Trường Đại học Tôn Đức Thắng là một trường đại học nghiên cứu tại Việt Nam.[1][2][3] Trường trực thuộc Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam. Show
Cơ sở Hồ Chí Minh: 19 Nguyễn Hữu Thọ, phường Tân Phong, Quận 7. Thông tinLoạiĐại học đa ngành hệ công lậpKhẩu hiệuVì sự phát triển con người và một xã hội tăng trưởng ổn định, bền vữngThành lập24 tháng 9 năm 1997Hiệu trưởngTS. Trần Trọng Đạo (Quyền)Websitewww.tdtu.edu.vnCơ sở Nha Trang: 9 Phạm Văn Đồng, phường Vĩnh Phước, Tp Nha Trang. Cơ sở Bảo Lộc: phường Lộc Tiến, Tp Bảo Lộc, Lâm Đồng. Cơ sở Cà Mau: đường Mậu Thân, khóm 6, phường 9, Tp Cà Mau. Trường hoạt động theo cơ chế tự chủ việc thu chi học phí.[4] Trường hiện có tổng cộng bốn cơ sở tại ba thành phố khác nhau, trong đó có các cơ sở tại Nha Trang, Bảo Lộc và Cà Mau. Lịch sửSửa đổiTiền thân của Trường Đại học Tôn Đức Thắng là Trường Đại học Công nghệ Dân lập Tôn Đức Thắng, được thành lập theo quyết định 787/TTg-QĐ ngày 24 tháng 9 năm 1997 của Thủ tướng Chính phủ. Trường do Liên đoàn lao động Thành phố Hồ Chí Minh sáng lập [5], đầu tư và lãnh đạo trực tiếp thông qua Hội đồng quản trị nhà trường do Chủ tịch Liên đoàn Lao động Thành phố đương nhiệm qua các thời kỳ là Chủ tịch. Với sự tăng trưởng ngày càng nhanh, để Trường có pháp nhân phù hợp bản chất thực của nó (là Trường của tổ chức công đoàn và hoàn toàn không có yếu tố tư nhân), ngày 28 tháng 1 năm 2003, Thủ tướng Chính phủ đã ra Quyết định số 18/2003/TTg-QĐ chuyển đổi pháp nhân của Trường thành Trường Đại học Bán công Tôn Đức Thắng, trực thuộc Ủy ban Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. Ngày 22 tháng 6 năm 2006, với Quyết định số 146, Chính phủ Việt Nam đã cho phép Trường Đại học Bán công Tôn Đức Thắng chuyển sang loại hình trường đại học công lập theo cơ chế tự chủ việc thu chi học phí.[6] Ngày 11 tháng 6 năm 2008, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng đã ký Quyết định số 747/QĐ-TTg về việc đổi tên Trường Đại học Bán công Tôn Đức Thắng trực thuộc Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh thành Trường Đại học Tôn Đức Thắng (công lập) và chuyển về trực thuộc Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam[7]. Xếp hạng đại họcSửa đổiTháng 8 năm 2020, Đại học Tôn Đức Thắng được bảng xếp hạng đại học thuộc trường Đại học Giao thông Thượng Hải (ARWU) xếp thứ 701-800 trên thế giới, tăng 200 bậc từ thứ 901-1000 năm 2019[8]. Hiện tại, Đại học Tôn Đức Thắng vẫn là đại diện duy nhất của các đại học Việt Nam trong bảng xếp hạng này. Ngày 16 tháng 5 năm 2020, tổ chức xếp hạng đại học thế giới theo thành tựu học thuật (University Ranking by Academic Performance - URAP) vừa công bố kết quả xếp hạng các đại học theo ngành giáo dục cho năm 2020. Theo đó, nhiều ngành của Đại học Tôn Đức Thắng được xếp top 400 và top 1000 thế