Cách giải quyết bài tập luật hình sự

BÀI TẬP Bài 1: A trộm cắp tài sản của B trị giá 100 triệu đồng. Hành vi của A cấu thành tội trộm cắp tài sản theo điểm e khoản 2 Điều 138 Bộ luật hình sự và bị Tòa án tuyên phạt 3 năm tù. Anh (chị) hãy xác định: a. Căn cứ vào khoản 3 Điều 8 Bộ luật hình sự, loại tội mà A thực hiện thuộc loại tội gì? Tại sao? b. Hành vi phạm tội của A thuộc trường hợp cấu thành tội phạm cơ bản, cấu thành tội phạm tăng nặng hay cấu thành tội phạm giảm nhẹ? Tại sao? Bài làm : a. Loại tội mà A đã thực hiện thuộc loại tội nghiêm trọng Giải thích: Khoản 3 Điều 8 Bộ luật hình sự (BLHS) quy định: 3. Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại không lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến ba năm tù; tội phạm nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến bảy năm tù; tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại rất lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến mười lăm năm tù; tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại đặc biệt lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là trên mười lăm năm tù, tù chung thân hoặc tử hình. Theo đó, các nhóm tội phạm được phân biệt với nhau bởi dấu hiệu về mặt nội dung chính trị, xã hội (tính nguy hiểm cho xã hội) và dấu hiệu về mặt hậu quả pháp lí (tính phải chịu phạt). Xét về mặt nội dung chính trị, xã hội: Xét về mặt nội dung chính trị, xã hội là xét về tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm. Nguy hiểm cho xã hội nghĩa là gây ra hoặc đe dọa gây ra thiệt hại cho các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ. Tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm có tính khách quan, không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của nhà làm luật. A trộm cắp tài sản của B trị giá 100 triệu đồng. Hành vi của a cấu thành tội trộm cắp tài sản theo điểm e khoản 2 Điều 138 BLHS và bị Tòa án tuyên phạt 3 năm tù. “Trộm cắp tài sản là hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác”. Khi nói đến trộm cắp tài sản thì không thể không đi kèm với hành vi chiếm đoạt tài sản, nếu lén lút mà không nhằm chiếm đoạt tài sản thì không phải là trộm cắp tài sản. Vì thế trộm cắp tài sản là chiếm đoạt tài sản bằng thủ đoạn lén lút. Hành vi của A đã gây nguy hại lớn cho xã hội, có tính chất chiếm đoạt, xâm phạm đến quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ được xác định tại khoản 1 Điều 8 BLHS, mà cụ thể là xâm hại quyền sở hữu tài sản của B trị giá lên tới 100 triệu đồng. Xét về mặt hậu quả pháp lí: Điều 138 BLHS quy định: 2) Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm: 1 a) Có tổ chức; b) Có tính chất chuyên nghiệp; c) Tái phạm nguy hiểm; d) Dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm; đ) Hành hung để tẩu thoát; e) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng; Tài sản mà A trộm cắp của B có trị giá 100 triệu đồng. Do vậy A phạm vào tội quy định tại điểm e khoản 2 Điều 138, đó là: “chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng”. Điều 138 BLHS cũng quy định rõ về hình phạt đối với hành vi phạm tội thuộc các trường hợp được nêu trong khoản 2 đó là “phạt tù từ hai năm đến bảy năm”. Ta có thể thấy được mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội trộm cắp tài sản của A là bảy năm tù. Như vậy, căn cứ vào khoản 3 Điều 8 BLHS thì ta xác định được loại tội mà A thực hiện thuộc loại tội phạm nghiêm trọng. b. Hành vi phạm tội của A thuộc trường hợp cấu thành tội phạm (CTTP) tăng nặng Giải thích : Trước hết, CTTP là tổng hợp các dấu hiệu chung có tính đặc trưng cho một loại tội phạm được quy định trong luật hình sự. Dựa theo tính chất và mức độ nguy hiểm của tội phạm, luật hình sự phân CTTP thành: CTTP cơ bản ( là CTTP chỉ bao gồm những dấu hiệu định tội); CTTP giảm nhẹ (là CTTP chứa những tình tiết làm tính chất và mức độ nguy hiểm của tội phạm giảm đi đáng kể); CTTP tăng nặng (là CTTP ngoài dấu hiệu định tội còn chứa dấu hiệu khác làm tính chất và mức độ nguy hiểm của tội phạm tăng lên). Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự (TNHS) được quy định trong Điều 48 BLHS 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009). Như vậy, dấu hiệu bắt buộc để phân loại CTTP cơ bản, tăng nặng hay giảm nhẹ là các dấu hiệu định khung, vì khi thỏa mãn những dấu hiệu đó sẽ cho phép chuyển khung hình phạt được áp dụng từ khung bình thường lên khung tăng nặng hoặc xuống khung giảm nhẹ. Xét trường hợp của A: A trộm cắp tài sản của B trị giá 100 triệu đồng. Hành vi của A cấu thành tội trộm cắp theo khoản 2 Điều 138 BLHS và bị Tòa án tuyên phạt ba năm tù. Khoản 1 Điều 138 là CTTP cơ bản (vì chỉ bao gồm dấu hiệu định tội): “người nào trộm cắp tài sản của người khác có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm”. Tức là, nếu A trộm cắp tài sản của B trị giá từ hai triệu đến dưới năm mươi triệu thì hành vi của A sẽ thuộc trường hợp CTTP cơ bản. Tuy nhiên, hành vi của A lại cấu thành tội trộm cắp tài sản theo điểm e khoản 2 Điều 138 BLHS, ngoài các tình tiết để định tội là trộm cắp tài sản, A còn có thêm tình tiết tăng nặng là “chiếm đoạt 2 tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đông đến dưới hai trăm triệu đồng” (cụ thể là 100 triệu đồng). Điều này phản ánh mức độ của tính nguy hiểm tăng lên rõ rệt so với các trường hợp trộm cắp tài sản quy định tại khoản 1. Những dấu hiệu có thêm trong trường hợp CTTP tăng nặng đối với hành vi của A cho phép chuyển khung hình phạt được áp dụng từ khung bình thường (mức cao nhất là ba năm – theo khoản 1 Điều 138 BLHS) lên khung tăng nặng (mức cao nhất là bảy năm theo khoản 2 Điều 138 BLHS). Tóm lại, từ những phân tích ở trên, ta có thể khẳng định: loại tội mà A thực hiện thuộc loại tội phạm nghiêm trọng và hành vi phạm tội của A thuộc trường hợp CTTP tăng nặng. Bài 2 : Ngày 23/1/2009 A đã thực hiện hành vi hiếp dâm chị H. Do quá uất ức, chị H đã treo cổ tự sát. Ngày 7/7/2009, Tòa án nhân dân tỉnh H. xét xử A về tội hiếp dâm theo điểm c khoản 3 Điều 111 BLHS. Hỏi : a. Cấu thành tội phạm của tội hiếp dâm ( Điều 111 BLHS) là cấu thành tội phạm hình thức? b. Theo phân loại tội phạm tại Điều 8 BLHS, hãy xác định tội hiếp dâm mà A đã thực hiện và bi xét xử thuộc loại tội phạm gì? Giải thích rõ tại sao? Trả lời : a. Cấu thành tội phạm của tội hiếp dâm là cấu thành tội phạm hình thức. Trước hết, cần hiểu cấu thành tội phạm hình thức là cấu thành tội phạm có một dấu hiệu của mặt khách quan là hành vi nguy hiểm cho xã hội. Từ định nghĩa này có thể nhận thấy, tội hiếp dâm thuộc loại cấu thành tội phạm hình thức, vì theo định nghĩa tội hiếp dâm đã được miêu tả trong BLHS tại Điều 111ở tội này là có 2 hành vi khách quan: - Hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng ko thể chống cự của nạn nhân. - Hành vi giao cấu. Tội phạm có cấu thành hình thức sẽ hoàn thành khi người phạm tội đã thực hiện tất cả các hành vi khách quan được mô tả trong CTTP. Như vậy tội hiếp dâm chỉ có thể được xác lập khi có hành vi giao cấu trái với ý muốn của nạn nhân đã được thực hiện, tức là hành vi nguy hiểm cho xã hội xâm hại tới quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ đã xảy ra, hậu quả từ hành vi phạm tội đã phát sinh. Hậu quả ở đây có thể là sức khỏe của nạn nhân, danh dự, nhân phẩm của nạn nhân bị ảnh hưởng, thậm chí có thể là tính mạng của nạn nhân bị đe dọa gây thiệt hại. Có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả. Hậu quả của hành vi hiếp dâm không thể phát sinh khi hành vi giao cấu chưa được thực hiện và ngược lại, khi hành vi giao cấu trái với ý muốn được thực hiện thì hậu quả cũng phát sinh. Dấu hiệu hành vi và hậu quả trong tội hiếp dâm luôn là các yếu tố đi kèm với nhau, không thể thiếu một trong hai yếu tố đó. Nếu thiếu một trong hai yếu tố đó thì tội hiếp dâm không thể xác lập. 3 Trong trường hợp trên, A đã có hành vi dùng vũ lực để hiếp dâm chị H, dẫn đến hậu quả nghiêm trọng là chị H uất ức mà tự sát. b.Xác định tội hiếp dâm mà anh A thực hiện và bị xét xử thuộc loại tội phạm gì? Tội phạm, hiểu theo nghĩa khái quát nhất là những hành vi nguy hiểm cho xã hội, có lỗi, trái pháp luật hình sự và phải chịu hình phạt. Tội phạm tuy có chung các dấu hiệu như trên, nhưng những hành vi phạm tội cụ thể có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội rất khác nhau. Do vậy, tại khoản 2 Điều 8 Bộ luật hình sự, tội phạm đã được phân thành bốn nhóm khác nhau: Tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Sự phân thành bốn nhóm tội như vậy vừa là biểu hiện cơ bản, vừa là cơ sở thống nhất nhất cho sự phân hóa trách nhiệm hình sự trong Bộ luật hình sự. Đồng thời là cơ sở thống nhất cho việc xây dựng các khung hình phạt cụ thể để áp dụng cho từng loại tội phạm xảy ra. Căn cứ để phân loại tội phạm được thể hiện trong Khoản 3, Điều 8 BLHS năm 1999, là căn cứ phân loại tội phạm dựa vào mức độ của tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội. Tội hiếp dâm được các nhà làm luật ấn định tại Điều 111 của BLHS, thực tiễn đã thừa nhận tất cả các hành vi hiếp dâm khi xảy ra đều có chung đặc điểm đó là hành vi giao cấu trái với ý muốn của nạn nhân. Tuy nhiên, để thực hiện được hành vi phạm tội trong thực tế rất đa dạng và phức tạp. Đối với mỗi trường hợp phạm tội khác nhau thì tính chất của hành vi, phương pháp, thủ đoạn, và hậu quả xảy ra cũng rất khác nhau. Do vậy đòi hỏi phải phân loại tội phạm đối với hành vi hiếp dâm để có thể cá thể hóa trách nhiệm hình sự, sự phân biệt và cá thể hóa được chính xác sao cho xét xử đúng người, đúng tội và trách nhiệm hình sự phải phù hợp với hành vi phạm tội mà họ đã gây ra. Để đáp ứng đòi hỏi đó, Điều 111 BLHS đã tiến hành phân loại đối với những hành vi hiếp dâm có tính chất và mức độ khác nhau thường xảy ra trong thực tế và ấn định khung hình phạt cụ thể đối với các hành vi phạm tội có cùng tính chất. Dựa vào cơ sở đó và khoản 3 Điều 8 BLHS, tội hiếp dâm được phân loại khá cụ thể. Đối với trường hợp trên, hành vi của A thuộc loại tội phạm nghiêm trọng. Theo khoản 3, điều 111-BLDS:Phạm tội hiếp dâm được quy định tại khoản 3 Điều 111 BLHS thuộc loại tội đặc biệt nghiêm trọng vì có tính nguy hại đặc biệt lớn cho xã hội và có khung hình phạt tương ứng cao nhất trên 15 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình. “Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì, bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình: a) Gây tổn hại cho sức khỏe của nạn nhân mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên; b) Biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội; c) Làm nạn nhân chết hoặc tự sát. Như vậy, hậu quả chị H tự sát nằm trong mục c, khoản 3, điều 111 quy định, đồng thời đối chiếu với điều 8, Vì vậy có thể kết luận, tội của A thuộc loại tội nghiêm trọng. 4 Từ đó có thể căn cứ để định rõ mức khung và hình phạt cho A theo pháp luật quy định, đó là phạt tù từ 12 năm đến 20 năm, mức cao nhất là tù chung thân hoặc tử hình. Bài 3 : Một tên A ăn trộm chiếc sh sau đó mang tới gửi nhà B ( bạn thân) . B hỏi A xe ở đâu mà ko mang về nhà. A bảo xe ăn trộm sau đó bảo B giữ hộ mai có người mua rồi sẽ cho B tiền. Nói xong A đi về . tới trưa ngày hôm sau A tới lấy xe . sau đó đến chiều mang cho B 5 tr. Hỏi : 1. Vậy trong trường hợp này B phạm tội gì? 2. Đồng phạm tội trộm xe hay tội che dấu tội phạm? Trả lời : 1. Về tội danh : Tội phạm tại Điều 250 BLHS là một tội ghép, nó quy định hai hành vi khác nhau là "chứa chấp tài sản do người khác phạm tội mà có" và "tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có". Hành vi chứa chấp là những hành vi như cất giữ, bảo quản... Hành vi tiêu thụ là những hành vi như mua để dùng, nhận để bán lại, giới thiệu người khác mua, chuyển tài sản đo cho người khác theo yeu cầu của người phạm tội... Vì vậy khi xác định tội danh, nếu người phạm tội thực hiện hành vi chứa chấp thì định tội là "Chứa chấp tài sản do người khác phạm tội mà có"; nếu người phạm tội thực hiện hành vi tiêu thụ thì định tội là "Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có" chứ không định tội như tên gọi của điều luật là "Chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có". Trường hợp người phạm tội thực hiện cả hai hành vi chứa chấp và tiêu thụ thì định tội là "Chứa chấp và tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có". Ở trường hợp trên, B chỉ thực hiện hành vi cất giữ mà không thực hiện hành vi tiêu thụ. Vì vậy tội danh của B là "Chứa chấp tài sản do người khác phạm tội mà có". 2. Vì sao nó là chứa chấp : Tình tiết "không hứa hẹn trước" chỉ có giá trị để xác định B không đồng phạm với A về tội "Trộm cắp tài sản". Còn nó cũng là dấu hiệu đặc trưng của cả tội "Che giấu tội phạm", chứ không chỉ riêng tội "Chứa chấp hoặc tiêu thụ...". Và hành vi cất giữ tang vật (vật chứng) của tội phạm cũng là một trong những hành vi khách quan của tội "Che giấu tội phạm". Việc phân biệt hai tội danh này là dựa vào mục đích của người phạm tội. Nếu mục đích là che giấu tội phạm mà người khác đã thực hiện thì cấu thành tội "Che giấu tội phạm". Còn nếu mục đích chỉ là trục lợi bất chính thì cấu thành tội "Chứa chấp...". B thực hiện hành vi cất giữ xe cho A với mục đích trục lợi, nên tội phạm mà B phải chịu là "Chứa chấp...". Bài 4 : B, C, D với động cơ chống chính quyền nhân dân đã lên vùng núi tập hợp một số thành phần bất mãn với chế độ XHCN đồng thời mua chuộc một số đối tượng thanh niên nhẹ dạ cả tin với số lượng trên 50 người lập nên tổ chức “Vì Dân Chủ và Nhân Quyền”. B, C, D trong tổ chức này đã có các hoạt động: 5 - Liên hệ với nước ngoài qua mạng Internet để xin vũ khí, tiền bạc nhưng chưa quan hệ được; - Đặt mìn phá trụ sở UBND xã để gây niềm tin với nước ngoài; - Bao vây UBND xã, huyện và bắn chết một số cán bộ công an xã, huyện. Hỏi : 1. Hành vi của nhóm B, C, D có dấu hiệu của các tội phạm nào? 2. Theo quan điểm của anh, chị, hãy xác định tội danh của nhóm B, C, D và phân tích rõ cơ sở để định tội cho nhóm B, C, D. Trả lời : 1. Hành vi của nhóm B, C, D có dấu hiệu của các tội phạm nào? Căn cứ vào những chứng cứ đã được cung cấp trong đề bài và những căn cứ khác, có thể chỉ ra hành vi của nhóm B, C, D có các dấu hiệu của các tội phạm sau: Một : Tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân (Điều 79 BLHS), bởi những lẽ sau: Về khách thể của tội phạm: hành vi của