sắp nói:/ Ái tình đẹp tợ chúng em đây.” (Rạo rực).
ð

Hình ảnh hoa trong đời thực khi bước vào thơ của Xuân Diệu đã trở nên rất khác biệt,
ông dùng hoa để nói đến người, nói đến vẻ đẹp của con người và tình yêu.
ð

Điểm khác biệt so với hình tượng hoa trong thơ của Xuân Quỳnh.

* Trong thơ Xuân Quỳnh:

- Có một hồn thơ nồng nàn và nhạy cảm => khi bắt gặp vẻ đẹp của hoa, Xuân Quỳnh cũng có
những rung động của riêng mình.
=> Vì sao Xuân Quỳnh lại đặt tên hai tập thơ của mình có liên quan đến hình ảnh này, đó là tập
thơ Hoa dọc chiến hào (1968) và tập thơ Hoa cỏ may (1989).
- Hình tượng hoa trong thơ Xuân Quỳnh so với thơ Xuân Diệu có nhiều điểm khác biệt.
- Thơ tình Xuân Diệu miêu tả vẻ đẹp nao lòng của hoa dưới ánh trăng đêm: “Hoa lài xanh dưới
ánh nguyệt tuôn trời/ Ánh nguyệt trắng trên hoa lài đúc sữa” (Hoa đêm) >< thơ Xuân Quỳnh
những hình ảnh hoa được đưa vào thơ lại là những cánh hoa rất bình dị và nhỏ bé như: “mùa hoa
doi”, “hoa ti gôn”, “hoa tường vi”, “hoa cỏ may”, hay đơn giản chỉ là loài “hoa dại trên núi
Hoàng Liên”…
- Hoa trong thơ Xuân Quỳnh mang vẻ đẹp mong manh, kín đáo và có phần thầm lặng, gợi hình
ảnh e ấp, dịu dàng của những cô gái tuổi đôi mươi.
Hoa nếp mỏng manh trước tầm gió thổi
Hoa diếp vàng cô độc giữa thâm u
Và bên đường hoa nghệ dại ngẩn ngơ
Hoa sim tím một nỗi buồn hoang dã
Hoa lay ơn góc vườn xưa còn nhớ
Mà thấy người cành lá khẽ lung lay…
(Hoa dại trên núi Hoàng Liên)
- Hình tượng hoa không gắn với người nào cụ thể mà gắn với những kỉ niệm về tình yêu. Mỗi bài
thơ như một mảnh ghép nho nhỏ về ký ức. Và vẻ đẹp của hoa như một chất xúc tác mạnh mẽ thổi
bùng lên ngọn lửa yêu thương trong trái tim của người con gái.
Anh có nghe hoa doi
Quanh chỗ mình đứng đó?
Hoa ơi sao chẳng nói
Anh ơi, sao lặng thinh?
(Mùa hoa doi)
- Bằng hình tượng những loài hoa có thật trong đời sống, Xuân Quỳnh làm người ta ngạc nhiên
trước những lời tâm tình rất ngây thơ, nồng nàn của một cô gái chớm yêu, nhưng lại mang giọng
điệu trầm tĩnh của một người phụ nữ từng trải.
Anh đừng hỏi tên hoa làm chi nữa
Những hoa này chỉ hoa dại mà thôi!…
Chỉ thấy núi muôn màu rực rỡ
Đôi khi giẫm lên hoa mà chẳng nhớ…
Những hoa này chỉ hoa dại mà thôi.

(Hoa dại trên núi Hoàng Liên)
ð

Nhà thơ thấy được vẻ đẹp thầm kín và lặng lẽ của mỗi loài hoa, thấy được sự hi sinh,
không cần được đáp lại, không cần được biết đến.
ð

Phải là người tinh tế và nhạy cảm mới có thể rung động và cảm thông trước nỗi niềm của
hoa kia.

=> Nhìn chung, thơ Xuân Quỳnh như là nhật kí, là tình yêu, là sự tri ân… được viết bằng
tất cả cái sôi nổi, đắm say của trái tim, chắt hết phần tinh tuý nhất của mình vào sáng tạo
nghệ thuật một cách có trách nhiệm và đầy tự chủ.
=> Không khó để nhận ra phong cách thơ Xuân Quỳnh, bởi trong mỗi trang viết tồn tại
một cái tôi trữ tình: trẻ trung mà chững chạc, mãnh liệt mà nữ tính, mâu thuẫn mà thống
nhất.
=> Thơ bà luôn gắn bó mật thiết với cuộc đời, mơ ước luôn trỗi dậy xanh tươi giữa hiện
thực khắc nghiệt, đẹp như một bông cúc xanh tràn đầy hivọng giữa muôn ngàn sắc hương
của thi đàn Việt Nam.