giới[9]. Ở trong nước, trong những năm gần đây, Đại học Tôn Đức Thắng luôn đứng đầu cả nước về công bố quốc tế[10]. Tháng 4 năm 2020, Đại học Tôn Đức Thắng được tổ chức THE của Anh Quốc xếp hạng trong nhóm 400 trường đại học có ảnh hưởng nhất toàn cầu[11], trong đó chất lượng đào tạo được xếp trong nhóm 200 trường có chất lượng đào tạo tốt nhất thế giới, cùng nhóm với nhiều trường đại học hàng đầu trên thế giới như: ĐH Sydney, ĐH Monash (Úc), ĐH Oulu (Phần Lan), ĐH Kyung Hee (Hàn Quốc). Tháng 12 năm 2019, Đại học Tôn Đức Thắng được tổ chức xếp hạng đại học thế giới theo thành tựu học thuật (University Ranking by Academic Performance - URAP) xếp thứ 960 trên thế giới và số 1 ở Việt Nam[12]. Tháng 10 năm 2019, Đại học Tôn Đức Thắng được tổ chức QS của Anh Quốc xếp thứ 207 ở Châu Á[13]. Tổ chức này cũng xếp cơ sở vật chất và chất lượng đào tạo của trường đạt chuẩn 5/5 sao theo tiêu chuẩn của Anh Quốc. Bên cạnh xếp hạng chung, nhiều ngành của Đại học Tôn Đức Thắng được xếp hạng cao trên thế giới. Năm 2019, nhóm ngành Kỹ thuật (Engineering) của Đại học Tôn Đức Thắng được tạp chí chuyên về giáo dục của Hoa Kỳ, US News & World Report xếp hạng 395 trên thế giới và xếp số 1 ở Việt Nam[14]. Tổ chứcSửa đổiTrường có tổ chức theo các khối đơn vị như sau [15]: Khối giảng dạySửa đổi
Khối đào tạo, ứng dụng khoa học - kỹ thuật - công nghệSửa đổi
Khối quản lý, hành chính, phục vụSửa đổi
Lãnh đạo qua các thời kỳSửa đổiChủ tịch hội đồng trườngSửa đổi
Hiệu trưởngSửa đổi
Tuyển sinh đại họcSửa đổiChương trình đào tạo trình độ đại học tại cơ sở chínhSửa đổiSTT Chương trình đại trà Chương trình chất lượng cao Chương trình quốc tế 1 Thiết kế công nghiệp Ngôn ngữ Anh Quản lý du lịch và giải trí 2 Thiết kế đồ họa Việt Nam học (Chuyên ngành Du lịch và Quản lý du lịch) Quản trị kinh doanh 3 Thiết kế thời trang Quản trị kinh doanh Quản trị nhà hàng khách sạn 4 Thiết kế nội thất Marketing Quản trị kinh doanh quốc tế 5 Ngôn ngữ Anh Quản trị kinh doanh (Chuyên ngành Quản trị Nhà hàng - Khách sạn) Tài chính 6 Ngôn ngữ Trung Quốc Kinh doanh quốc tế Tài chính 7 Ngôn ngữ Trung Quốc (Chuyên ngành Trung - Anh) Tài chính - Ngân hàng Tài chính và kiểm soát 8 xã hội học Kế toán Kế toán 9 Việt Nam học (Chuyên ngành Du lịch và Lữ hành) Luật Khoa học máy tính và công nghệ tin học 10 Việt Nam học (Chuyên ngành Du lịch và Quản lý du lịch) Công nghệ sinh học Kỹ thuật điện điện tử 11 Việt Nam học (Chuyên ngành Việt ngữ học) Khoa học môi trường 12 Công tác xã hội Khoa học máy tính 13 Quản trị kinh doanh Kỹ thuật phần mềm 14 Marketing Kỹ thuật điện 15 Quản trị kinh doanh (Chuyên ngành Quản trị Nhà hàng - Khách sạn) Kỹ thuật điện tử - viễn thông 16 Kinh doanh quốc tế Kỹ thuật điều khiển và tự động hóa 17 Tài chính - Ngân hàng Kỹ thuật xây dựng 18 Kế toán Thiết Kế Đồ Họa 19 Quan hệ lao động (CN Quản lý Quan hệ lao động; CN Hành vi tổ chức) 20 Luật 21 Công nghệ sinh học 22 Kỹ thuật hóa học 23 Khoa học môi trường 24 Bảo hộ lao động 25 Công nghệ kĩ thuật môi trường 26 Toán ứng dụng 27 Thống kê 28 Khoa học máy tính 29 Truyền thông và mạng máy tính 30 Kỹ thuật phần mềm 31 Kỹ thuật điện 32 Kỹ thuật điện tử - viễn thông 33 Kỹ thuật điều khiển và tự động hóa 34 Kiến trúc 35 Quy hoạch vùng và đô thị 36 Kỹ thuật xây dựng 37 Kỹ thuật xây dựng công trình giao thông 38 Dược học 39 Khoa học thể thao (Chuyên ngành kinh doanh thể thao và tổ chức các sự kiện) 40 Khoa học thể thao (Chuyên ngành Quản trị Golf)Chương trình đào tạo trình độ đại học 2 năm đầu tại các cơ sởSửa đổiSTT Cơ sở Bảo Lộc Cơ sở Nha Trang Cơ sở Cà Mau 1 Ngôn ngữ Anh Ngôn ngữ Anh Ngôn ngữ Anh 2 Quản trị kinh doanh (Chuyên ngành Quản trị Nhà hàng - Khách sạn) Marketing Kế toán 3 Luật Quản trị kinh doanh (Chuyên ngành Quản trị Nhà hàng - Khách sạn) Kỹ thuật điện 4 Việt Nam học (Chuyên ngành Du lịch và Quản lý Du lịch) Kế toán Kỹ thuật điều khiển và tự động hóa 5 Kỹ thuật phần mềm LuậtCơ sở vật chấtSửa đổiCơ sở vật chất chính là thế mạnh của TDTU. Hiện tại trường đang có thư viện và hệ thống thông tin trên 500 máy tính. Hệ thống phòng thí nghiệm, xưởng thực hành phục vụ các ngành Kỹ thuật Điện - Điện tử, Kỹ thuật công trình, Công nghệ hóa, Công nghệ sinh học, Công nghệ máy tính,... đáp ứng tích cực mục tiêu định hướng thực hành trong đào tạo của nhà trường. Các tiện ích gồm [17]:
Chất lượng đào tạoSửa đổiĐội ngũ giảng viênSửa đổiTính đến tháng 3 năm 2017, trường có tổng cộng 831 giảng viên, trong đó có 55 giáo sư.[18] Các chứng nhậnSửa đổi
Học phíSửa đổiTheo thông báo số 1281/TB-TĐT do hiệu trưởng Lê Vinh Danh báo cáo ngày 18/7/2018 gửi Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, trong đó bao gồm thống kê học phí một học kỳ năm 2018 của từng ngành học ở hệ đại trà và chất lượng cao. Theo đó: Số tiền học phí của Trường Đại học Tôn Đức Thắng STT Ngành học Chương trình đại trà Chương trình chất lượng cao 1 Kế toán 9.250.000 18.000.000 2 Tài chính - Ngân hàng 9.250.000 18.000.000 3 Luật 9.250.000 18.000.000 4 Việt Nam học CN Du lịch và Quản lý du lịch 9.250.000 18.000.000 5 Công nghệ sinh học 11.000.000 18.500.000 6 Kỹ thuật xây dựng 11.000.000 18.500.000 7 Kỹ thuật điện 11.000.000 18.500.000 8 Kỹ thuật điện tử - viễn thông 11.000.000 18.500.000 9 Kỹ thuật điều khiển và tự động hóa 11.000.000 18.500.000 10 Kỹ thuật phần mềm 11.000.000 18.500.000 11 Khoa học môi trường 11.000.000 18.500.000 12 Khoa học máy tính 11.000.000 19.000.000 13 Ngôn ngữ Anh 9.250.000 22.000.000 14 Kinh doanh quốc tế 9.250.000 22.500.000 15 Quản trị kinh doanh 9.250.000 22.500.000 16 Kiến trúc 11.000.000 Không đào tạo 17 Nhóm ngành thiết kế 11.000.000 18 Các ngành kỹ thuật, công nghệ còn lại 11.000.000 19 Các ngành Luật, Quản lý, Khoa học xã hội còn lại 9.250.000Nghiên cứu khoa họcSửa đổiCác viện nghiên cứu [19]Sửa đổi