nhóm B, C, D xâm phạm trực tiếp sự tồn tại của chính quyền nhân dân. Đối tượng tác động ở đây là chính quyền nhân dân xã, huyện mà tổ chức của B, C, D đã có những hoạt động đặt mìn phá trụ sở UBND xã, bao vây UBND xã, huyện, bắn chết một số cán bộ công an xã, huyện. Về mặt khách quan của tội phạm: “hành vi khách quan của tội phạm được đặc trưng bởi hoạt động thành lập hoặc tham gia tổ chức nhằm lật đổ chính quyền nhân dân” (1). Trong tình huống này, B, C, D đã có những hành động cụ thể như sau để có thể khẳng định hành vi của nhóm B, C, D có dấu hiệu của tội phạm này: Thứ nhất, hoạt động thành lập tổ chức để lật đổ chính quyền nhân dân, thể hiện bằng một số hành vi cụ thể: B, C, D đã lôi kéo, tập hợp người vào tổ chức với động cơ chống chính quyền nhân dân; Thứ hai, đề ra chủ trương, đường lối hoạt động của tổ chức: trước hết B, C, D sẽ liên hệ với nước ngoài để lấy vũ khí, sau đó có vũ khí trong tay tiến hành đặt mìn phá trụ sở UBND xã; bao vây UBND xã, huyện và có hành vi xâm phạm trực tiếp đến tính mạng của một số cán bộ công an xã, huyện mà tổ chức của B, C, D bao vây. Về mặt chủ quan của tội phạm: nhóm B, C, D đã cố ý thành lập tổ chức “Vì Dân Chủ và Nhân Quyền” vì đã có động cơ từ trước là chống chính quyền và đã có những hoạt động cụ thể để thực hiện hành vi của mình. Hai : Tội bạo loạn (Điều 82 BLHS). Bởi lẽ: Về khách thể của tội phạm: hành vi của B, C, D và tổ chức Vì Dân Chủ và Nhân Quyền đã xâm phạm đến sự an toàn(sự vững mạnh) của chính quyền nhân dân và lực lượng vũ trang nhân dân. Về mặt khách quan của tội phạm: trong tình huống trên, nhóm B, C, D đã có những hoạt động cụ thể: tiến hành hoạt động vũ trang với việc tập hợp đông người( là những thành phần bất mãn với chế độ và một số đối tượng khác) bao vây trụ sở CQNN, lực lượng vũ trang nhân dân để đốt phá, gây nổ, tấn công các CQNN(ở đây là trụ sở UBND xã, huyện), bắn giết cán bộ(giết một số cán bộ công an xã, huyện). 6 Về mặt chủ quan của tội phạm: nhóm B, C, D thực hiện hành vi với lỗi cố ý trực tiếp: nhận thức được hành vi bao vây UBND xã và bắn giết một số cán bộ; đặt mìn phá trụ sở UBND xã của mình có thể gây nguy hại đến sự vững mạnh, đe dọa đến sự tồn tại của chính quyền nhân dân nhưng vẫn thực hiện. Mục đích phạm tội là dấu hiệu bắt buộc thể hiện ở việc gây khó khăn cho chính quyền trong việc giữ vững an ninh chính trị, bảo đảm trật tự an toàn xã hội, làm suy yếu chính quyền. Ba : Tội phá hoại cơ sở vật chất- kĩ thuật của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam (Điều 83 BLHS). Bởi những biểu hiện sau: về khách thể của tội phạm: hành vi của nhóm B, C, D xâm phạm đến sự hoạt động bình thường của cơ quan nhà nước, làm hủy hoại cơ sở vật chất kĩ thuật của CNXH: trụ sở cơ quan nhà nước(thông qua việc đặt mìn để phá trụ sở UBND xã, huyện); về mặt khách quan của tội phạm: nhóm B, C, D có hành vi phá hoại cơ sở vật chất kĩ thuật thuộc lĩnh vực chính trị cũng đồng nghĩa với việc đã hủy hoại đi những tài liệu quan trọng thuộc bí mật nhà nước được lưu giữ tại trụ sở UBND xã, huyện thông qua việc đặt mìn phá trụ sở(làm cho các tài sản trong cơ quan nhà nước mất hẳn giá trị sử dụng); về mặt chủ quan: lỗi của nhóm B, C, D là lỗi cố ý trực tiếp nhằm chống chính quyền nhân dân. Khi thực hiện hành vi phá hoại B, C, D nhận thức rõ hành vi đó có thể gây thiệt hại cho cơ sở vật chất, ảnh hưởng đến hoạt động của CQNN nhưng vẫn thực hiện và mong muốn cho thiệt hại đó xảy ra để đặt được mục đích chống chính quyền nhân dân; về chủ thể: là nhóm B, C, D có đủ năng lực chịu TNHS và độ tuổi, do vậy mới có khả năng thực hiện những hành vi đặc thù này. Bốn : Tội khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân(Điều 84 BLHS), bởi vì: Về khách thể của tội phạm: hành vi của nhóm B, C, D đã xâm phạm sự vững mạnh của chính quyền nhân dân thông qua việc đã trực tiếp bắn chết một số cán bộ công an xã, huyện(trực tiếp xâm phạm tính mạng của con người). Về mặt khách quan của tội phạm: nhóm B, C, D có hành vi xâm phạm đến tính mạng của cán bộ, công chức(giết một số cán bộ, công chức khi bao vây UBND xã, huyện). Đối tượng của hành vi giết cán bộ nhà nước của nhóm B, C, D là những cán bộ công an xã, huyện, là những người tham gia trực tiếp vào các hoạt động quản lý nhà nước, quản lý xã hội, hoạt động này của nhóm B, C, D có mục đích là nhằm chống chính quyền nhân dân, có thể nói đây là những hoạt động để phục vụ cho động cơ trực tiếp và chủ yếu là nhằm chống chính quyền nhân dân, là những hoạt động tạo điều kiện thuận lợi cho việc chống chính quyền được diễn ra mà không có sự cản trở bởi bất cứ yếu tố nào. Về mặt chủ quan của tội phạm: hành vi này của B, C, D được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp, có nghĩa là B, C, D nhận thức được hành vi giết cán bộ công an xã, huyện của mình có thể làm cho hoạt động của chính quyền lâm vào bế tắc vì cán bộ cán cốt, nhân lực không đủ để thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước, quản lý xã hội nhưng vẫn mong muốn cho hậu quả xảy ra(vẫn tiến hành bao vây trụ sở ủy ban, bắn chết một số cán bộ công an xã, huyện). 7 2. Theo quan điểm của anh, chị, hãy xác định tội danh của nhóm B, C, D và phân tích rõ cơ sở để định tội cho nhóm B, C, D. Căn cứ vào những tình tiết mà đề bài đưa ra cũng như đối chiếu với BLHS, thì có thể khẳng định nhóm B, C, D đã phạm Tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân theo quy định tại Điều 79 BLHS. Bởi những lẽ sau đây: Về mặt khách quan của tội phạm: B, C, D đã có hành vi thành lập tổ chức chống chính quyền nhân dân theo quy định của BLHS “người nào hoạt động thành lập hoặc tham gia tổ chức nhằm lật đổ chính quyền nhân dân, thì...” cụ thể là: B, C, D đã lên vùng núi tập hợp một số thành phần bất mãn với chế độ XHCN đồng thời mua chuộc một số đối tượng thanh niên nhẹ dạ cả tin để lập nên tổ chức Vì Dân Chủ và Nhân Quyền. Ở đây, nhóm B, C, D đã có “những chủ trương, đường lối hoạt động cho tổ chức chống chính quyền nhân dân chuẩn bị được thành lập đó là: có các hành vi tuyên truyền, rủ rê người khác cùng đứng ra thành lập tổ chức”(2) Vì Dân Chủ và Nhân Quyền( là hành vi đã tập hợp được một số thành phần bất mãn với chế độ và mua chuộc được một số đối tượng nhẹ dạ cả tin). Hoạt động thành lập tổ chức chống chính quyền nhân dân mà B, C, D đã thực hiện là việc do B, C, D cùng thống nhất ý chí, cùng chung mục đích với một số đối tượng khác đứng ra thành lập tổ chức. B, C, D trong tổ chức đã có những hoạt động: liên hệ với nước ngoài qua mạng Internet để xin vũ khí, tiền bạc tuy nhiên chưa quan hệ được; đặt mìn phá trụ sở UBND xã để gây niềm tin với nước ngoài; bao vây UBND xã, huyện và bắn chết một số cán bộ công an xã, huyện, những hành động này tuy có dấu hiệu của một số tội phạm cụ thể khác nhưng khi xem xét mục đích của những hoạt động này thì không cấu thành những tội độc lập khác mà những hoạt động này là nhằm phục vụ cho mục đích lật đổ chính quyền nhân dân. Bởi lẽ ở đây, hoạt động thứ nhất của B, C, D “không phải là hành vi câu kết với nước ngoài như ở Tội phản bội tổ quốc chỉ là hành vi bàn bạc với nhau tìm cách liên hệ, xin nước ngoài giúp đỡ để hoạt động