III. KẾT LUẬN
- Xuân Diệu và Xuân Quỳnh là niềm tự hào của thơ ca Việt Nam. Cả hai người đều giống nhau ở
giọng thơ nồng nàn, da diết và đều có chung tâm trạng lo lắng, cuống quýt trong tình yêu

- Tuy nhiên, phong cách ngôn ngữ với những đặc điểm vừa khát biệt vừa tương đồng đã khiến họ
trở nên nổi bật, lưu lại trong lòng độc giả những dấu ấn rất riêng khiến Xuân Diệu và Xuân
Quỳnh trở thành “ông hoàng, bà hoàng thơ tình Việt Nam”
- Chính sự đặc sắc và phong phú, độc đáo trong nghệ thuật ấy đã góp phần làm nên giá trị hấp
dẫn cho những tác phẩm của hai “viên ngọc toàn bích” trong nền thơ tình Việt Nam.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
//nguvan.hnue.edu.vn/Nghiencuu/Ngonngu/tabid/100/newstab/382/Default.aspx
//text.xemtailieu.com/tai-lieu/xuan-dieu-xuan-quynh-hai-phong-cach-tho-tinh-541760.html
//thayhieu.net/sanh-song-va-voi-vang/
//nguyendinhminh.net/index.php/tu-lieu-van-hoc/chuyen-lang-van/258-v-mt-cuc-qoi-coqgia-hai-thi-s

Tải về bản full

Xuân Quỳnh – thơ và tác phẩm trong nhà trường phổ thông

(ĐCSVN) – Xuân Quỳnh (1942 - 1988) là nhà thơ nữ nổi tiếng với nhiều tác phẩm đặc sắc, trong đó có những tác phẩm được đưa vào chương trình dạy học trong nhà trường phổ thông. Nhân dịp nhà thơ Xuân Quỳnh được trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học, nghệ thuật, Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam giới thiệu bài viết "Xuân Quỳnh – thơ và tác phẩm trong nhà trường phổ thông" của TS. Nguyễn Trọng Hoàn - Phó Vụ trưởng Vụ Giáo dục Trung học, Bộ Giáo dục và Đào tạo:

Một hành trình miệt mài và khao khát kiếm tìm, sáng tạo dường như nghiệp dĩ: “Vừa thoáng tiếng còi tàu, lòng đã Nam đã Bắc”. Một tiếng thơ đậm đà nữ tính, luôn luôn phấp phỏng lo âu: “Mùa thu nay sao bão mưa nhiều/ Những cửa sổ con tàu chẳng đóng”. Một trái tim thiết tha nhân hậu giữa những phân lập, tương tranh: Khát khao đi hồi hộp mỗi khi về. Một tình yêu mặn nồng, bỏng cháy: “Biết yêu anh cả khi chết đi rồi”... Đó là cuộc đời và thơ Xuân Quỳnh trước mỗi niềm vui và nỗi buồn nhân thế.

Ba bài thơ: Sóng, Tiếng gà trưa và Chuyện cổ tích về loài người được tuyển chọn để dạy và học trong chương trình giáo dục phổ thông môn Ngữ văn. Để có thể tiếp cận các bài thơ này, chúng tôi đặt chúng trong quá trình tìm hiểu một số phương diện giá trị đặc sắc nhất của toàn bộ tác phẩm thơ Xuân Quỳnh.

Bốn năm sau khi cho ra mắt độc giả tập thơ đầu tay Chồi biếc (in chung với Cẩm Lai, 1963) đương thời sung sức nhất thì Xuân Quỳnh lại viết: Nếu ngày mai em không làm thơ nữa/ Cuộc sống trở về bình yên/ Ngày nối nhau trên đường phố êm đềm/ Không nỗi khổ, không niềm vui kinh ngạc (Nếu ngày mai em không làm thơ nữa).

Có lẽ với nhiều người, để có được sự bình yên, êm đềm, không nỗi khổ đã là điều không dễ, bởi vậy bình yên, êm đềm, không nỗi khổ được xem như là niềm hạnh phúc. Còn với Xuân Quỳnh, bình yên, êm đềm, không nỗi khổ không những phải chấp nhận những khó khăn, thử thách đời thường, vượt lên những trắc trở của cuộc sống riêng tư mà còn đồng nghĩa với việc tác giả sẽ phải “trở về”, sẽ “không làm thơ nữa”! Nhưng “trở về” và “không làm thơ nữa” được sao - khi những cảm hứng về tình đời, tình người, niềm vui và nỗi buồn nhân thế trong chị như mũi tên định mệnh đã rời khỏi nỏ.

Một trái tim thức đập những lo âu

Sinh năm 1942 tại làng La Khê (Hoài Đức - Hà Tây, nay thuộc Hà Đông – Hà Nội), một làng có nghề truyền thống dệt the, dệt lụa nổi tiếng bên dòng sông Nhuệ thơ mộng hiền hoà, Xuân Quỳnh (tên khai sinh: Nguyễn Thị Xuân Quỳnh) là con út trong một gia đình mà người mẹ sau năm lần sinh nở chỉ giữ được có hai. Trước Xuân Quỳnh là ba anh trai và một chị gái nhưng cả ba người anh đều lần lượt qua đời khi chưa tròn sáu tháng tuổi. Rồi Xuân Quỳnh mất mẹ khi còn chưa đội được khăn tang. Tháng 2-1955 chị được tuyển vào Đoàn văn công nhân dân Trung ương và được đào tạo thành diễn viên múa. Chị được đi biểu diễn ở nước ngoài nhiều lần và dự Đại hội thanh niên sinh viên thế giới năm 1959 tại Viên (Áo). Năm 1962-1964 học ở trường bồi dưỡng những người viết văn trẻ (khóa 1) của Hội Nhà văn. Từ 1964 trở đi là biên tập viên báo Văn nghệ. Từ 1978 đến lúc mất là biên tập viên Nhà xuất bản Tác phẩm mới. Xuân Quỳnh từng được bầu là Ủy viên Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam (khoá 3). Chị mất (cùng Lưu Quang Vũ và cháu Lưu Quỳnh Thơ) ngày 29-8-1988 trong một tai nạn giao thông tại Hải Dương. Tác phẩm đã xuất bản: Tơ tằm - chồi biếc (thơ, in chung, 1963); Hoa dọc chiến hào (thơ, in chung, 1968); Gió Lào, cát trắng (thơ, 1974); Lời ru trên mặt đất (thơ, 1978); Sân ga chiều em đi (thơ, 1984); Tự hát (thơ, 1984); Hoa cỏ may (thơ, 1989); Thơ Xuân Quỳnh (1992-1994); Thơ tình Xuân Quỳnh - Lưu Quang Vũ (1994); Cây trong phố - Chờ trăng (thơ, in chung, 1992); Bầu trời trong quả trứng (thơ thiếu nhi, 1982); Truyện Lưu - Nguyễn (truyện thơ, 1985); Mùa xuân trên cánh đồng (truyện thiếu nhi, 1981); Bến tàu trong thành phố (truyện thiếu nhi, 1984); Vẫn có ông trăng khác (truyện thiếu nhi, 1986); Tuyển tập truyện thiếu nhi (1995).