Các nhóm nghiên cứu [20]Sửa đổiNhóm nghiên cứu Trưởng nhóm Nhóm nghiên cứu cơ học tính toán (DCM) TS. Timon Rabczuk, Giáo sư thực thụ Nhóm nghiên cứu toán học và kỹ thuật tính toán (CME, INCOS) TS. Nguyễn Thời Trung, Giáo sư thực thụ Nhóm nghiên cứu tính toán trong xây dựng (DCC, INCOS) TS. Thái Hữu Tài Nhóm nghiên cứu cơ điện tử tính toán (DCME, INCOS) TS. Nguyễn Sỹ Dũng Nhóm nghiên cứu vật lý hạt nhân (DNP, AIMaS) TS. Sebastien Incerti Nhóm nghiên cứu thuật toán và công nghệ phân tích mạng lưới (ATNA) TS. Thái Trà My, Giáo sư thực thụ Nhóm nghiên cứu xương và cơ (BMR) TS. Nguyễn Văn Tuấn,Giáo sư thực thụThS. BS. Hồ Phạm Thục Lan (Đồng trưởng nhóm) Nhóm nghiên cứu chất lượng môi trường, khoa học khí quyển và biến đổi khí hậu (EAAC) TS. Nguyễn Đức Hiệp Nhóm nghiên cứu mô hình hóa thuật toán tiến hóa, mô phỏng và trí thông minh nhân tạo (MERLIN) TS. Ivan Zelinka, Giáo sư thực thụ Nhóm nghiên cứu công nghệ tri thức và hệ thống trong ICT (KSE-ICT) TS. Nguyễn Ngọc Thành, Giáo sư thực thụ Nhóm nghiên cứu kỹ thuật và quản lý môi trường (EEM_RG) TS. Bùi Xuân Thành, Giáo sư dự bị Nhóm nghiên cứu công nghệ năng lượng xanh (GET) TS. Chiu-Yue Lin, Giáo sư thực thụ Nhóm nghiên cứu tối ưu hóa hệ thống điện (PSO) TS. Võ Ngọc Điều Nhóm nghiên cứu giải tích ứng dụng (AA-RG) TS. Nguyễn Huy Tuấn, Giáo sư dự bị Nhóm nghiên cứu hóa tính toán (COMCHEM) TS. Nguyễn Minh Thọ, Giáo sư thực thụ Nhóm nghiên cứu vật lý lý thuyết (TPG, AIMaS) TS. Phạm Thanh Phong Nhóm nghiên cứu tiếp thị và quản trị quốc tế (IMMR) TS. Kun-Huang Huarng, Giáo sư thực thụ Nhóm nghiên cứu đổi mới và khởi nghiệp (IER) TS. Wen-Hsiang Lai, Giáo sư thực thụ Nhóm nghiên cứu giải tích phi tuyến (NARG) TS. Stojan Radenovic Nhóm nghiên cứu quản lý bền vững tài nguyên thiên nhiên và môi trường (SREM) TS. Bạch Quang Vũ Nhóm nghiên cứu stress thực vật (PS) TS. Trần Phan Lam Sơn Nhóm nghiên cứu lý thuyết hạt cơ bản và vũ trụ học (TPPC, AIMaS) TS. Hoàng Ngọc Long, Giáo sư thực thụ Nhóm nghiên cứu thông tin vô tuyến (WiCOM) TS. Miroslav Voznak, Giáo sư dự bị Nhóm nghiên cứu ô nhiễm không khí (APG) TS. Nguyễn Thị Kim Oanh, Giáo sư thực thụ Nhóm nghiên cứu vật lý nguyên tử phân tử và quang học (AMOG, AIMaS) TS. Lê Văn Hoàng, Giáo sư thực thụ Nhóm nghiên cứu vật lý tính toán (DCP, INCOS) TS. Nguyễn Trương Khang Nhóm nghiên cứu tính toán và thiết kế Hóa Sinh Nano (CODEBIO) TS. Trịnh Thành Thuật Nhóm nghiên cứu mô phỏng vật liệu (SMS, AIMaS) TS. Phạm Khắc Hùng, Giáo sư dự bị Nhóm nghiên cứu trắc lượng thông tin (INFORMETRICS) TS. Lê Văn Út Nhóm nghiên cứu vật lý vật liệu tính toán (CMP, AIMaS) TS. Võ Văn Hoàng, Giáo sư thực thụ Nhóm nghiên cứu vật liệu gốm