nhưng chưa thực hiện được, chưa có sự câu kết với nước ngoài”(3) do vậy, đã thỏa mãn CTTP của Tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân. Ở hoạt động thứ hai, B, C, D không phạm Tội bạo loạn, Tội phá hoại cơ sở vật chất kĩ thuật của CNXH, Tội khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân, bởi vì chính hoạt động này không có mục đích là chống chính quyền nhân dân mà hoạt động cụ thể này là do B, C, D thực hiện nhằm mục đích tạo dựng sự tin tưởng đối với nước ngoài để từ đó có thể được các tổ chức nước ngoài tin tưởng mà đồng ý cung cấp vũ khí, tiền bạc cho nhóm B, C, D sử dụng để tiến hành các hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân mà mình đã có động cơ từ trước, cũng là sự phù hợp với ý chí của các đối tượng bất mãn với chế độ XHCN mà B, C, D lôi kéo. Ở hoạt động thứ ba, hành vi của B, C, D trong ý chí của mình không nhằm thông qua đó để chống lại chính quyền mà thông qua đó để tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động cụ thể làm thay đổi chế độ chính trị, kinh tế xã hội(lật đổ chính quyền nhân dân). 8 Về mặt chủ quan của tội phạm: lỗi của nhóm B, C, D là lỗi cố ý trực tiếp, B, C, D và những đối tượng khác cố ý cùng tham gia với nhau để thành lập nên tổ chức Vì Dân Chủ và Nhân Quyền với mục đích nhằm lật đổ chính quyền nhân dân thể hiện cụ thể ở chỗ: B, C, D đã có động cơ từ trước, thành lập nên một tổ chức với số lượng thành viên trên 50 người(có tổ chức chặt chẽ) và chính hành vi gây niềm tin với nước ngoài đã chứng minh tổ chức này không chỉ dừng lại ở việc nhằm làm suy yếu chính quyền nhân dân mà cao hơn thế nữa là nhằm lật đổ chính quyền hay nói cách khác nhờ nước ngoài cung cấp cơ sở vật chất để có đủ sức mạnh, tiềm lực làm thay đổi chế độ chính trị, kinh tế xã hội của đất nước. Hơn nữa việc chống lại chính quyền nhân dân chỉ là động cơ còn mục đích rõ ràng ở đây phải là nhằm lật đổ chính quyền nhân dân hay nói cách khác cái cuối cùng mà tổ chức của B, C, D hướng tới ở đây là lật đổ được chính quyền nhân dân. Về khách thể của tội phạm: hành vi của nhóm B, C, D đã trực tiếp xâm phạm tới sự tồn tại của chính quyền nhân dân (bao vây UBND và bắn chết một số cán bộ nhằm làm cho BMNN không còn đủ cơ sở để duy trì hoạt động được). Về chủ thể của tội phạm: trong tình huống trên chủ thể là B, C, D- là những người đã đủ độ tuổi chịu TNHS và không bị mắc các bệnh làm mất khả năng nhận thức hoặc điều khiển hành vi thì mới có thể có khả năng thực hiện các hoạt động: lôi kéo các thành phần bất mãn với chế độ; đặt mìn phá trụ sở; liên hệ qua Internet với nước ngoài; bao vây trụ sở ủy ban và giết một số cán bộ nhà nước./. Bài 5: A trộm cắp tài sản của B trị giá 100 triệu đồng. Hành vi của A cấu thành tội trộm cắp tài sản theo điểm e khoản 2 Điều 138 Bộ luật hình sự và bị Tòa án tuyên phạt 3 năm tù. Anh (chị) hãy xác định: Hỏi : a. Căn cứ vào khoản 3 Điều 8 Bộ luật hình sự, loại tội mà A thực hiện thuộc loại tội gì? Tại sao? b. Hành vi phạm tội của A thuộc trường hợp cấu thành tội phạm cơ bản, cấu thành tội phạm tăng nặng hay cấu thành tội phạm giảm nhẹ? Tại sao? Trả lời : a. Loại tội mà A đã thực hiện thuộc loại tội nghiêm trọng Giải thích: Khoản 3 Điều 8 Bộ luật hình sự (BLHS) quy định: 3. Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại không lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến ba năm tù; tội phạm nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến bảy năm tù; tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại rất lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến mười lăm năm tù; tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại đặc biệt lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là trên mười lăm năm tù, tù chung thân hoặc tử hình. 9 Theo đó, các nhóm tội phạm được phân biệt với nhau bởi dấu hiệu về mặt nội dung chính trị, xã hội (tính nguy hiểm cho xã hội) và dấu hiệu về mặt hậu quả pháp lí (tính phải chịu phạt). Xét về mặt nội dung chính trị, xã hội: Xét về mặt nội dung chính trị, xã hội là xét về tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm. Nguy hiểm cho xã hội nghĩa là gây ra hoặc đe dọa gây ra thiệt hại cho các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ. Tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm có tính khách quan, không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của nhà làm luật. A trộm cắp tài sản của B trị giá 100 triệu đồng. Hành vi của a cấu thành tội trộm cắp tài sản theo điểm e khoản 2 Điều 138 BLHS và bị Tòa án tuyên phạt 3 năm tù. “Trộm cắp tài sản là hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác”. Khi nói đến trộm cắp tài sản thì không thể không đi kèm với hành vi chiếm đoạt tài sản, nếu lén lút mà không nhằm chiếm đoạt tài sản thì không phải là trộm cắp tài sản. Vì thế trộm cắp tài sản là chiếm đoạt tài sản bằng thủ đoạn lén lút. Hành vi của A đã gây nguy hại lớn cho xã hội, có tính chất chiếm đoạt, xâm phạm đến quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ được xác định tại khoản 1 Điều 8 BLHS, mà cụ thể là xâm hại quyền sở hữu tài sản của B trị giá lên tới 100 triệu đồng. Xét về mặt hậu quả pháp lí: Điều 138 BLHS quy định: 2) Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm: a) Có tổ chức; b) Có tính chất chuyên nghiệp; c) Tái phạm nguy hiểm; d) Dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm; đ) Hành hung để tẩu thoát; e) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng; Tài sản mà A trộm cắp của B có trị giá 100 triệu đồng. Do vậy A phạm vào tội quy định tại điểm e khoản 2 Điều 138, đó là: “chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng”. Điều 138 BLHS cũng quy định rõ về hình phạt đối với hành vi phạm tội thuộc các trường hợp được nêu trong khoản 2 đó là “phạt tù từ hai năm đến bảy năm”. Ta có thể thấy được mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội trộm cắp tài sản của A là bảy năm tù. Như vậy, căn cứ vào khoản 3 Điều 8 BLHS thì ta xác định được loại tội mà A thực hiện thuộc loại tội phạm nghiêm trọng. b. Hành vi phạm tội của A thuộc trường hợp cấu thành tội phạm (CTTP) tăng nặng Giải thích: Trước hết, CTTP là tổng hợp các dấu hiệu chung có tính đặc trưng cho một loại tội phạm được quy định trong luật hình sự. Dựa theo tính chất và mức độ nguy hiểm của tội phạm, luật hình sự phân CTTP thành: CTTP cơ bản ( là CTTP chỉ bao gồm những dấu 10 hiệu định tội); CTTP giảm nhẹ (là CTTP chứa những tình tiết làm tính chất và mức độ nguy hiểm của tội phạm giảm đi đáng kể); CTTP tăng nặng (là CTTP ngoài dấu hiệu định tội còn chứa dấu hiệu khác làm tính chất và mức độ nguy hiểm của tội phạm tăng lên). Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự (TNHS) được quy định trong Điều 48 BLHS 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009). Như vậy, dấu hiệu bắt buộc để phân loại CTTP cơ bản, tăng nặng hay giảm nhẹ là các dấu hiệu định khung, vì khi thỏa mãn những dấu hiệu đó sẽ cho phép chuyển khung hình phạt được áp dụng từ khung bình thường lên khung tăng nặng hoặc xuống khung giảm nhẹ. Xét trường hợp của A: A trộm cắp tài sản của B trị giá 100 triệu đồng. Hành vi của A cấu thành tội trộm cắp theo khoản 2 Điều 138 BLHS và bị Tòa án tuyên phạt ba năm tù. Khoản 1 Điều 138 là CTTP cơ bản (vì chỉ bao gồm dấu hiệu định tội): “người nào trộm cắp tài sản của người khác có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm”. Tức là, nếu A trộm cắp tài sản của B trị giá từ hai triệu đến dưới năm mươi triệu thì hành vi của A sẽ thuộc trường hợp CTTP cơ bản. Tuy nhiên, hành vi của A lại cấu thành tội trộm cắp tài sản theo điểm e khoản 2 Điều 138 BLHS, ngoài các tình tiết để định tội là trộm cắp tài sản, A còn có thêm tình tiết tăng nặng là “chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đông đến dưới hai trăm triệu đồng” (cụ thể là 100 triệu đồng). Điều này phản ánh mức độ của tính nguy hiểm tăng lên rõ rệt so với các trường hợp trộm cắp tài sản quy định tại khoản 1. Những dấu hiệu có thêm trong trường hợp CTTP tăng nặng đối với hành vi của A cho phép chuyển khung hình phạt được áp dụng từ khung bình thường (mức cao nhất là ba năm – theo khoản 1 Điều 138 BLHS) lên khung tăng nặng (mức cao nhất là bảy năm – theo khoản 2 Điều 138 BLHS). Tóm lại, từ những phân tích ở trên, ta có thể khẳng định: loại tội mà A thực hiện thuộc loại tội phạm nghiêm trọng và hành vi phạm tội của A thuộc trường hợp CTTP tăng nặng. Bài 6 : Ngày 23/1/2009 A đã thực hiện hành vi hiếp dâm chị H. Do quá uất ức, chị H đã treo cổ tự sát. Ngày 7/7/2009, Tòa án nhân dân tỉnh H. xét xử A về tội hiếp dâm theo điểm c khoản 3 Điều 111 BLHS. Hỏi: a. Cấu thành tội phạm của tội hiếp dâm ( Điều 111 BLHS) là cấu thành tội phạm hình thức? b. Theo phân loại tội phạm tại Điều 8 BLHS, hãy xác định tội hiếp dâm mà A đã thực hiện và bi xét xử thuộc loại tội phạm gì? Giải thích rõ tại sao? Trả lời : a. Cấu thành tội phạm của tội hiếp dâm là cấu thành tội phạm hình thức. 11 Trước hết, cần hiểu cấu thành tội phạm hình thức là cấu thành tội phạm có một dấu hiệu của mặt khách quan là hành vi nguy hiểm cho xã hội. Từ định nghĩa này có thể nhận thấy, tội hiếp dâm thuộc loại cấu thành tội phạm hình thức, vì theo định nghĩa tội hiếp dâm đã được miêu tả trong BLHS tại Điều 111ở tội này là có 2 hành vi khách quan: - Hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng ko thể chống cự của nạn nhân. - Hành vi giao cấu. Tội phạm có cấu thành hình thức sẽ hoàn thành khi người phạm tội đã thực hiện tất cả các hành vi khách quan được mô tả trong CTTP. Như vậy tội hiếp dâm chỉ có thể được xác lập khi có hành vi giao cấu trái với ý muốn của nạn nhân đã được thực hiện, tức là hành vi nguy hiểm cho xã hội xâm hại tới quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ đã xảy ra, hậu quả từ hành vi phạm tội đã phát sinh. Hậu quả ở đây có thể là sức khỏe của nạn nhân, danh dự, nhân phẩm của nạn nhân bị ảnh hưởng, thậm chí có thể là tính mạng của nạn nhân bị đe dọa gây thiệt hại. Có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả. Hậu quả của hành vi hiếp dâm không thể phát sinh khi hành vi giao cấu chưa được thực hiện và ngược lại, khi hành vi giao cấu trái với ý muốn được thực hiện thì hậu quả cũng phát sinh. Dấu hiệu hành vi và hậu quả trong tội hiếp dâm luôn là các yếu tố đi kèm với nhau, không thể thiếu một trong hai yếu tố đó. Nếu thiếu một trong hai yếu tố đó thì tội hiếp dâm không thể xác lập. Trong trường hợp trên, A đã có hành vi dùng vũ lực để hiếp dâm chị H, dẫn đến hậu quả nghiêm trọng là chị H uất ức mà tự sát. b.Xác định tội hiếp dâm mà anh A thực hiện và bị xét xử thuộc loại tội phạm gì? Tội phạm, hiểu theo nghĩa khái quát nhất là những hành vi nguy hiểm cho xã hội, có lỗi, trái pháp luật hình sự và phải chịu hình phạt. Tội phạm tuy có chung các dấu hiệu như trên, nhưng những hành vi phạm tội cụ thể có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội rất khác nhau. Do vậy, tại khoản 2 Điều 8 Bộ luật hình sự, tội phạm đã được phân thành bốn nhóm khác nhau: Tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Sự phân thành bốn nhóm tội như vậy vừa là biểu hiện cơ bản, vừa là cơ sở thống nhất nhất cho sự phân hóa trách nhiệm hình sự trong Bộ luật hình sự. Đồng thời là cơ sở thống nhất cho việc xây dựng các khung hình phạt cụ thể để áp dụng cho từng loại tội phạm xảy ra. Căn cứ để phân loại tội phạm được thể hiện trong Khoản 3, Điều 8 BLHS năm 1999, là căn cứ phân loại tội phạm dựa vào mức độ của tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội. Tội hiếp dâm được các nhà làm luật ấn định tại Điều 111 của BLHS, thực tiễn đã thừa nhận tất cả các hành vi hiếp dâm khi xảy ra đều có chung đặc điểm đó là hành vi giao cấu trái với ý muốn của nạn nhân. Tuy nhiên, để thực hiện được hành vi phạm tội trong thực tế rất đa dạng và phức tạp. Đối với mỗi trường hợp phạm tội khác nhau thì 12 tính chất của hành vi, phương pháp, thủ đoạn, và hậu quả xảy ra cũng rất khác nhau. Do vậy đòi hỏi phải phân loại tội phạm đối với hành vi hiếp dâm để có thể cá thể hóa trách nhiệm hình sự, sự phân biệt và cá thể hóa được chính xác sao cho xét xử đúng người, đúng tội và trách nhiệm hình sự phải phù hợp với hành vi phạm tội mà họ đã gây ra. Để đáp ứng đòi hỏi đó, Điều 111 BLHS đã tiến hành phân loại đối với những hành vi hiếp dâm có tính chất và mức độ khác nhau thường xảy ra trong thực tế và ấn định khung hình phạt cụ thể đối với các hành vi phạm tội có cùng tính chất. Dựa vào cơ sở đó và khoản 3 Điều 8 BLHS, tội hiếp dâm được phân loại khá cụ thể. Đối với trường hợp trên, hành vi của A thuộc loại tội phạm nghiêm trọng. Theo khoản 3, điều 111-BLDS:Phạm tội hiếp dâm được quy định tại khoản 3 Điều 111 BLHS thuộc loại tội đặc biệt nghiêm trọng vì có tính nguy hại đặc biệt lớn cho xã hội và có khung hình phạt tương ứng cao nhất trên 15 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình. “Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì, bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình: a) Gây tổn hại cho sức khỏe của nạn nhân mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên; b) Biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội; c) Làm nạn nhân chết hoặc tự sát. Như vậy, hậu quả chị H tự sát nằm trong mục c, khoản 3, điều 111 quy định, đồng thời đối chiếu với điều 8, Vì vậy có thể kết luận, tội của A thuộc loại tội nghiêm trọng. Từ đó có thể căn cứ để định rõ mức khung và hình phạt cho A theo pháp luật quy định, đó là phạt tù từ 12 năm đến 20 năm, mức cao nhất là tù chung thân hoặc tử hình. Bài 7 : Một tên A ăn trộm chiếc sh sau đó mang tới gửi nhà B (bạn thân). B hỏi A xe ở đâu mà ko mang về nhà. A bảo xe ăn trộm sau đó bảo B giữ hộ mai có người mua rồi sẽ cho B tiền. Nói xong A đi về . tới trưa ngày hôm sau A tới lấy xe . sau đó đến chiều mang cho B 5 triệu. Hỏi : Vậy trong trường hợp này B phạm tội gì? Đồng phạm tội trộm xe hay tội che dấu tội phạm? Trả lời : 1/ Về tội danh: Tội phạm tại Điều 250 BLHS là một tội ghép, nó quy định hai hành vi khác nhau là "chứa chấp tài sản do người khác phạm tội mà có" và "tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có". Hành vi chứa chấp là những hành vi như cất giữ, bảo quản... Hành vi tiêu thụ là những hành vi như mua để dùng, nhận để bán lại, giới thiệu người khác mua, chuyển tài sản đo cho người khác theo yeu cầu của người phạm tội... Vì vậy khi xác định tội danh, nếu người phạm tội thực hiện hành vi chứa chấp thì định tội là "Chứa chấp tài sản do người khác phạm tội mà có"; nếu người phạm tội thực hiện hành vi tiêu thụ thì định tội là "Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có" chứ 13 không định tội như tên gọi của điều luật là "Chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có". Trường hợp người phạm tội thực hiện cả hai hành vi chứa chấp và tiêu thụ thì định tội là "Chứa chấp và tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có". Ở trường hợp trên, B chỉ thực hiện hành vi cất giữ mà không thực hiện hành vi tiêu thụ. Vì vậy tội danh của B là "Chứa chấp tài sản do người khác phạm tội mà có". 