Hoàn cảnh sớm bị thiệt thòi về tình cảm gia đình, cộng với những trớ trêu, ngang trái khi mới bước vào đời đã đặt Xuân Quỳnh vào tình thế của một người vất vả. Có thể nhận thấy điều đó qua lời tự thuật về bàn tay của chị: Bàn tay em ngón chẳng thon dài/ Vệt chai cũ, đường gân xanh vất vả/ Em đánh chắt chơi chuyền thuở nhỏ/ Hái rau rền rau rệu nấu canh/ Tập vá may, tết tóc một mình/ Rồi úp mặt lên bàn tay khóc mẹ...

Đôi bàn tay ấy không ghi hết dấu vết của tuổi thơ côi cút, dấu vết của một cuộc sống sớm phải toan lo. Khi có tình yêu rồi, vẫn đôi bàn tay ấy “Khi anh vắng bàn tay em biết nhớ”...

Công việc sáng tác, nhất là làm thơ, hẳn bao giờ cũng do sự bức xúc của nhu cầu bộc lộ nội tâm, nói cách khác là nhu cầu giải tỏa năng lượng cảm xúc của tâm hồn. Có thể vì một ước mơ, một nỗi niềm, một cảnh ngộ - song, với Xuân Quỳnh, nguồn năng lượng cảm xúc nổi trội nhất xuyên suốt cuộc đời và thơ chị là nỗi phấp phỏng lo âu - một ý thức nhân văn và đậm đà nữ tính trước dòng đời trôi chảy. Có thể xem đó là cảm hứng luôn luôn thường trực của một trái tim khát khao cháy bỏng trước bộn bề sự sống, ngay cả khi đang ở cạnh người yêu: Hoa ơi sao chẳng nói/ Anh ơi sao lặng thinh/ Đốt lòng em câu hỏi/ Yêu em nhiều không anh? (Mùa hoa doi).

Khi yêu, người ta thường mong ước được gần nhau. Với Xuân Quỳnh, dù được ở bên nhau rồi, nỗi niềm vẫn khôn nguôi thảng thốt. Cứ ngỡ chị miêu tả về một trạng thái tình cảm nhất thời, nhưng không, đó là câu hỏi không lời đáp, khiến cho cảm hứng về không gian, cảm hứng về thời gian cứ còn nhói buốt. Chị thường thảng thốt trước những đổi thay, những đổi thay của ngoại cảnh dễ khiến chạnh lòng: Mùa thu nay sao bão mưa nhiều/ Những cửa sổ con tàu chẳng đóng/ Dải đồng hoang và đại ngàn tối sẫm/ Em lạc loài giữa sâu thẳm rừng anh (Tự hát).

Sự đối trọng đến hụt hẫng xuyên thấm cảm hứng thơ: những “bão mưa nhiều” với “cửa sổ con tàu chẳng đóng”, những “dải đồng hoang và đại ngàn tối sẫm”... tạo ra cảm giác bấp bênh, bất ổn. Có thể bởi vậy, Xuân Quỳnh luôn luôn day dứt, luôn luôn khắc khoải trước một điều gì đó: Em khác chi con tàu/ Nay đây rồi mai đó/ Nên cả lúc gần anh/ Mà lòng em vẫn nhớ (Con tàu).

Nỗi nhớ lúc xa nhau là có thể, là lẽ thường; song nỗi nhớ có cả khi ở gần mới là nỗi nhớ có lẽ chỉ riêng của Xuân Quỳnh. Biểu hiện ấy vượt qua mức độ thường trực. Thế nhưng, ngay cả lúc chị đang “tự hát” về trái tim đích thực của chính mình: Chẳng dại gì em ước nó bằng vàng/ Trái tim em anh đã từng biết đấy… thì chị vẫn xác định đó là một trái tim “đúng nghĩa”: Em trở về đúng nghĩa trái tim em/ Là máu thịt, đời thường ai chẳng có/ Vẫn ngừng đập lúc cuộc đời không còn nữa (Tự hát).

Không tự huyễn hoặc bởi những ví von lãng mạn như thường thấy trong nhiều trái tim yêu, chị ý thức rõ rệt nhất về ranh giới của sự hữu hạn của đời người. Nhưng cũng chính lúc ấy, lại chính là khi chị đã vượt sang lĩnh vực của cõi vô cùng: Nhưng biết yêu anh cả khi đã chết rồi.