và sinh học (CBM, AIMaS) TS. Nguyễn Việt Long Nhóm nghiên cứu y học thực chứng (EBM) TS. Nguyễn Tiến Huy, Giáo sư dự bị Nhóm nghiên cứu về phát triển bền vững trong xây dựng (SDCE) TS. Bùi Quốc Bảo Nhóm nghiên cứu động vật chân khớp và kiểm soát sinh học (AEBC) TS. Rostislav Zemek Nhóm nghiên cứu ứng dụng laser (LARG) TS. Reza Zamiri Nhóm nghiên cứu giải tích tính toán (CAG) TS. Farhad Ali, Giáo sư dự bị Nhóm nghiên cứu ứng dụng mạng xã hội (SocialTech) TS. Chien-Wen Shen Nhóm nghiên cứu quang điện tử (OPTO) TS. Hsiao-Yi Lee, Giáo sư thực thụ Nhóm nghiên cứu về nguồn năng lượng mới, năng lượng sinh học và sản xuất năng lượng xanh (GPBAE) TS. Gopalakrishnan Kumar Nhóm nghiên cứu quang học tính toán (CORG, AIMaS) TS. Preecha Yupapin Nhóm nghiên cứu vật liệu tiên tiến ứng dụng trong năng lượng sạch và môi trường (AFMEE) TS. Phạm Việt Hùng Nhóm nghiên cứu đại số và hình học (AGR) TS. Trần Tuấn Nam Nhóm nghiên cứu Khoa học thông tin địa lý (GIS) TS. Bùi Tiến Diệu, Giáo sư dự bị Nhóm nghiên cứu Y sinh và độc học sinh thái (TBR) TS. Bharath Kumar Velmurugan Nhóm nghiên cứu polyme dẫn điện trong composite và các ứng dụng (CPCA) TS. Rudolf Kiefer, Giáo sư dự bị Nhóm nghiên cứu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao (SARAT) TS. Ngô Việt Đức Nhóm nghiên cứu Phát triển môi trường tái tạo và Tổng hợp sản phẩm xanh tân tiến (IGRED) TS. Arivalagan Pugazhendhi Nhóm nghiên cứu Tối ưu đa mục tiêu có tham số (PMO) TS. Đinh Thế Lục, Giáo sư thực thụ Nhóm nghiên cứu Phân tích ứng dụng TS. Qian Long Kweh Nhóm nghiên cứu ứng dụng kỹ thuật tính toán trong xây dựng và kết cấu (ACCSE) TS. Đỗ Nguyễn Văn VươngThông tin bên lềSửa đổiKỷ luật hiệu trưởngSửa đổiĐoàn Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam đã đưa ra quyết định tạm đình chỉ với hiệu trưởng Lê Vinh Danh 90 ngày do để xảy ra nhiều vi phạm trong công tác quản lý nhà trường[21][22]. Ngày 18 tháng 9 năm 2020, Ban thường vụ Đảng uỷ khối đại học, cao đẳng thành phố Hồ Chí Minh quyết định cách tất cả chức vụ trong Đảng đối với ông Lê Vinh Danh. Lý do nêu ra là ông đã trực tiếp ký các văn bản, thể hiện việc không chấp hành các chỉ đạo của Đảng Đoàn, Đoàn Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam và có liên quan đến thực hiện công tác tổ chức, cán bộ của trường, trực tiếp biên tập nội dung biên bản cuộc họp theo hướng thêm những phát biểu phản đối nhằm làm giảm sút uy tín của Tổng Liên đoàn, duyệt chi nhiều khoản tiền lớn không đúng quy định. Về mặt công tác đảng, ban thường vụ Đảng uỷ khối đại học, cao đẳng TP HCM cũng đã ra quyết định cách tất cả chức vụ trong Đảng đối với ông Lê Vinh Danh. Bên cạnh đó, tập thể Đảng ủy Trường đại học Tôn Đức Thắng cũng bị cảnh cáo vì đã có những vi phạm trong việc buông lỏng lãnh đạo trong thực hiện quy chế làm việc, chỉ đạo, kiểm tra giám sát trong thực hiện nhiệm vụ chính trị.