Dàn ý phân tích Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng

Đề bài:

Trong đoạn trích “Đất nước” (Trích trường ca “Mặt đường khát vọng” ), nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã thể hiện những cảm nhận về Đất Nước.

Mở đầu đoạn trích:

 “Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồiĐất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa…” mẹ thường hay kểĐất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ănĐất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặcTóc mẹ thì bới sau đầuCha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặnCái kèo, cái cột thành tênHạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng

Đất Nước có từ ngày đó…”

Sau đó, nhà thơ cũng thể hiện một cảm nhận khác:

 “Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng

Họ truyền lửa cho mỗi nhà từ hòn than qua con cúiHọ truyền giọng điệu mình cho con tập nóiHọ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dânHọ đắp đập be bờ cho người sau trông cây hái tráiCó ngoại xâm thì chống ngoại xâmCó nội thù thì vùng lên đánh bạiĐể Đất Nước này là Đất Nước Nhân dânĐất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoạiDạy anh biết “yêu em từ thuở trong nôi”Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lộiBiết trồng tre đợi ngày thành gậy

Đi trả thù mà không sợ dài lâu”

(Đất Nước – Trích trường ca Mặt đường khát vọng, Nguyễn Khoa Điềm, Ngữ văn 12, Tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, 2012, tr.118)

Anh/ chị hãy phân tích hình tượng Đất Nước trong hai đoạn thơ trên, từ đó làm rõ tư tưởng mới mẻ, riêng biệt của Nguyễn Khoa Điềm về Đất Nước.

Dàn bài chi tiết:

Mở bài:

Giới thiệu tác giả: Nguyễn Khoa Điềm là một trong những nhà thơ tiêu biểu cho thế hệ thơ trẻ những năm chống Mĩ; với phong cách thơ: Giàu chất suy tư, xúc cảm dồn nén, mang màu sắc chính luận.

Giới thiệu tác phẩm: Đất nước thuộc phần đầu chương V của trường ca “Mặt đường khát vọng”. Bài thơ được xem là đoạn thơ hay về đề tài quê hương đất nước của thơ ca Việt Nam hiện đại.

Dẫn dắt đến vấn đề nghị luận: Làm rõ tư tưởng mới mẻ, riêng biệt của Nguyễn Khoa Điềm về Đất Nước.

Thân bài:

* Khái quát:

Đoạn một thuộc phần đầu của bài Đất nước” nói lên những phát hiện mới mẻ của nhà thơ về Đất Nước.

Đoạn hai thuộc phần hai của bài Đất nước là cao điểm hội tụ của cảm xúc trữ tình với tư tưởng Đất nước của nhân dân.

* Đoạn thơ thứ nhất:

– Đất nước có từ rất xa xưa, thật dung dị, đời thường:

+ Đất Nước hiện lên qua câu chuyện cổ tích mẹ kể –> có từ rất xưa rồi.

+ Đất Nước gắn liền với miếng trầu bà ăn –> gắn với thuần phong mĩ tục.

+ Đất nước gắn với những dãy tre làng –> gắn với truyền thống yêu nước.

+ Đất Nước gắn với “bới” tóc của mẹ –> thói quen hàng ngày của những người phụ nữ Việt Nam ngày xưa.

+ Đất Nước gắn với gừng cay, muối mặn –> những gia vị hàng ngày rất quen thuộc nhưng cũng là lối sống tình nghĩa thủy chung của con người.

+ Đất Nước hiện hình trong những sự vật gần gũi: cái kèo, cái cột…

+ Đất nước gắn với truyền thống lao động cần cù: hạt gạo một nắng hai sương.

–> So sánh để làm nổi bật sự khác biệt trong cách cảm nhận về Đất Nước:

–> Sự độc đáo trong nghệ thuật thể hiện: Một đoạn thơ ngắn nhưng gợi dậy biết bao nét văn hóa và văn học dân gian quen thuộc.

==> Tóm lại, đoạn thơ là một định nghĩa theo cách riêng của Nguyễn Khoa Điềm về Đất Nước: không siêu hình trừu tượng mà gắn bó thân thuộc với mỗi người, Đất Nước của nhân dân. Lời thơ giàu chất liệu văn hoá dân gian, tạo một không gian nghệ thuật vừa gần gũi thân quen, vừa bay bổng, sâu xa.