Sinh thời, Xuân Diệu được tiếng là thi sĩ của tình yêu, với cảm hứng yêu đương mãnh liệt, phồn thực và hết sức nồng nàn, cũng đã từng “tuyên ngôn” nổi tiếng về chuyện này: Khi chết rồi thì tôi sẽ yêu ma!

Thế nhưng chuyện “ma” thì chưa ai nhìn thấy, nên cũng chẳng thể đoán biết rồi sau Xuân Diệu sẽ yêu ở cõi ấy như thế nào! Cố nhiên, nhà thơ viết vậy là để khẳng định niềm yêu của ông là đam mê bất tận. Còn với Xuân Quỳnh, niềm yêu ấy là xác định, và luôn luôn xác định. Bởi thế, sự đối cực trong thơ Xuân Quỳnh đôi khi ngỡ chỉ xuất phát chỉ trên một trục tư duy nhưng lại xoay về vô định - “nhiều đến mức tưởng như chẳng có” như cách nói của chị: Anh, con đường xa ngái/ Anh, bức vẽ không màu/ Anh, nghìn nỗi lo âu/ Anh, dòng thơ nổi gió/ Mà em người đời thường/ Biết là anh có ở? (Anh).

Đọc Xuân Quỳnh, thấy chị dường như luôn luôn bị ám ảnh bởi một dư ba bất thường nào đó từ hai phía đối lập và tương tranh dữ dội: bình yên và bão tố, hiện hữu và hư vô; và có lẽ, điều ấy đã tạo ra một chất giọng đặc sắc Xuân Quỳnh. Nó được thể hiện trong việc chọn đề tài, chọn đối tượng để kí thác tâm trạng hay hoá thân nỗi niềm của chị. Sóng là một trong số những bài thơ như thế: Dữ dội và dịu êm/ Ồn ào và lặng lẽ/ Sông không hiểu nổi mình/ Sóng tìm ra tận bể...

Sóng vừa được chọn làm đối tượng, nội dung miêu tả, vừa là phương thức thể hiện “nỗi khát vọng tình yêu”. Cả bài 38 câu, có tới 13 cặp đối:

- dữ dội - dịu êm,

- ồn ào - lặng lẽ,

- sông - bể,

- ngày xưa - ngày sau,

- dưới lòng sâu - trên mặt nước,

- xuôi về phương Bắc - ngược về phương Nam...

Các đối cực vừa là ẩn dụ tinh tế của nỗi khát vọng tình yêu, vừa biểu hiện sự vận động, biến ảo không ngừng của thời gian - không gian nghệ thuật. Sóng, do đó đồng thời cũng là điểm nhìn nghệ thuật. Từ điểm nhìn này thấy được ranh giới giữa cái hữu hạn (con sóng) với cái vô hạn (biển lớn tình yêu). Sóng là tên bài thơ, sóng còn là phương thức thể hiện quan hệ, nó gợi ra cách hiểu tâm thế, cũng như tình yêu luôn luôn chẳng bình yên.

Giữa thơ và đời, giữa thế giới sáng tạo nghệ thuật với những toan lo thường nhật của Xuân Quỳnh được kết nối bằng sự mẫn cảm nữ tính.

Trong Thơ vui về phái yếu, chị viết thật giản dị về giới mình: Chúng tôi là những người đàn bà bình thường trên trái đất/ Quen với công việc nhỏ nhoi bếp núc hàng ngày/ Chúng tôi chẳng có tàu ngầm, tên lửa máy bay/ Càng không có hạt nhân nguyên tử/ Chúng tôi chỉ có chậu có nồi có lửa/ Có tình yêu và có lời ru/ Những con cò con vạc từ xưa/ Vẫn lặn lội bờ sông bắt tép/ Cuộc sống vẫn ngàn đời nối tiếp/ Như trăng lên, như hoa nở mỗi ngày...

Hình thức là thơ vui, tức là có thể nói hơi quá lên một chút, nhưng bài thơ được nhiều người nhớ đến bởi nội dung rất chân thành. Là “phái yếu” thì những “phẩm chất” kể trên được coi như “thuộc tính” nổi bật hàng đầu, thế nhưng kết tinh trong những công việc có vẻ rất giản dị của những vị thế có vẻ rất khiêm nhường ấy lại là nguồn gốc của biết bao điều vĩ đại: Dẫu là nguyên thủ quốc gia hay là những anh hùng/Là bác học... hay là ai đi nữa/ Vẫn là con của một người phụ nữ/ Một người đàn bà bình thường, không ai biết tuổi tên...

Cũng như bao phụ nữ khác, người phụ nữ trong thơ Xuân Quỳnh sống và yêu bằng tất cả sự đắm đuối, nồng nàn, vụng dại đến cả tin: Và cả anh, anh yêu của riêng em/ Khi anh nói yêu em, trái tim em đập chừng mạnh quá/ Mạnh đến nỗi em tưởng là nghe rõ/ Tiếng tim anh đang đập vì em...

Không chỉ có thế, sức mạnh của tình yêu dường như còn làm cho người phụ nữ ấy được khai sinh, được thánh thiện hơn, đẹp hơn, đó cũng là một quan niệm thật mới của chị về tình yêu: Em yêu anh, yêu anh như điên/ Em viết những bài thơ tình yêu tưởng anh là ý, tứ/ Trán em bớt dô ra, bàn tay không vụng nữa...

