Chiến lược phát triển thể dục thể thao Việt Nam đến năm 2030

Tháng 12 kịp ra Dự thảo Chiến lược?

Lãnh đạo Bộ VH-TT-DL đã làm việc cùng lãnh đạo Tổng cục TDTT và các Vụ chức năng chuyên môn của đơn vị này ngày 10-9 qua đó thảo luận những vấn đề cốt yếu trong việc xây dựng Dự thảo. Hẳn nhiên, Chiến lược phát triển TDTT theo giai đoạn là chương trình hoạt động và mục tiêu cần thiết cần phải có để những nhà quản lý thể thao xây dựng các phương án đào tạo, quản lý chuyên sâu qua đó giúp nền thể thao chúng ta từ đời sống cho tới chuyên nghiệp hiệu quả hơn. Mục đích của Chiến lược đã được quy định cụ thể đó là giúp phong trào TDTT trong toàn dân phát triển sâu rộng ở các cấp, các địa phương đồng thời cơ sở vật chất được đảm bảo cho mọi người tham gia tập luyện, rèn luyện thân thể. 

Ban soạn thảo và Tổ biên tập xây dựng Dự thảo đã được thành lập theo tiến độ thì tới tháng 11, việc tổng hợp ý kiến góp ý, và nội dung của Dự thảo cơ bản hoàn tất sau đó trình Thủ tướng Chính phủ xem xét. Bộ VH-TT-DL và Tổng cục TDTT dự kiến nếu tiến độ hanh thông thì "Chiến lược phát triển TDTT tới năm 2030, tầm nhìn tới năm 2050" có thể được phê duyệt trong tháng 12 năm nay. 

Điền kinh vẫn thuộc nhóm môn trọng điểm số 1 của thể thao Việt Nam.

Thực tế, hình thái về hoạt động TDTT (thành tích cao, phong trào) đã và đang thay đổi đáng kể bằng sự đa dạng hình thức, quy mô, nội dung, nhu cầu của người tham gia thể thao. Tác động của Covid-19 trong 2 năm qua khiến lĩnh vực TDTT gặp ảnh hưởng và nhà quản lý phần nào thấy được mô hình tập luyện trực tuyến, cách tiếp cận các môn thể thao đã khác biệt so với trước. "Việc xây dựng, ban hành Chiến lược phát triển TDTT tới năm 2030, tầm nhìn tới năm 2050 chính là để cụ thể hóa, triển khai hiệu quả các quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp liên quan tới phát triển TDTT đã nêu tại Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng; Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 10 năm giai đoạn 2021-2030", đại diện Bộ VH-TT-DL chia sẻ.  

"Các môn thể thao cần định vị về vị trí, vai trò, mục tiêu cụ thể về thành tích cao, môn thể thao trọng tâm, VĐV trọng điểm. Hạn chế ở thể thao nhà trường cần khắc phục và quan trọng là việc áp dụng khoa học công nghệ, sự phát triển các nội dung tập luyện trên các nền tảng số, mạng xã hội cũng cần được xem xét. Chắc chắn, sẽ có ý kiến để góp ý khi soạn thảo Dự thảo", đại diện Tổng cục TDTT bầy tỏ.

Đã có kinh nghiệm từ Chiến lược phát triển

Một trong những trọng tâm quan tâm hàng đầu ở mỗi Chiến lược phát triển TDTT vẫn là mục tiêu thành tích và cách thức đầu tư cho thể thao thành tích cao tại các đấu trường quan trọng như SEA Games, Asian Games và Olympic. 

Các VĐV sẽ được đưa vào những chương trình đầu tư trọng điểm.

Khi "Chiến lược phát triển TDTT tới năm 2020, đính hướng tới năm 2030" (phê duyệt năm 2010) và thực hiện xuyên suốt 10 trước, ngành TDTT đã xây dựng chương trình đầu tư trọng điểm với môn theo các nhóm 1, 2. Danh sách VĐV trọng điểm được thành lập hàng năm. Tuy vậy, người làm chuyên môn mong mỏi sự đầu tư cụ thể nhất trong khả năng chính là Tổng cục TDTT phải xây dựng được chiến lược đầu tư đúng con người, thật tinh gọn nhưng chuyên biệt mà không phải dàn trải chỉ để mang tâm lý vào danh sách trọng điểm để được tăng thêm tiền công, tiền lương chứ liệu pháp tập luyện, tập huấn không thay đổi. Song song với việc này, mục tiêu giành huy chương ở các đấu trường Asian Games, Olympic luôn phải đặt lên cao nhất. 