[23][24] Ngày 21 tháng 10 năm 2020, ông Vũ Anh Đức, ủy viên Đoàn Chủ tịch, Trưởng Ban Tổ chức Tổng LĐLĐ Việt Nam, đã công bố Quyết định số 1507/QD-TLĐ do Chủ tịch Tổng LĐLĐ Việt Nam Nguyễn Đình Khang. Theo đó, ông Lê Vinh Danh, Hiệu trưởng Trường Đại học Tôn Đức Thắng bị cách chức Hiệu trưởng của nhà trường từ ngày 21 thánh 10 năm 2020.[25] Trong khi đó, theo báo Giáo dục Việt Nam thì lãnh đạo Tổng Liên Đoàn Lao động có mâu thuẫn với trường Đại học Tôn Đức Thắng và cá nhân hiệu trưởng Lê Vinh Danh từ trước về việc trích nộp 30% nguồn chênh lệch thu chi tài chính của trường sau thuế về cho tổ chức này mặc dù trường là cơ sở tự chủ về tài chính.[26] Tranh cãi về cách thức xác định tư cách tác giả (affiliation)Sửa đổiMột số trang báo chí có nêu tình trạng Trường tham gia "mua bán" bài báo trong các công trình khoa học để nhằm mục đích có thứ hạng cao, dẫn đầu thành tích nghiên cứu khoa học ở Việt Nam. Thực tế đây là vấn đề về xác định tư cách tác giả (affiliation), các nhà nghiên cứu không trực tiếp làm việc tại trường Tôn Đức Thắng nhưng ghi tên trường này trong công bố khoa học của mình (thay vì tên nơi làm việc của họ) để đổi lại một khoảng tiền tài trợ (theo hợp đồng kí giữa họ và trường Tôn Đức Thắng). Việc "mua bán" hay cách nói nhẹ nhàng là "hợp tác" nghiên cứu khoa học của Trường gây nên 2 luồng ý kiến trái ngược nhau: một phản đối cách làm của Trường không có đạo đức, một ủng hộ vì không sai so với các bộ quy tắc đạo đức khoa học (nếu đơn vị hiện tại của tác giả không có rằng buộc cụ thể về cách thức ghi tên trường và đơn vi tài trợ) hay vi phạm pháp luật[27]. Cụ thể, báo Thanh Niên nêu ý kiến một số giảng viên về việc đại học Tôn Đức Thắng các bài báo, mỗi bài được trả 1500 USD để đăng trong các tạp chí Q1, Q2, Q3 mặc dù các tác giả không phải là nhân viên thường trực của trường[28][29]. Tiến sĩ Ngô Đức Thế, Đại học Manchester, Vương quốc Anh nêu quan điểm: Phần phát triển nhờ kiểu "hợp tác" (mà báo chí đang gọi là "mua bán") là điều chẳng nên ca ngợi hay khuyến khích. Bởi nếu những việc như vậy trở thành trào lưu và không rành mạch, nó có thể sẽ tạo thành tiền lệ dẫn tới những tranh chấp không thể giải quyết (ví dụ như một nhà nghiên cứu tùy tiện điền tên một trường khác vào đăng ký sở hữu trí tuệ, và sản phẩm đó tạo ra lợi nhuận).Tuy nhiên, trên trang web của Trường cũng có nhiều thông tin phản bác báo Thanh niên, cho rằng Trường là đại học Việt Nam duy nhất nằm trong nhóm 701-800 trường đại học hàng đầu thế giới năm 2020 theo bảng xếp hạng ARWU[27]. Quan điểm của Giáo sư Nguyễn Văn Tuấn thì cho rằng việc làm của Trường không có gì sai [30]: Theo tôi thì không có gì sai trái trong việc lập labo / nhóm nghiên cứu ở trường mà nhà khoa học không có biên chế cơ hữu. Xu hướng