* Đoạn thơ thứ hai:

* Đoạn thơ tác giả đã biểu dương, ngợi ca vai trò của lịch sử, sức mạnh lớn lao kì diệu của nhân dân trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước

– Trong sự nghiệp dựng nước, nhân dân là người kiến tạo và bảo tồn những giá trị văn hoá tinh thần, truyền thống của dân tộc:

+ Cách dùng từ “họ”: đại từ xưng hô số nhiều chỉ nhân dân –> những con người bé nhỏ, bình thường thuộc đám đông trong xã hội, chứ không phải là các cá nhân anh hùng

+ Hệ thống các từ: giữ, truyền, gánh, đắp, be, dạy… được sử dụng đan cài trong đoạn thơ ghi nhận sự đóng góp lớn lao của nhân dân đối với sự nghiệp kiến quốc. Nhân dân, bằng những việc làm cụ thể, bé nhỏ,rất đỗi bình dị mà thiết thực, ý nghĩa đã làm nên Đất Nước.

+ Các hình ảnh gắn với chuỗi động từ này: hạt lúa, lửa, giọng nói, tên xã, tên làng, đập, bờ… một mặt tiếp tục thể hiện sự khám phá mới mẻ, độc đáo của nhà thơ về Đất Nước trong bề rộng không gian địa lí và tầng sâu của những truyền thống văn hoá, mặt khác còn khẳng định nhân dân chính là lực lượng đông đảo vừa kiến tạo bảo tồn, lưu giữ truyền thống giàu tình nghĩa, giàu tình yêu thương, cần cù lao động

–> Đó là những giá trị văn hoá tinh thần cao quý của Đất Nước. Nhân dân cũng chính là người góp phần mở mang bờ cõi Đất Nước, khai sông, lấn biển qua mỗi chuyến di dân đầy gian khổ.

– Trong cuộc đấu tranh giữ nước cũng chính là nhân dân chứ không ai khác viết lên trang sử bi tráng. Nhân dân, những con người “có ngoại xâm thì chống ngoại xâm/ có nội thù thì vùng lên đánh bại” khẳng định đầy tự hào và sức mạnh lớn lao của nhân dân chống thù trong, giặc ngoài. Chính nhân dân đã hun đúc nên truyền thống kiên cường, bất khuất. Đó là truyền thống chứa đựng bản lĩnh của một dân tộc.

–> Đoạn thơ này, để truyền tải tư tưởng Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại, người viết đã tìm đến nguồn chất liệu dồi dào và vô cùng thích hợp: nguồn chất liệu văn hóa, văn học dân gian.

–> Đoạn thơ có sự đan dệt của những ca dao, tục ngữ, hàng loạt truyện cổ và vô vàn những tập quán, phong tục một cách sáng tạo. Người viết có khi chỉ trích nguyên văn một câu ca dao: “yêu em từ thuở trong nội“, song phần lớn chỉ sử dụng ý, hình ảnh ca dao: “Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội; biết trồng tre đợi ngày thành gậy/ Đi trả thù mà không sợ dài lâu”.

==> Đặc sắc về nghệ thuật: Với thể thơ tự do, vận dụng linh hoạt, nhuần nhuyễn, sáng tạo chất liệu văn hoá, văn học dân gian, giọng điệu thơ có sự kết hợp giữa chính luận và trữ tình, suy tưởng và cảm xúc, đoạn thơ đã thể hiện được những nét riêng, độc đáo của Nguyễn Khoa Điềm khi biểu dương tôn vinh vai trò lịch sử, sức mạnh kì diệu của nhân dân trong suốt trường kì lịch sử.

* Đánh giá về tư tưởng mới mẻ của Nguyễn Khoa Điềm

– Tư tưởng của Khoa Điềm về Đất nước đó là: Đất nước của Nhân dân, của ca dao thần thoại, của đời thường. Qua đó, tác giả thể hiện tình yêu, niềm tự hào về Đất Nước, Nhân dân, thức tỉnh mọi người ý thức trách nhiệm xây dựng, bảo vệ Đất Nước.

– Trong 2 đoạn thơ, sự triển khai cảm hứng của tác giả tuy phóng túng, đa dạng nhưng vẫn quy về điểm cốt lõi, đó là : Đất Nước của Nhân dân.

– Thành công nghệ thuật của cả 2 đoạn thơ này chính là là sự vận dụng những yếu tố dân gian kết hợp với cách diễn đạt và tư duy hiện đại, tạo ra màu sắc thẩm mĩ vừa quen thuộc lại vừa mới mẻ. Chất liệu văn hóa, văn học dân gian được sử dụng tối đa đã tạo nên không khí, giọng điệu, không gian nghệ thuật riêng: vừa có sự bình dị, gần gũi, hiện thực, lại vừa bay bổng, mơ mộng của ca dao, truyền thuyết nhưng lại mới mẻ qua cách cảm nhận và cách diễn đạt bằng hình thức thơ tự do. Chất dân gian đã thấm sâu vào tư tưởng và cảm xúc của tác giả, tạo nên đặc điểm nghệ thuật độc đáo của thơ Nguyễn Khoa Điềm.

Kết Bài:

– Khẳng định lại giá trị nội dung và nghệ thuật của 2 đoạn thơ.

– Khẳng định lại ý nghĩa tư tưởng mới mẻ về Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm.

– Rút ra bài học cho bản thân.

VĂN MẪU 12: ĐẤT NƯỚC – NGUYỄN KHOA ĐIỀM3 BÀI VĂN MẪU “PHÂN TÍCH ĐOẠN CUỐI BÀIĐẤT NƯỚC CỦA NGUYỄN KHOA ĐIỀM”BÀI MẪU 1:“Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng…Có nội thù thì vùng lên đánh bại”.Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm thuộc lớp nhà thơ trưởng thành trong thời kỳchống Mỹ cứu nước. Trong nền thơ ca hiện đại, Nguyễn Khoa Điềm cũng khẳng địnhđược tên tuổi của mình với một giọng điệu và cảm quan thơ ca khá ấn tượng. ThơNguyễn Khoa Điềm thường viết về hình ảnh con người và đất nước trong gian lao và anhdũng. Phần thơ có tên “Đất nước” thuộc chương năm của bản trường ca “Mặt đường khátvọng” được viết năm 1971 và in năm 1974. Bản trường ca này viết nhằm thức tỉnh thanhniên đô thị miền Nam nhận ra chân tướng của kẻ thù, hiểu sâu sắc về đất nước để từ đócó quyết tâm đấu tranh giành lại đất nước. Trong chương năm này, sau khi trình bày quanniệm chung của tác giả về đất nước, nhà thơ đi lý giải đất nước nhân dân, đất nước củanhân dân qua ba phương diện địa ý, lịch sử, văn hóa. Phần thơ nói về văn hóa mang tínhnhân dân nhà thơ đã viết khá cô động.“Họ giữ và truyền…… vùng lên đánh bại”.Trong chương năm mang tên “Đất nước” này, tác giả nhằm lý giải một quanniệm về đất nước nhân dân. Khi nói về đất nước bao giờ người ta cũng đề cập đến baphương diện địa lý, lịch sử, văn hóa. Có điều Nguyễn Khoa Điềm không sa đà theo cáchlý giải thuần túy về địa lý, lịch sử, văn hóa như những nhà chuyên môn của nó mà điphản ánh cảm nhận thông qua lăng lính nghệ thuật của nhà thơ. Nhìn địa lý thấy hình ảnhcủa nhân dân. Nhìn lịch sử cũng thấy nhân dân hữu danh và vô danh làm nên đất nướcchứ không phải là riêng một ai đó làm nên đất nước. Đến khi đề cặp đến phương diện vănhóa nhà thơ cũng cảm nhận được mọi vẻ đẹp văn hóa truyền thống dân tộc đều do nhândân tạo ra và giữ truyền.Nước chúng ta là một nước nông nghiệp có nền văn hóa văn minh lúa nước nênvẻ đẹp văn hóa đầu tiên mà Nguyễn Khoa Điềm đề cập là truyền giữ hạt lúa qua bao đời“Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng”.Đây vừa là nghĩa cụ thể nghĩa khái quát. Trong suốt chiều dài lịch sử nhân dânta vừa giữ hạt lúa cho đời sau cũng có nghĩa là truyền giữ một nền văn minh lúa nước,truyền giữ một điều kiện cơ bản để cho dân tộc tồn tại và phát triển. Mặc cho bao cuộcxâm lăng, bao cuộc đồng hóa, bao cuộc hủy diệt, nhân dân ta vẫn giữ được hạt lúa chogiống nòi, đó là vẻ đẹp đáng ca ngợi nhất.