2/ Vì sao nó là chứa chấp Tình tiết "không hứa hẹn trước" chỉ có giá trị để xác định B không đồng phạm với A về tội "Trộm cắp tài sản". Còn nó cũng là dấu hiệu đặc trưng của cả tội "Che giấu tội phạm", chứ không chỉ riêng tội "Chứa chấp hoặc tiêu thụ...". Và hành vi cất giữ tang vật (vật chứng) của tội phạm cũng là một trong những hành vi khách quan của tội "Che giấu tội phạm". Việc phân biệt hai tội danh này là dựa vào mục đích của người phạm tội. Nếu mục đích là che giấu tội phạm mà người khác đã thực hiện thì cấu thành tội "Che giấu tội phạm". Còn nếu mục đích chỉ là trục lợi bất chính thì cấu thành tội "Chứa chấp...". B thực hiện hành vi cất giữ xe cho A với mục đích trục lợi, nên tội phạm mà B phải chịu là "Chứa chấp...". Bài 8 : A và B (là nam giới) rủ nhau đi uống rượu. Khi đã ngà ngà say, A, B vào một chòi canh cá nghỉ. Khi đang nghỉ A nhìn thấy chị C đang đi một mình trên quãng đường vắng gần đó. A bàn với B để thực hiện hành vi giao cấu với C. Thực hiện kế hoạch đã bàn, A ra ngoài buông lời trêu ghẹo chị C và dụ chị C vào chòi cá. Chị C không đồng ý, A dùng tay bịt mồm chị C và gọi B ra lôi chị C vào chòi cá. Trong chòi cá chỉ riêng A thực hiện hành vi giao cấu với chị C, B chỉ đứng nhìn không nói gì. Hai ngày sau A, B bị bắt. Hỏi: 1. Hành vi của A và B cấu thành tội gì? Tại sao? 2. Giả sử B mới 15 tuổi thì trong vụ án trên có đồng phạm không? Tại sao? 3. Nếu khi A thực hiện hành vi giao cấu với chị C, B giữ chân tay chị C thì B chỉ được coi là người giúp sức, đúng hay sai? Tại sao? 4. Giả sử sau khi bị bắt, A được xác định dương tính với vi rút HIV thì khung hình phạt áp dụng đối với A có thay đổi không? Tại sao? Trả lời : 1. Hành vi của A và B cấu thành tội hiếp dâm.(Điều 111, BLHS) Giải thích: Về chủ thể: A (người trực tiếp giao cấu với nạn nhân) là nam giới, thỏa mãn dấu hiệu chủ thể đặc biệt của tội hiếp dâm theo quy định của Luật hình sự Việt Nam. Mặt khác, do đề bài không đề cập đến vấn đề tuổi cũng như năng lực trách nhiệm hình sự của A và B nên ta mặc nhiên hiểu rằng A, B đủ tuổi chịu TNHS (điều 12 BLHS) và không thuộc tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự (điều 13 BLHS). Về hành vi: A đã thực hiện hành vi giao cấu trái ý muốn của chị C. Sự trái ý muốn thể hiện ở việc khi A buông lời trêu ghẹo và dụ chị C vào chòi thì chị C không đồng ý nhưng A vẫn 14 cố tình bịt mồm và gọi B ra lôi chị C vào chòi. Do ngay từ đầu chị C đã không có ý muốn giao cấu với A nên ta có thể hiểu rằng để có thể giao cấu được với chị C, A chắc chắn phải dùng vũ lực hoặc thủ đoạn nào đó để đè bẹp sự kháng cự của chị C. Như vậy hành vi của A thỏa mãn dấu hiệu “dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực […] hoặc thủ đoạn khác giao cấu với nạn nhân trái với ý muốn của họ” được mô tả trong cấu thành tội phạm tội hiếp dâm. B tuy không giao cấu với chị C nhưng trước đó đã có hành vi lôi chị C vào chòi cá, và trong khi A giao cấu với chị C thì B chỉ đứng nhìn mặc dù biết hành vi của A là trái pháp luật. Trong trường hợp này, B được coi là người giúp sức, là người tạo ra những điều kiện vật chất thuận lợi để A có thể dễ dàng thực hiện tội phạm hơn. Về khách thể: Hành vi của A và B đã xâm hại đến quyền được tôn trọng về danh dự, nhân phẩm của công dân, cụ thể ở đây là quyền tự do quan hệ tình dục của chị C Về dấu hiệu lỗi: A và B đều phạm tội với lỗi cố ý. A và B đều biết rằng việc giao cấu là trái với ý muốn của chị C nhưng vẫn cố tình thực hiện. Từ những dấu hiệu trên, có thể kết luận: Hành vi của A và B đã cấu thành tội hiếp dâm (điều 111 BLHS) 2. Nếu B mới 15 tuổi thì trong vụ án trên không có đồng phạm. Giải thích: Ý định phạm tội của A và B chỉ nảy sinh khi nhìn thấy chị C, chỉ có sự bàn bạc sơ qua mà không phải là sự câu kết chặt chẽ, chuẩn bị kỹ lưỡng từ trước nên hành vi của A và B không thuộc vào trường hợp “phạm tội có tổ chức”, cũng không thỏa mãn những tình tiết tăng nặng khác được quy định tại khoản 2, khoản 3 điều 111 BLHS. Từ những căn cứ trên nhận thấy hành vi của A và B phù hợp với quy định tại khoản 1, điều 111 BLHS. Đối với trường hợp phạm tội theo khoản 1, điều 111 BLHS, khung hình phạt được áp dụng là: “phạt tù từ hai năm đến bảy năm”. Như vậy mức cao nhất của khung hình phạt trong trường hợp này là: bảy năm tù. Theo khoản 3, điều 8 BLHS về phân loại tội phạm, “tội phạm nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến bảy năm tù”. Căn cứ quy định tại khoản 3, điều 8 BLHS, ta xác định được tội phạm mà A và B thực hiện thuộc loại tội nghiêm trọng. Khoản 2, Điều 12, BLHS quy định về tuổi chịu trách nhiệm hình sự như sau: “Người từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng”. Như vậy, nếu B mới 15 tuổi thì trong trường hợp này, B không phải chịu trách nhiệm hình sự. Điều 20, BLHS quy định: “Đồng phạm là trường hợp có hai người trở lên cố ý thực hiện một tội phạm”. “Hai người trở lên” phải thỏa mãn các dấu hiệu chủ thể của tội phạm. Tuy nhiên, B không thỏa mãn điều kiện “đủ độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự”. Do đó ta khẳng định: Nếu B mới 15 tuổi thì trong vụ án trên không có đồng phạm. 3. Nếu khi A thực hiện hành vi giao cấu với chị C, B giữ chân tay chị C thì B chỉ được coi là người giúp sức đúng hay sai? Tại sao? Trả lời: Nhận định trên là Sai. 15 Giải thích: Trong mặt khách quan của tội hiếp dâm, dấu hiệu hành vi được mô tả như sau: “Người nào dùng lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân hoặc thủ đoạn khác giao cấu với nạn nhân trái với ý muốn của họ…”. Như vậy, cho dù B chỉ giữ chân tay C để cho A thực hiện việc giao cấu thì cũng coi là B đã thực hiện một phần hành vi được các nhà làm luật mô tả, đó là “dùng vũ lực”. Và nếu tổng hợp hành vi của cả A và B thì mới thỏa mãn đầy đủ những dấu hiệu của cấu thành tội phạm tội hiếp dâm. Mặt khác, B là nam giới nên cũng thỏa mãn dấu hiệu chủ thể đặc biệt của tội này. Như vậy, B đóng vai trò là người thực hành – người trực tiếp thực hiện tội phạm chứ không phải là người giúp sức. Từ những phân tích trên, có thể khẳng định: Nếu khi A thực hiện hành vi giao cấu với chị C, B chỉ giữ chân tay chị C thì B cũng được coi là người thực hành, vậy nhận định B chỉ là người giúp sức là nhận định Sai. 4. Giả sử sau khi bị bắt, A được xác định dương tính với vius HIV thì khung hình phạt áp dụng đối với A có thay đổi không? Tại sao? Trả lời: Ta xét hai trường hợp sau: Trường