Và với chị, tình yêu là sự gắn kết không thể gì ngăn cách, là đồng nghĩa với lòng vị tha và khát khao dâng hiến hết mình: Em yêu sự thông minh hóm hỉnh/ Đến thói thường hay cáu gắt của anh...; Điều đơn giản anh hiểu ra tất cả/ Rằng tình yêu không thể tách rời/ Khi ấy em là cơ thể anh rồi/ Nếu cắt đi anh sẽ ngàn lần đau đớn...; Anh tính nỗi đau, niềm vui bằng tháng, bằng tuần lễ/ Nhưng với em, em hiến cả một đời (Thơ viết cho mình và những người con gái khác).

Thơ viết cho mình và những người con gái khác là một bài thơ dài, gồm ba phần, trong đó tác giả dành hẳn một phần để tâm tình với một người yêu cụ thể, với rất nhiều giả tưởng được yêu và được thể hiện tình yêu. Khát khao dâng hiến và được đắp bù là một trong những âm hưởng chủ đạo nhất trong trong thơ Xuân Quỳnh. Tình yêu, với chị - dù biểu hiện từ góc độ nào, cũng luôn luôn mãnh liệt và trong sáng một cách hồn nhiên. Giữa những phân lập, tương tranh, giữa những khoảng cách và xô dạt của cuộc đời: thuyền và biển, sóng và bờ, dữ dội và dịu êm, ồn ào và lặng lẽ, cỏ dưới chân và gió thổi trên đầu, gió Lào và cát trắng, đường tít tắp và không gian như bể... ấy là “trái tim đập sau làn áo mỏng” của chị.

Mong manh mà bền vững, Xuân Quỳnh nghị lực, bản lĩnh và cũng là người “yếu đuối nhất”(1). Mới hiểu vì sao trong thơ, chị hay nói đến mất mát và đắp bù, chia ly và đoàn tụ.

Một tâm hồn thiết tha nhân hậu

Chính vì luôn luôn thức đập giữa những đối cực như trên đã nói, tiếng thơ Xuân Quỳnh vừa thể hiện những hoang mang, nghi ngại của một trái tim nhạy cảm tinh tế và dễ tổn thương, vừa thể hiện những khát khao chở che và gắn bó của một tâm hồn nhân hậu. Với người yêu, người chồng: Nếu từ giã thuyền rồi/ Biển chỉ còn sóng gió/ Nếu phải cách xa anh/ Em chỉ còn bão tố (Thuyền và biển).

Khao khát tình yêu, hạnh phúc, khao khát mái ấm gia đình, có những lúc chị viết về điều đó thật giản dị mà thấm thía: Chẳng có gì quan trọng lắm đâu/ Như không khí, như màu xanh lá cỏ/ Đó tình yêu, em muốn nói cùng anh/ Nguồn gốc của muôn ngàn khát vọng/ Lòng tốt để duy trì sự sống/ Cho con người thực sự người hơn (Nói cùng anh).

Không “quan trọng lắm” mà thực vô cùng quan trọng. Tình yêu với chị, đó là “không khí” và “màu xanh lá cỏ” - là những điều như trong tầm tay với, không ở đâu xa mà cao cả và thiêng liêng như sự sống. Tình yêu ấy với chị, chỉ có được khi trái tim: “Làm sống lại những hồng cầu đã chết”, “Biết rút gần khoảng cách của yêu tin”. Không cầu kì, ước lệ, không lí tưởng và đề cao thái quá, nhiều bài thơ tình của Xuân Quỳnh có được sức sống lâu bền trong bạn đọc là do nội dung của những bài thơ ấy được nói bằng tiếng nói gần gũi, rất đỗi đời thường. Một mùa thu “sao bão mưa nhiều”, một sân ga chiều chia tay, một cánh chuồn chuồn báo bão, một cơn mưa không phải của mình... tất thảy đó là chuyện cuộc đời, với chị cũng trở thành ám ảnh và trở thành chuyện của thơ. Trong bài thơ Trời trở rét chị đã toan tránh cả “thành phố mùa đông” nhưng vẫn không nguôi ám ảnh “cô bán sách ngồi trong quầy lặng lẽ”, vẫn nghe “trời chuyển gió phải chăng hồ mềm yếu”, vẫn “thương cây bàng trước cửa” dẫu “hết mùa này cây lại lên xanh”... Nhưng không chỉ có vậy, đối tượng chị quan tâm nhất vẫn là một tình yêu con người cụ thể mà chị đã dành những câu thơ mở đầu và khép lại như điệp khúc: Sao không cài khuy áo lại anh/ Trời lạnh đấy hôm nay trời trở rét.

Chi tiết nhắc chồng “cài khuy áo” thật cụ thể, độc đáo và cảm động. Nó vượt qua sự biểu hiện tình yêu thông thường. Yêu chồng, chị dành sự quan tâm chăm sóc đến cả những nét sinh hoạt nhỏ nhất: Anh không ngủ được ư anh/ Để em mở quạt, quấn mành lên cho/ Lặng sao cái gió mặt hồ/ Ghét sao cái nóng đầu mùa đã ghê (Hát ru chồng những đêm khó ngủ).

