Canxi có xử lý phosphorus hữu cơ

Ngày đăng: 14:19:55 30-09-2019

Quá trình chuyển hóa hợp chất phospho trong nước thải

  NGUỒN GỐC
Phospho tồn tại trong nước thải chủ yếu dưới dạng vô cơ và hòa tan, chủ yếu là OrthoPhosphat (PO4^3-) và một phần là Phosphate cô đặc (ví dụ P3O10^5-) từ chất tẩy rửa.

Canxi có xử lý phosphorus hữu cơ

Phospho vô cơ: Ortho-Phosphat (PO43-), Diphosphate, Polyphosphate

- Polyphosphate cô đặc và Phospho hữu cơ thủy phân trong mạng lưới đường ống thông qua Exoenzyme thành Ortho-Phosphat (PO43-).
- Tại nhà máy, khoảng 60 % … 70 % tải lượng P tồn tại dưới dạng PO4-P vor.
- Mật độ cao của sinh khối trong bước xử lý sinh học của nhà máy dẫn tới thủy phân toàn bộ thành PO43-.

  Nguồn chứa Phospho chính:

 
Hiện tượng phì nhưỡng
Chất dinh dưỡng Cacbon (C), Nitơ (N) và Phốtpho (P) sẽ được các sinh vật trong nước cũng như các Phytoplankton hấp thụ với tỷ lệ sau:
C : N : P = 50 : 5 : 1 hoặc BSB5 : N : P = 100 : 5 : 1

  - Về nguyên tắc, Phốt pho là yếu tố hạn chế.
- Nồng độ PO4-P từ 0,1 mg/l sẽ xuất hiện phì dưỡng.
- Đáng chú ý là Phốt pho không được xử lý sinh học trong nước mà chỉ được đưa vào tế bào nhờ quá trình trao đổi chất của sinh vật trong nước.
- 1 g P tạo điều kiện cho sự hình thành ít nhất 100 g sinh khối, ngược lại để phân hủy chúng cần 150 g O2.
- Các hậu qua khác của hiện tượng phì dưỡng:

  • Ảnh hưởng xấu tới cơ cấu thể loại của động vật và thực vật => Khả năng tự làm sạch giảm
  • Đục nước, giảm chức năng dành cho hoạt động giải trí
  • Ảnh hưởng xấu tới vị, gây mùi
  • Ảnh hưởng tới khai thác và xử lý nước cấp
  • Tăng cường quá trình tạo lắng tụ.

 
ĐẶC ĐIỂM
Trong các nguồn nước, photphat tồn tại ở dạng tan (đơn, ortho) trong nước, một phần lớn nằm ở lớp bùn dưới dạng muối ít tan (Ca, Fe, Al) hoặc trong các tế bào chế của động vật, thực vật. Trong điều kiện yếm khí của lớp bùn đáy, các dạng photphat không tan được một số loại vi khuẩn (Acinetobacter) phân hủy thành dạng tan, thâm nhập trở lại nguồn nước.

  Ô nhiễm nguồn nước do các chất dinh dưỡng thể hiện ở hiện tượng phú dưỡng, liên quan trực tiếp đến sự phát triển ồ ạt của tảo và một số các loại thủy thực vật. Tảo là loại thực vật đơn bào có kích thước từ một vài tới một trăm µm với chủng loại rất phong phú. Tảo có thành phần dinh dưỡng cao, hàm lượng protein thô trong tảo khô có thể tới 50 - 60% (8 - 20% N) vì vậy là nguồn thức ăn tốt cho thủy động vật và của người.

  Tuy nhiên có một số loại tảo có tính độc, trước hết là loại tảo lam (blue green algae). Một số loại tảo ví dụ Oscillatoria (f. Chalybea) tiết ra một số chất gây mùi khó chịu như geosmin, 2 - methylisoborneol. Đặc biệt gây tác hại là khi chúng chết đồng loạt, tạo ra môi trường nước mà phần lớn các loại thủy động vật không thể trú ngụ.

  Tảo cần đồng thời nhiều yếu tố để phát triển: nhiệt độ, ánh sáng, khí carbonic, nitơ, photpho và một loạt các nguyên tố vi lượng. Thiếu một trong các yếu tố trên sẽ hạn chế sự phát triển của chúng. Trong các nguồn nước tự nhiên không bị ô nhiễm, tảo phát triển với mức độ vừa phải và bị tiêu thụ bởi các loài thủy động vật, đặc biệt đối với động vật phù du có kích thước nhỏ.