Đi liền với truyền và giữ hạt lúa để cho dân tộc sinh tồn là sự truyền giữ ngọnlửa đời này qua đời khác. Từ trong những đêm mờ xa xôi của lịch sử cha ông ta vẫn biếtcách bê rơm con cúi để truyền lửa qua đời này đời khác, đó là một sự sáng tạo không chỉđể duy trì bếp lửa của mỗi nhà, mà còn để làm vũ khí lợi hại trong việc chống giặc ngoạixâm và nội thù. Trong thơ Nguyễn Đình Chiểu đã từng ca ngợi ngọn lửa này “Lửa rơmcon cúi cũng đốt xong nhà dạy đạo kia”. Nhìn qua thì đó là một cách chuyền lửa thủ côngđơn giản nhưng để truyền lửa qua thời gian đằng đẵng là một sự kiện sáng tạo của nhândân ta.Một nét đẹp văn hóa mà khi nói về một đất nước nào đó thường được đề cậpđầu tiên đó là ngôn ngữ giọng điệu của nhân tộc. Quá trình lịch sử của dân tộc ta là mộtquá trình vận động di dân từ đất Tổ Hùng Vương đến mũi Cà Mau. Trong quá trình didân đó, giọng điệu và tiếng nói của dân tộc không hề bị thay đổi, đó là một ý thức dân tộccao độ, còn tiếng nói là con đất nước Tổ quốc.Ngoài những vẻ đẹp văn hóa rất dễ nhìn thấy nói trên, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềmlại chuyển sang nói một vẻ đẹp văn hóa khác, đó là vẻ đẹp của đạo lý dân tộc.“Họ đắp đập be bờ cho người sau trồng cây hái trái”.Có lẽ dân tộc ta trường tồn một cách mạnh mẽ cũng bắt đầu từ cái đạo lý luôn vìđời sau của tầng tầng lớp lớp suốt bốn nghìn năm lịch sử.Và khi nói về văn hóa, nhà thơ không quên nói về một yếu tố để lưu giữ vănhóa đó là truyền thống bất khuất trước mọi kẻ thù.“Có ngoại xâm thì đánh ngoại xâmCó nội thù thì vùng lên đánh bại”.Đây là một vẻ đẹp của sự thật lịch sử. Vẻ đẹp này là tiền đề cho văn hóa nuôidưỡng và giữ gìn văn hóa. Mọi kẻ thù đều bị đánh bại và vị tất mọi giá trị văn hóa sẽđược truyền giữ và phát triển.Nói đến văn hóa là nói đến văn hóa vật thể và văn hóa phi vật thể. Nhà thơNguyễn Khoa Điềm trong đoạn thơ này cũng chú ý đến hai điều đó. Vấn đề là tác giảkhông chẳng định sự tồn tại của văn hóa mà khẳng định người làm nên văn hóa ấy lànhân dân. Vì thế sau khi đề cập đến hình ảnh địa lý mang tính nhân dân, lịch sử mangtính nhân dân và văn hóa mang tính nhân dân, nhà thơ đã khái quát nên một điều mangtính chân lý của thời đại.“Để đất nước này là đất nước nhân dânĐất nước của nhân dân, đất nước của ca dao thần thoại”.Công lao vĩ đại của nhan dân sẽ được nhà thơ chứng minh bằng hàng loạt dẫnchứng cụ thể, giàu sức thuyết phục"Họ giữ và truyền cho ta hạt lúata trồngHọ chuyền lửa qua mỗi nhà, từhòn than qua con cúiHọ truyền giọng điệu mình cho con tập nóiHọ gánh theo tên làng tên xã trong mỗi chuyến di dânHọ dắp đập be bờ cho người sau trồng cây hái tráiCó ngoại xâm thì chống ngoại xâmCó nội thù thì vùng lên đánh bạiĐể đất nước này là đất nước nhân dân"Không phải ngẫu nhiên mà tất cả các dòng thơđều bắt đầu bằng điệp từ "họ".Bằng cách nói này Nguyễn Khoa Điềm lại một lần nữa khắc sâu ấn tượng về vai tròkhông thể thiếu của nhân dân. Nhân dân không chỉ làm nên lịch sử mà còn sáng tạo mộigiá trị vật chất, tinh thần cho đất nướcĐiệp khúc "truyền cho" gợi liên tưởng đến một cuộc tiếp sức vĩ đại trên hànhtrình mấy ngàn năm lịch sử đằng đẵng. bằng hệ thồng hình ảnh giàu ý nghĩa ẩn dụ sâuxa,tác giả đã khám phá và ngợi ca công lao vĩ đại của nhân dân. Đó là hình ảnh "hạt gạo"bé nhỏ bình