Tại "Chiến lược phát triển TDTT tới năm 2020, định hướng tới năm 2030"  đã ghi rõ môn trọng điểm nhóm 1 gồm điền kinh, bơi, cử tạ, taekwondo, vật (hạng cân nhẹ), bắn súng, karate, boxing (nữ), cầu lông, bóng bàn. 22 môn trọng điểm loại 2: bóng đá, bóng chuyền, judo, wushu, cầu mây, đấu kiếm, TDDC, pencak silat, bắn cung, xe đạp, cờ vua, cờ tướng, bi sắt, lặn, bóng ném, khiêu vũ thể thao, sport aerobic, quần vợt, thể hình, canoe-kayak, rowing , billiard-snooker, vovinam. Chắc chắn, số môn trọng điểm ở 2 nhóm sẽ thay đổi khi xây dựng Dự thảo Chiến lược của năm 2030. Qua tìm hiểu, ngành TDTT tiếp tục xây dựng danh sách VĐV trọng điểm ở năm 2022 và hướng vào 3 nhóm trọng tâm với các nhiệm vụ thi đấu thành tích cao khác nhau.

MINH CHIẾN

.

Cập nhật lúc: 21:35, 07/10/2021 (GMT+7)

Bộ VH-TTDL vừa có văn bản xin ý kiến UBND các tỉnh, thành phố về dự thảo Chiến lược phát triển thể dục thể thao (TDTT) Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050, trước khi trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, phê duyệt. Có lẽ rút kinh nghiệm Chiến lược phát triển TDTT năm 2020, tầm nhìn 2030 quá tham vọng, nhiều mục tiêu không đạt được, chiến lược giai đoạn mới “khiêm tốn” hơn rất nhiều.

Phải chờ 16 năm sau kỳ tích của Hoàng Xuân Vinh, thể thao Việt Nam mới dám nghĩ tới HCV Olympic?

Theo đó, với đấu trường Olympic, sau thực tế trắng tay ở Tokyo 2020, dự thảo đề ra tại Paris 2024, thể thao Việt Nam (TTVN) phấn đấu có từ 18-25 VĐV góp mặt và “có huy chương”. Đến Los Angeles (Mỹ) 2028, có 25-30 VĐV và cũng tiếp tục “có huy chương”. Phải từ Brisbane (Australia) 2032 đến năm 2050 mới “phấn đấu” có HCV. Tức nếu không có bất ngờ mang tính đột biến, phải chờ đợi 16 năm sau tấm HCV của xạ thủ Hoàng Xuân Vinh ở Rio 2016, TTVN mới có thể bước lên bục cao nhất của Olympic.

Tại Á vận hội cũng thận trọng không kém. Có lẽ vì e ngại dịch bệnh Covid-19 nên mục tiêu đặt ra ở Asiad Hàng Châu (Trung Quốc) 2022 của TTVN chỉ là phấn đấu đoạt từ 3-5 HCV. Đây chẳng khác nào bước thụt lùi so với Asiad 2018 tại Indonesia khi TTVN từng giành 5 HCV, 15 HCB, 19 HCĐ. Đến Aichi-Nagoya (Nhật Bản) 2026 mới là 6-8 HCV và Doha (Qatar) 2030: 8-10 HCV. Và từ Riyadh (Saudi Arabia) 2034 trở đi mới phấn đấu vào tốp 10. Tại Asiad 2018, xếp thứ 10 toàn đoàn là Cộng hòa dân chủ nhân dân Triều Tiên có 12 HCV, còn Việt Nam hạng 16; tức sau 16 năm phấn đấu tăng… 7 HCV và 6 bậc.

Với bóng đá, đến năm 2030, đội tuyển nam vào tốp 10 châu Á (hiện thứ 15), đội tuyển nữ trong tốp 6 (hiện đã đạt được?); đồng thời, duy trì tốp đầu tại đấu trường SEA Games và Đông Nam Á. Đến năm 2050, trong nhóm 8 nước có nền bóng đá phát triển mạnh nhất châu Á (tiêu chí nào?!).

Trên cơ sở chiến lược này, các nhóm môn thể thao cũng được hoạch định lại ưu tiên đầu tư. Theo đó, nhóm 1 (hướng tới Olympic) gồm: bắn súng, bắn cung, cử tạ (hạng cân nhỏ), bóng đá, điền kinh (một số nội dung nữ), bơi (một số nội dung nữ), quyền anh (nam, hạng cân nhỏ). Nhóm 2 (cho Asiad) có: judo, karatedo, taekwondo, thể dục dụng cụ, vật, kiếm, đua thuyền rowing, wushu, kurash, cầu lông, cờ vua, xe đạp (nữ). Và nhóm 3 (cho SEA Games, Đại hội thể thao trẻ, Đại hội thể thao trong nhà, bãi biển…): nhảy cầu, bóng bàn, bóng chuyền, đua thuyền canoeing, golf, bowling, bóng rổ, quần vợt, bi sắt, pencak silat, jujitsu, vovinam, khiêu vũ thể thao, thể dục aerobic, cờ tướng, billiards & snooker, bóng ném, cầu mây, kickboxing…

Đáng chú ý, bên cạnh nguồn đầu tư từ ngân sách nhà nước cho TDTT sẽ được tăng dần (đến năm 2030 là trên 1% tổng chi ngân sách nhà nước), dự thảo chiến lược cũng đặt ra yêu cầu phải phát triển kinh tế thể thao, đưa TDTT trở thành một ngành kinh tế dịch vụ tổng hợp, với mức tăng trưởng 6%/năm.

Trần Đỗ

Video liên quan

Chủ đề