hợp 1: A biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn thực hiện hành vi giao cấu. Đối với tội hiếp dâm, BLHS có quy định một trong những tình tiết định khung tăng nặng đó là: “Biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội”. Đây là tình tiết tăng nặng quy định tại điểm b, Khoản 3, Điều 111 BLHS. Như vậy, nếu A biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn cố tình thực hiện hành vi giao cấu với chị C thì A sẽ bị truy tố theo khoản 3, điều 111 BLHS. Lúc này, khung hình phạt áp dụng đối với A sẽ có sự thay đổi, thay vì “phạt tù từ hai năm đến bảy năm”(khoản 1, điều 111 BLHS), khung hình phạt mới được áp dụng với A là “phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân”. (khoản 3, điều 111 BLHS) Trường hợp 2: A không biết mình bị nhiễm HIV khi thực hiện hành vi giao cấu với chị C. Nếu khi thực hiện hành vi giao cấu với chị C, A không biết trong người mình có virus HIV thì không thể nói rằng A “biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội”. Do vậy, mặc dù sau khi bị bắt, A được xác định dương tính với virus HIV thì khung hình phạt áp dụng đối với A cũng sẽ không thay đổi, đó vẫn là khung hình phạt được quy định tại Khoản 1, Điều 111 BLHS: “phạt tù từ hai năm đến bảy năm”. Bài 9 : K và D cùng là những người mới chấp hành xong bản án 3 năm tù về tội cướp giật tài sản trở về địa phương được 5 tháng nhưng không chịu lao động và cùng là hang xóm của M. Khi đi qua nhà M, thấy chiếc xe máy để bên hè còn cả chìa khóa xe nên chúng đã nảy sinh ý định chiếm đoạt (lúc này cả nhà M đi vắng). K đứng ngoài ngõ canh gác, còn D vào nhà M lấy xe. Khi D dắt chiếc xe máy ra đến giữa sân thì bất ngờ bà N (vợ ông M) về nhà, bà N hỏi D: “Sao chú lại lấy xe máy của nhà tôi?”. D nói: “Tôi đã nói với ông M là cho tôi mượn đi có tí việc”. Bà N tưởng thật nên đã để D dắt xe ra ngõ. Lúc này ông M đi chơi về gặp D đang chuẩn bị nổ máy đã giữ xe lại, D xuống xe và nói: “Bà N vừa cho tôi mượn”. Ông M gọi bà N để hỏi xem có đúng là bà N cho D mượn không, thì bất ngờ D dùng tay phải đẩy ông M ngã đập đầu vào cạnh tường rào, đồng 16 thời chiếc xe máy đổ theo đè lên chân phải của ông M và D bỏ chạy về phía cuối làng. Còn K trước đó đứng chờ ở phía đầu ngõ, sau khi ra hiệu cho D biết là có ông M đang về và đã bỏ chạy khi thấy ông M giữ xe máy cùng với D. Ba ngày sau K và D bị bắt. Trị giá chiếc xe máy 25 triệu đồng. Kết quả giám định thương tích cùng đầu ông M tỷ lệ 32%, thương tích ở chân phải 5%. Tổng tỷ lệ thương tích là 37%. Hỏi : a/ Hãy định tội danh cho hành vi phạm tội của D và K, phân tích rõ cơ sở lý luận cho việc định tội? b/ Theo dữ kiện bài tập đã nêu có xảy ra vụ đồng phạm không? c/ Xác định những tình tiết tăng nặng có trong bài tập. d/ Hình phạt cao nhất có thể áp dụng đối với D và K là là bao nhiêu năm tù? Trả lời : Vấn đề 1: Hãy định tội danh cho hành vi phạm tội của D và K, phân tích cơ sở pháp lý? Theo dữ liệu của đề bài đưa ra ta nhận định: - D phạm vào tội trộm cắp tài sản và cố ý gây thương tích. - K phạm vào tội trộm cắp tài sản. * Đối với tội trộm cắp tài sản: - Trước hết tội trộm cắp tài sản của D và K là hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản đang có chủ và thuộc vào trường hợp có các tình tiết sau: + Giá trị tài sản chỉ ở khung 1 của tội trộm cắp, tức là tài sản trộm cắp có giá trị trên 500 nghìn đồng và dưới 50 triệu đồng. Theo bài thì tài sản mà D, K trộm cắp ở đây là chiếc xe máy của ông bà M, N có giá trị 25 triệu đồng. Thể hiện ở hành vi lén lút chiếm đoạt khi chiếc xe máy của ông M, khi ông M sơ ý để chiếc xe đó bên hè mà vẫn để chìa khóe trên xe. Như vậy về mặt đối tượng tác động của tội phạm trộm cắp đã thỏa mãn vì là tài sản có chủ. + Đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản và chưa được xóa án tích: D và K mới chấp hành xong bản án 3 năm tù về tội cướp giật tài sản và chưa được xóa án tích. + Hành vi chiếm đoạt chiếc xe máy của D, K là hành vi lén lút chiếm đoạt lợi dụng lúc gia đình ông M đi vắng mà chiếc xe còn cả khóa. Và khi có gia đình ông bà M, N về thì để chiếm đoạt cho được chiếc xe và che dấu tội phạm của mình thì D lại có hành động xảo quyệt để thực hiện đó là hành vi lừa dối chủ tài sản, thể hiện ở hành động nói dối đối với bà N “tôi đã nói với ông M là cho tôi mượn đi có việc” và khi ông M đi chơi về gặp D tiếp tục lừa dối “Bà N cho tôi mượn” với mục đích che dấu chủ chiếc xe. - Mặt khách quan: K và D phạm tội trộm cắp tài sản khi thực hiện hành vi phạm tội cũng biết chiếc xe chiếm đoạt có đặc điểm là đã có chủ. - Về mặt chủ quan: Tội phạm được thực hiện do lỗi cố ý vì mục đích vụ lợi. * Đối với tội cố ý gây thương tích: D không chỉ thực hiện tội trộm cắp tài sản mà D còn có hành vi “dùng tay phải đẩy ông M ngã đập đầu vào cạnh tường rào, đồng thời chiếc xe máy đổ theo đè lên chân phải ông M và D bỏ chạy về phía cuối làng”. Như vậy hành vi của D ở đây có thể coi chính một trong những tình tiết định khung tặng nặng quy định tại điểm đ Khoản 2 Điều 17 138 là hành vi hành hung để tẩu thoát. Tuy nhiên, do tổng tỷ lệ thương tật của ông M lên đến 37%, do vậy trong trường hợp này hành vi của D sẽ bị xét xử về tội cố ý gây thương tích quy định tại Điều 104. Vì dựa trên nguyên tắc chung của pháp luật đó là trong trường hợp phạm nhiều tội thì một hành vi chỉ có thể là tình tiết tăng nặng trong một tội phạm, khi tình tiết đó đã được sử dụng để xét xử cho một tội phạm khác rồi thì không được phép dụng chính tình tiết đó để làm căn cứ tham gia vào việc định một tội khác. Như vậy ở đây, D ngoài phạm tội trộm cắp còn phạm tội cố ý gây thương tích. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là hành vi cố ý gây tổn hại cho sức khỏe của nguời khác dưới dạng thương tích hoặc gây tổn thương khác. Để kết luận về việc D phạm thêm tội cố ý gây thương tích này chúng ta phụ thuộc vào các dấu hiệu sau: - Về mặt khách quan: + Hành vi khách quan: đó là những hành vi có khả năng gây thương tích hoặc gây tổn thương khác làm tổn hại đến sức khỏe của con người . Ở đây D đã có hành động “Bất ngờ D dùng tay phải đẩy ông M ngã đập đầu vào cạnh tường rào, đồng thời chiếc xe máy đổ theo đè lên chân phải của ông M “. Hành động đó đã thỏa mãn là hành vi xô đẩy và dùng chiếc xe máy để ngăn cản nhằm mục đích tẩu thoát. Tức là thông qua công cụ phương tiện để ngăn cản việc cản trở của ông M. + Hậu quả của tội phạm: D đã đẩy ông M vào cạnh tường rào và kết quả giám định thương tích vùng đầu ông M với tỷ lệ 32% đồng thời cùng với hành động chiếc xe máy đổ đè lên chân phải của ông M gây lên thương tích ở chân là 5 %. Tổng tỷ lệ thương tích là 37% . Như vậy với tỷ lệ thương tích là 37% hậu quả thương tích này do chính D gây ra. Quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả thương tích đó là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm. - Về mặt chủ quan: Lỗi của D là lỗi cố ý ,ở đây D đã thực hiện hành vi với lỗi cố ý trực tiếp, D mong hoặc có thể là chấp nhận hậu quả thương tích đó xảy ra. - Về mặt chủ thể: D là người có năng lực trách nhiệm hình sự và chắc chắn là đủ độ tuổi luật định vì họ mới bị xử lý về tội cướp giât tài sản. Như vậy dựa vào