thường nhưng đã kết tinh sức lực, tâm huyết trí tuệ của bao nhiêu thế hệ conngười. Ai đã là người tìm ra cây lúa giữa hàng ngàn loài cây hoang dại khác?. Ai là ngườiđã tìm ra cách gieo cấy vun trồng để có được vụ mùa đầu tiên? Và ai đã rìm ra cách xaygiã giần sàng biến hạt lúa kia thành hạt gạo trắng ngần. Hành trình ấy đòi hỏi phải có sựtiếp nối của nhiều thế hệ, người đi trước tích lũy kinh nghiệm và truyền lại, người đi sauđón nhận, sáng tạo và hoàn thiện.Nhân dân giữ gìn và truyền cho ta ngọn lửa. Đó là ngọn lửa được thắp lên cho mỗingôi nhà, ngọn lửa mang theo hơi ấm và sự sống cho con người. Song đó cũng là ngọnlửa biểu tựng cho tình cảm cộng đồng ấm áp "tối lửa tắt đèn có nhau" của người ViệtSong có lẽ công lao vĩ đại nhất của nhân dân chính là sự gìn giữ và bảo tồn tiếngmẹ đẻ, linh hồn của dân tộc. Chiến công phi thường ấy được nhà thơ thể hiện bằng hìnhảnh rất đôic thân quen, bình dị "Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói. Đó là hìnhảnh những người cha người mẹ dạy con mình bập bẹ ngh tiếng nói đầu tiên. Bằng hìnhảnh tưởng chừng như chẳng có gì đáng kể ấy, họ đã gìn giữ tiếng mẹ đẻ từ thế hệ nàysang thế hệ khác. Phải nhìn về quá khứ mới nhing thấy hết công lao của nhân dân :1000năm bấc thuộc, 100 năm Pháp thuộc, kẻ thù tìm mọi cách để đồng hóa, để xóa đi bản sắcriêng của dân tộc này. Vậy mà ông cah ta vẫn gìn giữ vẹn nguyên tiếng Việt.Cội nguồn để tạo nên sức mạnh kì diệu ấy chính là tình yêu thắm thiết sâu nặngdành cho quê hương xứ sở. Khi khai pahs những vùng đất mới, họ không chỉ gánh trênvai những vật dụng thiết yếu cho cuộc sống hàng ngày mà còn mang theo cả tên làng, tênxã, tình quyến luyến với quê hương, thủy chung với cội nguồn và cũng là truyền thốngcủa người ViệtBằng sức mạnh của tình yêu đất nước, nhân dân đã tạo nên không gian địa lý,khai phá ruộng đồng cho các thế hệ sau "trồng cây hái trái". Câu thơ đã tái hiện lại baonhiêu thế hệ đã đổ mồ hôi, góp công sức cho những dải đê điều, mương máng bao quanhnhững xóm làng bưof bãi.Không chỉ tạo dựng ruộng đồng, núi sông, bờ cõi, gìn giữ những truyền thốngđạo đức, nhân dân còn góp phần vào sự nghiệp giữ nước“Có ngoại xâm thì chống ngoại xâmCó nội thù thì vùng lên đánh bạiĐể đất nước này là đất nước nhân dân"Tác giả đã khái quát và ngợi ca lịch sử hào hùng của một dân tộc trên suốt hànhtrình dựng nước và giữ nước. Dân tộc ấy chưa bao giờ chịu cúi đầu khuất phục trước bấtkỳ thế lực nào. Nhân dân không chỉ đánh đuổi ngoại xâm để giành lấy tự do mà còn tiêudiệt nội thù để đất nước hòa bình, thống nhất. nhân dân đã tạo lập và truyền lại cho ta đấtnước của nhân dân hiền hòa, bình dị mà anh hùng, quật cường như nhà thơ Huy Cận từngca ngợi"Sống vững chãi 4000 năm sừng sữngLưng đeo gươm tay miệt mài bút hoaTrong lạ thực sáng hai bờ suy tưởngSống hiên ngang mà nhân ái, chan hòa".BÀI MẪU 2:Thơ Nguyễn Khoa Điềm giàu chất suy tư, trữ tình – chính luận. Trường ca “Mặtđường khát vọng” của ông là một trong những thi phẩm viết về đề tài đất nước trongnhững năm chiến tranh. Tác phẩm đã để lại nhiều dấu ấn đặc sắc trong lòng người đọc,đặc biệt là đoạn trích “Đất nước”, trong đó tác giả bày tỏ cảm nhận, nhận thức của mìnhvề đất nước: Đất nước của nhân dân, nhân dân làm ra Đất nước.Phần cuối đoạn trích "Đất