Để chồng có giấc ngủ ngon, chị đã lựa lời dịu nhẹ với hi vọng sẻ chia, gánh đỡ những trăn trở ưu tư của chồng. Nào chuyện đoàn thương binh mới trở về “đánh nhau trước cửa hàng bia lúc chiều”, nào chuyện “con lũ đang triều nước dâng”, nào chuyện rừng “cọ cháy cao”, nào chuyện “người đói lang thang”, nào “tin chết của bạn mình”... Có thể nói: Trong thơ Việt Nam, Hát ru chồng là một tứ thơ độc đáo, trước Xuân Quỳnh chưa từng có. Nếu đề tài Hát ru chồng của Xuân Quỳnh gần như độc nhất vô nhị trong thơ ca Việt Nam thì bài thơ Mẹ của anh lại thể hiện cách cắt nghĩa độc đáo và hiện đại bậc nhất mối quan hệ giữa nàng dâu - mẹ chồng. Cùng nghe chị “vào đề”: Phải đâu mẹ của riêng anh/ Mẹ là mẹ của chúng mình đấy thôi/ Mẹ tuy không đẻ không nuôi/ Mà em ơn mẹ suốt đời, chưa xong…

Bài thơ được mở ra như câu chuyện tâm tình giữa một nàng dâu với mẹ chồng. Nếu không có hai chữ “đấy thôi” thì câu chuyện nói tới trong thơ như chỉ là điều mong ước, chỉ là dự định của tương lai. Sự xuất hiện của hai chữ này xác định yếu tố “tiền giả định” có tính hàm ngôn rằng: quá trình sống, quá trình ứng xử của nàng dâu đã đủ chứng minh “mẹ là mẹ của chúng mình”. Yêu chồng, nàng dâu còn cảm nhận được vẻ đẹp của sự “hóa thân”, hy sinh cao cả của tình mẫu tử mẹ đã dành cho: Ngày xưa má mẹ cũng hồng/ Bên anh mẹ thức lo từng cơn đau/ Bây giờ tóc mẹ trắng phau/ Để cho mái tóc trên đầu anh đen/ Đâu con dốc nắng đường quen/ Chợ xa gánh nặng mẹ lên mấy lần/ Thương anh thương cả bước chân/ Giống bàn chân mẹ tảo tần năm nao.

Không chỉ ơn mẹ trong bởi tình cảm yêu thương và bao dung mà mẹ chồng dành cho trong hiện tại, người con dâu trong thơ chị nhận thức rất rõ những ảnh hưởng quan trọng của mẹ với chồng mình: Lời ru mẹ hát thuở nào/ Chuyện xưa mẹ kể lẫn vào thơ anh: Nào là hoa bưởi hoa chanh/ Nào câu quan họ mái đình cây đa/ Xin đừng bắt chước câu ca/ Đi về dối mẹ để mà yêu nhau/Mẹ không ghét bỏ em đâu/ Yêu anh em đã là dâu trong nhà.

Nhận thức được vẻ đẹp và tình thương của mẹ, người con dâu ấy tự nguyện: Em xin hát tiếp lời ca/ Ru anh sau mỗi âu lo nhọc nhằn/ Hát tình yêu của chúng mình/ Nhỏ nhoi giữa một trời xanh khôn cùng/ Giữa ngàn hoa cỏ núi sông/ Giữa lòng thương mẹ mênh mông không bờ.

Đó là một nhận thức mới mẻ, thấm đẫm nhân văn về mối quan hệ giao hoà giữa tình cảm riêng - chung. Tiếp nối tình yêu của mẹ, nhà thơ khái quát: Chắt chiu từ những ngày xưa/ Mẹ sinh anh để bây giờ cho em.

Có lẽ chỉ bằng hai câu thơ chí tình nhân hậu ấy, Xuân Quỳnh đã “đối thoại” được với người xưa, “đối thoại” với những di ngôn nghiệt ngã của dân gian về mối quan hệ này từng lưu truyền từ rất nhiều đời mà không ít người muốn vượt qua thực chẳng dễ chút nào!

Không những thế, những gợi nhớ từ một tiếng gà trưa, những xúc cảm từ sức vươn chồi biếc, một mái phố mùa đông, một con chuồn chuồn báo bão... dường như tất thảy đều làm chị ngẫm ngợi về khát vọng sinh sôi, bao dung, nương tựa. Chị nghĩ về mái phố: Tôi về trong mái nhỏ/ Sau mỗi lần gian nan/ Như tìm đến bên anh/ Sau mỗi niềm cay đắng.

Mái phố không chỉ là nơi “Sinh ở đây thuở nhỏ”, không chỉ là nơi “Ơi cái màu ngói cổ. Màu áo mẹ gian lao” mà còn là nơi chở che thân thiết: Đã quen nhiều gian khổ/ Đã quen nhiều hi sinh/ Yêu thương là lòng anh/ Bao dung là mái phố (Mái phố).

Trước cảnh chuồn chuồn “bay đan nhau dệt mảnh nắng cuối cùng”, chị cồn cào nhớ về những kỉ niệm tuổi thơ, nhớ về tình yêu mỏng mảnh, để rồi thảng thốt: Trái đất này sẽ nhấn chìm trong mưa/ Không tìm đâu một chỗ nương nhờ! Mỏng manh thế chịu làm sao nổi/ Chuồn chuồn ơi báo làm chi bão tới/Trời bão lên rồi mày ở đâu? (Chuồn chuồn báo bão).