chung trong khoa học hiện nay là hợp tác nghiên cứu. Hợp tác có thể diễn ra cấp nội bộ trường, cấp quốc gia, và cấp liên quốc gia.Tiến sĩ Nguyễn Trương Thanh Hiếu (đạt giải thưởng Tạ Quang Bửu năm 2020) cho rằng trường Tôn Đức Thắng không chỉ được sắp hạng cao trên các bản sắp hạng nghiên cứu quốc tế chỉ dựa vào số lượng bài báo khoa học mà còn do trường đã phải thực sự nỗ lực ở toàn bộ các phương diện như giảng dạy, danh tiếng học thuật, chất lượng học thuật, thành tích của sinh viên và cựu sinh viên, mức độ quốc tế hóa. TS HIếu quan niệm rằng việc thưởng cho các bài báo là cần thiết để hỗ trợ các nhà khoa học trong thực trạng Việt Nam hiện nay Để có thể chuyên tâm cho công việc, người làm nghiên cứu cần có thu nhập đủ tốt, ít ra là lo được cho bản thân và gia đình. Việc nhà trường trả lương tương xứng với năng lực và sản phẩm của nhà khoa học là chuyện cần làm và phải làm bên cạnh việc khen thưởng kịp thời.Nhà vật lý học thực nghiệm nổi tiếng người Pháp, thành viên Ban Giám khảo của Giải thưởng Tạ Quang Bửu 2020, GS Pierre Darriulat, còn đi xa hơn khi phê phán những gì diễn ra ở ĐH Tôn Đức Thắng với những từ như "tham nhũng", "dối trá" hay "bê bối"[31]. "Khi tôi nói chuyện ở Trường đại học Tôn Đức Thắng là một vụ bê bối, tôi không có ý nhằm vào các nhà khoa học Việt Nam. Tôi nhắm vào việc Trường đại học Tôn Đức Thắng trả tiền cho các nhà khoa học nước ngoài để ghi địa chỉ của trường trong các bài báo của họ".Giáo sư Phan Thành Nam (đạt giải thưởng Hội Toán học Châu Âu năm 2020, GS đại học Ludwig Maximilian Munich, CHLB Đức) cho rằng gốc rễ của vấn đề là nhà nghiên cứu không được trả lương xứng đáng bởi các đại học truyền thống[32]. Việc nhà khoa học phải bươn chải kiếm sống là một điểm khác biệt rất lớn giữa Việt Nam so với thế giới. Ở Việt Nam, lương giảng viên căn bản là không đủ sống. Theo tôi, việc các trường ĐH trả lương cho nhà khoa học với giá rẻ mạt chính là hành vi bóc lột chất xám nghiêm trọng. Đây mới là nguồn gốc của vấn đề. Nếu được trả lương xứng đáng, mỗi nhà khoa học sẽ trân trọng nơi làm việc của mình và sẽ có rất ít nhu cầu ký thêm hợp đồng bên ngoài.Nghi vấn về các "siêu" tác giả nước ngoàiSửa đổiTrên báo Thanh Niên, tiến sĩ Dương Tú (Đại học Purdue, Mỹ) nêu ra tình trạng một số tác giả ngoại quốc lấy tên nhiệm sở là một số trường ở Việt Nam (trong đó có Đại học Tôn Đức Thắng, Đại học Duy Tân) có hồ sơ khoa học đáng nghi vấn. Cụ thể những tác giả như Iskander Tlili (Đại học Majmaah ở Ả Rập Xê-út), Shahaboddin Shamshirband (Đại học Malaya, Malaysia và Đại học Hồi giáo Chalous, Iran), Kittisak Jermsittiparsert (Đại học Chulalongkorn, Thái Lan), mỗi tác giả một năm xuất bản hàng trăm bài báo dưới tên trường Tôn Đức Thắng và Duy Tân với đủ mọi lãnh lực vừ khoa học xã hội, toán học, công nghệ thông tin các ngành kỹ thuật cho tới y sinh. Những người này được cho rằng đang "hút tiền" từ các đại học non trẻ ở Việt Nam đang có nhu cầu tăng thứ hạng.