Trừ một số trường hợp của nước thải công nghiệp sản xuất phân lân, mạ điện. Hợp chất phospho luôn đi kèm với hợp chất nitơ với một tỉ lệ nhất định. Phosphat hình thành trong nguồn thải đồng thời với sự hình thành của Amoni. Khác với hợp chất nitơ có thể tồn tại trong môi trường nước, đất và không khí, hợp chất phospho không tồn tại trong pha khí, chỉ tồn tại trong môi trường đất (chất rắn) và trong nước (dạng tan). 

  Do đặc điểm trên nên phương pháp xử lý phospho bị hạn chế hơn nhiều so với hợp chất nitơ và hợp chất hữu cơ,  chủ yếu đưa về trạng thái không tan từ trạng thái tan trong môi trường nước rồi từ đó tách hợp chất phosphat (dạng chủ yếu của phospho trong nước thải).

CƠ SỞ XỬ LÝ PHOSPHO

Hầu như tất cả các hợp chất của photpho không tồn tại ở dạng bay hơi trong điều kiện thông thường, vì vậy để tách photpho ra khỏi nước cần phải chuyển hóa chúng về dạng không tan trước khi áp dụng các kỹ thuật tách chất lắng như: lọc, lắng hoặc tách trực tiếp qua màng thích hợp. Hợp chất photpho trong môi trường nước thải tồn tại trong các dạng: photpho hữu cơ, photphat đơn (H2PO4-, HPO42-, PO43-) tan trong nước, polyphotphat hay còn gọi là photphat trùng ngưng, muối photphat và photpho trong tế bào sinh khối.

  Xử lý hợp chất photpho dựa trên các nguyên tắc sau:
Kết tủa photphat (đơn và một phần loại trùng ngưng) với các ion nhôm, sắt, canxi tạo ra các muối tương ứng có độ tan thấp và tách chúng ra dưới dạng chất rắn.

Phương pháp sinh học dựa trên hiện tượng là một số loại vi sinh vật tích lũy lượng photpho nhiều hơn mức cơ thể chúng cần trong điều kiện hiếu khí. Thông thường hàm lượng photpho trong tế bào chiếm 1,5 - 2,5% khối lượng tế bào khô, một số loại có thể hấp thu cao hơn, từ 6 - 8%. Trong điều kiện yếm khí chúng lại thải ra phần tích lũy dư thừa. Quá trình loại bỏ photpho dựa trên hiện tượng trên gọi là loại bỏ photpho tăng cường. Photpho được tách ra khỏi nước trực tiếp thông qua thải bùn dư (vi sinh chứa nhiều photpho) hoặc tách ra dưới dạng muối không tan sau khi xử lý yếm khí với một hệ kết tủa kèm theo (ghép hệ thống phụ).

  Tách các hợp chất photpho đồng thời với các tạp chất khác qua quá trình màng thích hợp: màng nano, màng thẩm thấu ngược hoặc điện thẩm tích. Về nguyên tắc hiệu quả tách lọc qua màng có hiệu suất cao nhưng do giá thành quá đắt nên hầu như chưa thấy có ứng dụng trong thực tế.

PHƯƠNG PHÁP XỬ LÝ

1. Kết tủa phosphat
Kết tủa phosphat là quá trình tạo ra mối nhôm, sắt, canxi, appatit, struvite với hóa chất thích hợp. Các chất tạo thành là dạng rắn có độ hòa tan thấp nên dễ dàng tách ra khỏi nước. Tốc độ quá trình kết tủa xảy ra nhanh nên dễ ghép nối vào hệ thống xử lý nước thải.

  2. Hấp thụ và hấp phu phosphat bằng vi sinh vật
Vi sinh vật hấp thụ phosphat chỉ ở dạng vô cơ tan (phosphat dạng đơn) để xây dựng tế bào với hàm lượng 2-3% khối lượng khô. Tách sinh khối đồng nghĩa với việc tách phospho ra khỏi nước.  Vi sinh vật có khả năng tích lũy (hấp phụ) phospho cao hơn vi khuẩn khác chủ yếu thuộc Acinobacter, chúng có thể tích lũy từ 6-8% nếu môi trường sinh hóa của chúng được đáp ứng. Trong môi trường hiếu khí, vi khuẩn hấp thụ phosphat với mức độ cao để tạo thành dạng polyphosphat trong tế bào. Trong môi trường yếm khí vi khuẩn hấp thu thành phần chất béo dễ bay hơi và phân hủy polyphospha thành phosphat đơn, giải phóng ra môi trường nước. Đây là phương thức sản xuất năng lượng của vi sinh vật tích lũy phospho.