Không chỉ thế, đôi khi cảm hứng của nhà thơ được gợi từ âm thanh của tiếng gà trưa - một cảnh đời bình dị, một nét sinh hoạt thân quen trong cuộc đời thường nhật cũng dễ làm chị xúc động không ngờ: Trên đường hành quân xa/ Dừng chân bên xóm nhỏ/ Tiếng gà ai nhảy ổ/ "Cục! Cục tác cục ta"/ Nghe xao động nắng trưa/ Nghe bàn chân đỡ mỏi/ Nghe gọi về tuổi thơ (Tiếng gà trưa).

Từ âm thanh "Cục! Cục tác cục ta" ở khổ đầu tiên, mạch cảm xúc trong bài thơ được triển khai theo sự lặp lại đến bốn lần của các câu thơ “Tiếng gà trưa”. Sau mỗi câu thơ được lặp lại như thế, là những kỉ niệm tuổi thơ sống cùng người bà hết lòng thương cháu; là sự gợi nhớ về hình ảnh những con gà và niềm mơ ước những bộ quần áo mới; là tiếng gà cùng người chiến sĩ đi vào mặt trận, khắc sâu thêm tình yêu đất nước, quê hương.

Nhà giáo Đông Mai, chị gái của Xuân Quỳnh kể lại: “Số phận khắc nghiệt đã cướp đi của Quỳnh người mẹ từ khi còn trứng nước. Hình ảnh người mẹ đối với Quỳnh thật xa xôi, nhưng nỗi đau mất mẹ đã ám ảnh suốt một đời Quỳnh. Sau này, trên bước đường đời, những lúc vui buồn, đau khổ, Quỳnh vẫn nhớ và khóc về một người mẹ mà Quỳnh tin rằng rất thiêng, lúc nào cũng ở bên Quỳnh. Cuộc đời mồ côi khiến cho Quỳnh hiểu tình mẫu tử thiêng liêng, cần thiết và quí giá như thế nào đối với trẻ thơ, nên khi làm mẹ, Quỳnh đã dồn tất cả tâm hồn và sức lực cho con. Trong thơ Quỳnh, tình mẹ con thật là tha thiết, sâu đậm. Những đứa con là nguồn thi hứng không bao giờ cạn của Quỳnh. Những bài thơ nói về con, viết cho con chiếm một số lượng không nhỏ trong thơ Quỳnh. Và vì vậy, ta cũng hiểu vì sao thơ văn Quỳnh viết cho thiếu nhi, viết về thiếu nhi lại dí dỏm, nồng ấm tình thương như vậy”.

Với những người thân - nhất là các con (dù là con riêng của chồng), chị đã thể hiện trong thơ những tình cảm thật thiêng liêng, xúc động. Riêng mảng thơ viết cho tuổi nhỏ, thể hiện tình mẫu tử, bà cháu, anh em, bè bạn... chị đều thể hiện bằng cách nhìn, cách cảm vừa ngộ nghĩnh, bất ngờ vừa sâu sắc: Bà thấy Mí thắc mắc/ Bà cười bảo "Mí à/ Cái ngoan mà đem cho/ Thì lại ngoan hơn nữa". (Cái ngoan của Mí).

Hay: - À mẹ ơi có con dế/ Luôn trong bao diêm con đây/ Mở ra là con thấy ngay/ Con yêu mẹ bằng con dế. (Con yêu mẹ).

Nổi bật trong mảng thơ này là Chuyện cổ tích về loài người - một cổ tích bằng thơ với gần 80 câu có sự kết hợp nhuần nhị giữa yếu tố truyền thống và yếu tố cách tân, mượn những sự vật, hiện tượng của huyền thoại, cổ tích để diễn đạt lại những ý tưởng nhân văn, kết cấu theo lối chương hồi hiện đại: Trời sinh ra trước nhất/ Chỉ toàn là trẻ con...

Cứ như thế, tác giả dẫn dắt bạn đọc nhỏ tuổi từ sự vật, hiện tượng này sang sự vật, hiện tượng khác một cách hấp dẫn. Có điều đặc biệt là: Tác giả cắt nghĩa nguồn gốc của loài người là trẻ em, quá trình hình thành thế giới là do những nhu cầu sinh hoạt và phát triển của lứa tuổi này, sau trẻ em mới lần lượt xuất hiện những người gần gũi trong gia đình và ngoài xã hội: mẹ, bà, bố, thầy giáo... Bài thơ vừa mang đậm màu sắc triết lí và bên cạnh ý nghĩa giáo dục, dường như mỗi câu thơ vừa bắc cho người đọc một nhịp cầu nối để tiếp xúc với một cảnh huống, một sự vật hiện tượng của đời sống tự nhiên và xã hội, vừa gợi mở trí tưởng tượng bay bổng cùng những khung trời mới lạ và kì thú của tuổi thơ.

Xuân Quỳnh đã góp một tiếng nói, một giọng điệu đặc sắc trong nền thơ ca Việt Nam hiện đại. Thơ chị là nơi tập trung của niềm vui và nỗi buồn, của phấp phỏng lo âu và mang mang dự cảm, khát vọng chở che và nâng niu, nương tựa... Đó là kết quả của một quá trình miệt mài sáng tạo - mà trước hết là ý nghĩa của những nhịp đập từ trái tim nhân hậu, đằm thắm yêu thương và thật giàu nữ tính, như nhà nghiên cứu Phan Ngọc từng viết: “Xuân Quỳnh không có gì hết ngoài trái tim biết yêu, nhưng chính trái tim ấy đã nói lên thành thơ và chị trở thành nhà thơ nữ lớn nhất thế kỉ này của Việt Nam chỉ bằng trái tim chân thành và vô giá ấy”(2).