[33] Nghi vấn về một số bảng xếp hạng đại học quốc tếSửa đổiNếu chúng ta không có được chất lượng và nền tảng thì không cẩn thận, lại dễ sa vào việc chạy theo tiêu chí của bảng xếp hạng mà không nghĩ đến chất lượng thật phía sau những tiêu chí của xếp hạng đó, PGS. TS Phan Thanh Bình - Chủ nhiệm Ủy ban Văn hoá, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng của Quốc hội - nhận định như vậy khi được hỏi về vấn đề xếp hạng đại học hiện nay. Đóng góp về vấn đề này, TS Lê Văn Út, viên chức của ĐH Tôn Đức Thắng, bày tỏ: "nhiều đơn vị công bố xếp hạng uy tín thực chất là doanh nghiệp nên có yếu tố thương mại, phải đóng rất nhiều tiền để tham gia. Cho nên, về mặt hình thức, xếp hạng là không có kinh phí nhưng bản chất phía sau có mục đích thương mại".[34] Theo TS Pham Hiệp, nhà nghiên cứu giáo dục, bảng xếp hạng ảnh hưởng của các trường đại học do THE (THE Impact Ranking) đưa ra mà ĐH Tôn Đức Thắng có tên trong Top 200 có nhiều vấn đề cần làm rõ. Thứ nhất, tương quan của các trường không thực sự đồng đẳng (so sánh khách quan được), do mỗi trường được lựa chọn tiêu chí tốt nhất cho mình. Thứ hai, bảng xếp hạng này là bảng xếp hạng phụ, mới được giới thiệu, mẫu nhỏ (chỉ 400 trường gửi hồ sơ tham gia xếp hạng) và không tính đến các yếu tố học thuật. Đồng tình với những nhận định trên, TS Phạm Ngọc Duy, chuyên ngành Đo lường và Tâm trắc học trong giáo dục từ ĐH Massachusetts Amherst (Mỹ), phân tích: "Theo quan sát của tôi, rất nhiều đại học có tên tuổi và lịch sử lâu đời không tham gia bảng xếp hạng trên. Do vậy, tính đại diện của mẫu hơn 400 trường là một vấn đề. Nhiều khả năng, mẫu nhỏ sẽ không có tính đại diện. Do vậy, kết quả trong top 101-200 cũng không có nhiều ý nghĩa. Nếu số lượng tham gia là 10.000 trường, một trường trong thứ hạng 101-200 cho lần xếp hạng này có thể ở hạng 5.001-6.000 trường hoặc bất cứ đoạn thứ hạng nào khác cho lần xếp hạng sau". TS Phạm Hiệp kết luận: "tất nhiên, yếu tố xếp hạng sẽ mang ý nghĩa marketing, vừa là thước đo cho chất lượng của các trường. Các trường nên coi đây là công cụ để nâng cao chất lượng hơn là công cụ truyền thông. Tham gia xếp hạng, các trường sẽ đối sánh được mình với 'đồng nghiệp' trên thế giới, là điều rất tốt. Tốt hơn là không làm gì và không đối sánh với ai cả nhưng cũng không nên tuyệt đối hóa kết quả xếp hạng". Ông nói thêm tham gia xếp hạng với các trường đại học trên thế giới là điều tốt nhưng đòi hỏi nhiều thời gian và nguồn lực. Với điều kiện có hạn của các trường đại học Việt Nam hiện nay, việc tham gia quá nhiều bảng xếp hạng vừa không mang lại giá trị, vừa mất thời gian, công sức, nhân lực.[35] Tham khảoSửa đổi
Liên kết ngoàiSửa đổi
|