những căn cứ pháp lý trên chúng ta có thể kết luận rằng : D phạm tội trộm cắp tài sản và tội cố ý gây thương tích; còn K phạm tội trộm cắp tài sản. Vấn đề 2: Theo các dữ kiện bài tập đã nêu có xảy ra vụ đồng phạm không? Với những tình tiết cụ thể trong tình huống này có thể khẳng định K và D có đồng phạm với nhau. Theo khoản 1 điều 20 BLHS 1999, đồng phạm là trường hợp có 2 người trở lên cùng cố ý thực hiện một tội phạm. Đây là hình thức phạm tội đặc biệt, thể hiện quy mô và tính chất nguy hiểm hơn của tội phạm như tinh vi hơn, xảo quyệt hơn, táo bạo và liều lĩnh hơn so với trường hợp phạm tội riêng lẻ. Trong trường hợp này, D và K là đồng phạm vì họ đã thỏa mãn đầy đủ các dấu hiệu của đồng phạm. 1/. Những dấu hiệu về mặt khách quan. 18 - Thứ nhất, đồng phạm đòi hỏi phải có ít nhất 2 người và 2 người này phải có đủ điều kiện của chủ thể của tội phạm. Đó là điều kiện có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự. + Số lượng người phạm tội là 2 người, K và D. + Tuổi chịu trách nhiệm hình sự: K và D cùng là những người vừa chấp hành xong bản án 3 năm tù về tội cướp giật tài sản trở về địa phương được 5 tháng. Tại thời điểm bắt đầu chấp hành bản án trước đây về tội cướp giật tài sản, K và D đã là những người đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự (từ đủ 16 tuổi trở lên) thì đương nhiên trong trường hợp phạm tội mới này cả 2 đều đạt độ tuổi luật định và là những người có năng lực trách nhiệm hình sự đầy đủ. - Thứ hai, họ phải cùng thực hiện tội phạm, có nghĩa là người đồng phạm phải tham gia vào tội phạm với 1 trong 4 hành vi: hành vi thực hiện tội phạm, hành vi tổ chức thực hiện tội phạm, hành vi xúi giục người khác thực hiện tội phạm và hành vi giúp sức người khác thực hiện tội phạm. Khi tiến hành hành vi trộm cắp tài sản là chiếc xe máy nhà ông M, K đứng ngoài ngõ canh gác còn D vào nhà M lấy xe. Như vậy: + D là người thực hành, tức là người trực tiếp thực hiện tội phạm bằng hành vi cụ thể của mình: D vào nhà M lấy xe máy ra, bất ngờ gặp bà N là vợ ông M về thì D nói dối là đã hỏi mượn ông M rồi, đến khi gặp ông M thì D lại nói dối là đã hỏi bà N để mượn xe. + K là người giúp sức cho D thực hiện tội phạm. Bằng hành vi của mình K đã tạo ra điều kiện thuận lợi, dễ dàng cho việc thực hiện tội trộm cắp tài sản của D. Việc K đứng ngoài ngõ canh gác sẽ giúp D yên tâm vào nhà M lấy chiếc xe mà không phải lo lắng gì, nếu có người đến hoặc bị phát hiện thì đã có K ở ngoài báo hiệu cho D biết. Tuy nhiên, D và K chỉ đồng phạm thực hiện tội trộm cắp tài sản. Trong vụ việc này, D đã có hành vi vượt quá và hành vi này đã cấu thành một tội độc lập khác: khi ông M gặp D đang chuẩn bị nổ máy đi đã giữ xe lại, D xuống xe và nói: “bà N cho tôi mượn”. Ông M gọi bà N xem có đúng bà N cho D mượn không thì bất ngờ D dùng tay phải đẩy ông M ngã đập đầu vào cạnh tường rào đồng thời chiếc xe máy đổ theo đè lên chân phải ông M và D bỏ chạy về phía cuối làng. Theo giám định, tổng thương tích mà D gây ra cho ông M là 37%. Hành vi của D đã cấu thành tội cố ý gây thương tích. Đây là hành vi vượt ra ngoài ý định chung ban đầu của K và D bởi vì mục đích ban đầu của họ chỉ là chiếm đoạt được chiếc xe và K sau khi ra hiệu cho D biết có ông M đang về và đã bỏ chạy khi thấy ông M giữ xe máy cùng với D. Việc D gây ra thương tích cho ông M, K hoàn toàn không biết vì lúc ấy K đã bỏ chạy đi rồi. K và D không cùng nhau thực hiện tội cố ý gây thương tích cho ông M mà chỉ riêng D thực hiện nên K không đồng phạm cùng D trong tội này. 2/. Dấu hiệu về mặt chủ quan. Trong vụ đồng phạm đòi hỏi những người cùng thực hiện tội phạm đều có lỗi cố ý. Khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội mỗi người đồng phạm không chỉ cố ý với hành vi của mình mà còn biết và mong muốn sự cố ý tham gia của những người đồng phạm khác. 19 - Về mặt lí trí: mỗi người đều biết hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội và đều biết người khác cũng có hành vi nguy hiểm cho xã hội cùng với mình. K và D là những người có năng lực trách nhiệm hình sự đầy đủ nên hoàn toàn có thể nhận thức được rằng hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác là hành vi trái pháp luật. Hơn nữa, cả 2 vừa chấp hành xong bản án về tội cướp giật tài sản, đã được giáo dục cải tạo thì càng hiểu rõ về tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội mà cả 2 đang cùng nhau thực hiện. Vì K và D cùng nhau thực hiện việc lừa đảo chiếm đoạt tài sản của M, tức là mỗi người đều biết người còn lại cũng có hành vi nguy hiểm cho xã hội cùng với mình. K và D cũng thấy trước được hậu quả từ hành vi của mình cũng như hậu quả chung của tội phạm mà họ tham gia thực hiện đó là làm ông M mất đi chiếc xe. - Về ý chí: K và D cùng mong muốn có hoạt động chung và cùng mong muốn hậu quả phát sinh. Vì thế, đã có sự phân công rõ ràng giữa 2 người: K đứng ngoài ngõ canh gác còn D vào trong lấy xe ra. Việc phân công này nhằm mục đích là có thể lấy được cái xe dễ dàng, chót lọt. Đối với hành vi cố ý gây thương tích do D thực hiện, K hoàn toàn không biết có việc này xảy ra nên tất nhiên là K không mong muốn có hoạt động chung bởi vì K đã bỏ chạy trước khi D thực hiện hành vi ấy. Do đó, K và D không thỏa mãn dấu hiệu về mặt chủ quan của đồng phạm trong tội cố ý gây thương tích. Tóm lại, K và D đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản, không đồng phạm trong tội cố ý gây thương tích. Tội cố ý gây thương tích do một mình D thực hiện nên D phải chịu trách nhiệm hình sự độc lập về tội này. Vấn đề 3: Xác định những tình tiết tăng nặng theo dữ kiện có trong bài tập. Theo như đã phân tích tại vấn đề 1 thì D sẽ bị xử lý hình sự về hai tội danh là tội trộm cắp tài sản (Điều 138) và tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác (Điều 104). Còn K sẽ bị xử lý hình sự về tội trộm cắp tài sản (Điều 138) Khoản 2 Điều 48 quy định: “Những tình tiết đã là yếu tố định tội hoặc định khung hình phạt thì không được coi là tình tiết tăng nặng”. Có nghĩa là nếu một tình tiết đã được dùng để định tội và định khung thì không được dùng đến tình tiết đó để làm tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự cho chính tội phạm đó nữa. Do vậy khi căn cứ vào Khoản 1 Điều 48 BLHS quy định về các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, áp dụng cho tình huống bài ra. Ta nhận thấy trong tình huống bài có các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự sau: 1/ Tái phạm (điểm g Khoản 1). 2/ Có hành động xảo quyệt nhằm che dấu tội phạm ( điểm o Khoản 1). * Tái phạm : Khoản 1 điều 49 BLHS quy định: “Tái phạm là trường hợp đã bị kết án, chưa được xóa án tích mà lại phạm tội do cố ý hoặc phạm tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do vô ý”. Theo như dữ kiện bài đưa ra thì K và D cùng là người mới chấp hành xong bản án 3 năm tù về tội cướp giật tài sản trở về địa phương được 5 tháng thì lại phạm tội mới. Như vậy cả D và K đều chưa đủ điều kiện để được xóa án tích theo như quy định tại Điều 64 BLHS (Đương nhiên được xóa án tích). Dựa vào Điều 64, thì một người bị kết án được xóa án tích chỉ khi thỏa mãn hai điều kiện: qua một thời gian nhất định kể từ 20