Đó cũng là những gì còn lại đích thực của cuộc đời và thơ Xuân Quỳnh, mà dư ba vẫn hằng lan tỏa, đồng hành với thời gian.

(1) Chữ dùng của nhà thơ Phan Thị Thanh Nhàn trong cuốn Thơ Xuân Quỳnh. NXB Hội Nhà văn, 1990, tr. 97.

(2) Nguyễn Trọng Hoàn: Xuân Quỳnh, Bằng Việt, Phạm Tiến Duật, Nguyễn Duy - Nhà văn và tác phẩm trong nhà trường. NXB Giáo dục, 1999, tr. 32.

TS. Nguyễn Trọng Hoàn

TIN LIÊN QUAN

  • Trao Huân chương Lao động hạng Ba cho Thầy thuốc Nhân dân Nguyễn Thị Ngọc Phượng
  • Đại dịch COVID-19 và chính sách đối với nhân viên y tế
  • Băng tuyết ở La Pán Tẩn, Mù Cang Chải, Yên Bái
  • Hai chùm ca bệnh COVID-19 trong cộng đồng tại TP Hồ Chí Minh đều đã được kiểm soát
  • 18 tỉnh, thành phố tham gia Liên hoan Âm nhạc toàn quốc đợt 1
  • Trên 1.000 con gia súc chết do ảnh hưởng của rét đậm, rét hại
  • Trộm cắp tài sản xử lý thế nào?

Ý kiến về nhà thơ Xuân Quỳnh và giải thưởng Hồ Chí Minh

Nguồn hình ảnh, Other

Chụp lại hình ảnh,

Một cuộc tọa đàm về thơ Xuân Quỳnh tại Hà Nội

Nhà thơ quá cố Xuân Quỳnh lại không có tên trong danh sách nhận giải thưởng Hồ Chí Minh năm nay.

Xuân Quỳnh, nhà thơ nữ Việt Nam đương đại, nổi tiếng với nhiều bài thơ: Thuyền và Biển, Sóng, Thơ tình cuối mùa thu...

Bà được truy tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật năm 2001.

Đến nay, vẫn còn nhiều bí ẩn về vụ tai nạn thảm khốc khiến bà cùng chồng, nhà biên kịch Lưu Quang Vũ và con, thiệt mạng năm 1988.

Quảng cáo

Giải thưởng Hồ Chí Minh là giải thưởng cao nhất của Nhà nước Việt Nam, tặng những công trình "có giá trị rất cao về khoa học, văn học, nghệ thuật, về nội dung tư tưởng, có tác dụng lớn phục vụ sự nghiệp cách mạng, có ảnh hưởng rộng lớn và lâu dài trong đời sống nhân dân, góp phần quan trọng vào sự nghiệp phát triển nền kinh tế quốc dân, khoa học, kỹ thuật, văn học, nghệ thuật".

Bà được Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch đề nghị xét tặng giải thưởng này với hai tập thơ Lời Ru Trên Mặt Đất và Bầu Trời Trong Quả Trứng ấn hành hồi thập niên 1980.

Hôm 18/1, truyền thông Việt Nam đăng tải lá thư của em chồng và hai con trai nhà thơ Xuân Quỳnh.

"Về phía gia đình cũng rất bất ngờ vì quá trình xét Giải thưởng trong gần một năm qua, ở mỗi vòng xét chọn, bỏ phiếu, chúng tôi được biết nhà thơ Xuân Quỳnh đều đạt số phiếu quy định (trên 90%)," thư viết.

"Nhà thơ Xuân Quỳnh cũng như những người sáng tạo khác, không kỳ vọng viết để đạt giải này hay giải kia. Bằng tâm huyết và tài năng của mình, họ lặng lẽ góp phần vào thành tựu chung của nền văn học nước nhà."

"Chúng tôi mong muốn nhận được sự trả lời chính thức từ các cơ quan có thẩm quyền về lý do nhà thơ Xuân Quỳnh không có tên trong danh sách được trao Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt 2016, nhằm giải tỏa những băn khoăn, bức xúc của gia đình và giới văn nghệ sĩ".

'Phục tùng'

Hôm 18/1, trả lời BBC từ TP Hồ Chí Minh, nhà thơ Phan Ngọc Thường Đoan cho hay: "Tôi không biết nhiều về bà Xuân Quỳnh nên không có ý kiến về bà nhưng Giải thưởng Hồ Chí Minh là giải có giá trị với những người làm văn hóa nghệ thuật trong nước."

"Dù vậy, tôi không bao giờ nghĩ mình có cơ hội nhận giải này do tôi chỉ làm thơ tình và không có những cống hiến xét theo tiêu chí của giải này."

Cùng ngày, trao đổi với BBC, nhà văn Nguyễn Viện nói: "Trong thời điểm bà Xuân Quỳnh xuất hiện, bà đã có những tác phẩm thơ rất tình cảm và chân thực nên nếu có việc trao giải thưởng ấy cho bà là xứng đáng."

"Tuy vậy, tôi nghĩ Giải thưởng Hồ Chí Minh chỉ thật sự danh giá với những người làm nghệ thuật trong hệ thống chính quyền, những người phục tùng."

"Giải này là chỉ xét cho những người phụng sự chế độ chứ không xét về tài năng của người làm nghệ thuật."

"Do thế mà giải có giá trị hay không là với tác giả nhận giải."

Video liên quan

Chủ đề