nước" trong sách giáo khoa 12 là đỉnh cao của tư tưởng“Đất nước của nhân dân”. Nhà thơ bày tỏ quan điểm về đất nước qua mỗi thời đại. Dù ởthời đại nào thì các nhà tư tưởng vẫn nhìn thấy vai trò, sức mạnh to lớn của nhân dân đốivới đất nước. Nhân dân gánh trên đôi vai mình đất nước đi đến suốt cuộc trường chinhcũng như những công cuộc khai khẩn đất hoang, mở mang bờ cõi. Khi dân tộc trải quahai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ thì tư tưởng “Đất nước của Nhân dân” được ýthức rõ ràng hơn trong các tác phẩm.Nếu như ở phần trước, nhà thơ lí giải đất nước có từ bao giờ, đất nước là gì, ở đâuthì phần này, nhà thơ lí giải ai làm ra đất nước.Xuyên suốt mạch cảm xúc chương Đất nước là tư tưởng Đất nước của nhân dân.Tư tưởng ấy được triển khai trên những bình diện: địa lý, lịch sử, văn hóa, truyền thống,tinh thần dân tộc thú vị, độc đáo. Nguyễn Khoa Điềm có những phát hiện độc đáo vềnhững cảnh quan kì thú của non sông gấm vóc: đá Vọng Phu, hòn Trống Mái, núi Bút,non Nghiên…. Không chỉ là tặng vật của thiên nhiên tạo hóa mà đã gắn với cuộc sốngcon người, với văn hóa, lịch sử dân tộc qua những áng ca dao, cổ tích, qua những cuộc vệquốc vĩ đại của nhân dân.Nét đặc sắc là cái nhìn của nhà thơ thấm sâu ý thức về nhân dân. Sự hóa thân củanhân dân vào Đất nước: những người vợ chờ chồng như đá Vọng Phu, cặp vợ chồng yêunhau như hòn Trống Mái, những cái tên đất tên làng như Ông Đốc, Bà Đen…thật bình dịnhưng họ là những người làm nên Đất nước.Nhà thơ không cảm nhận những cảnh quan kì thú đơn thuần là thắng cảnh thiênnhiên mà trong đó là chiều sâu số phận, cảnh ngộ, công lao của mỗi người đã đóng góp,hóa thân vào Đất nước. Đất nước thâm sâu tâm hồn, máu thịt của nhân dân.Thế giới nghệ thuật thơ Nguyễn Khoa Điềm vừa mộc mạc, dân dã vừa đẹp lấplánh những chất liệu văn hóa dân gian. Văn hóa dân gian thấm vào ngôn ngữ và cấu trúchình tượng trong đoạn thơ, để hình tượng nhân dân hiện diện khắp nơi trong lối sống, aoước, khát vọng, trong suốt dọc dài đất nước hơn 4000 năm lịch sử.Đoạn thơ là sự dồn nén, hội tụ đỉnh cao của cảm xúc trữ tình – Đất nước của Nhândân – Đất nước của ca dao, thần thoại. Nguyễn Khoa Điềm hướng người đọc nhìn vềchiều sâu quá khứ bốn ngàn năm lịch sử đấu tranh dựng nước của nhân dân. Họ sống vàchết, giản dị và bình tâm, họ đã trở thành anh hùng, không ai nhớ mặt đặt tên chỉ đơngiản là những người chiến sĩ vô danh nhưng họ là những người bất tử, hóa thân cho dánghình xứ sở.Phải thấu hiểu, trân trọng giá trị văn hóa dân gian đến tột độ máu thịt, nhà thơ mớicó thể có cái nhìn sâu sắc, mới mẻ đến vậy trong quan niệm “Đất nước của Nhân dân”.Với cảm xúc trữ tình – chính luận vừa sâu lắng vừa giàu chất suy tư với hình thức tròchuyện tâm tình tha thiết của đôi trai gái nhà thơ gợi được cả không khí, không gian nghệthuật đầy màu sắc sử thi nhưng lại mới mẻ trong cách cảm nhận và hình thức phóngkhoáng. BÀI MẪU 3:“…Trong anh và em hôm nay…Làm nên Đất Nước muôn đời...”I. MỞ BÀINguyễn Khoa Điềm là một trong những nhà thơ trẻ tiêu biểu thời chống Mỹ, cứunước. Thơ ông giàu chất trí tuệ, cảm xúc được dồn nén và có nhiều liên tưởng phong phú.Đất nước được trích trong trường ca Mặt đường khát vọng (1971) khá điển hình cho vẻđẹp của thơ Nguyễn Khoa Điềm những năm tháng ấy.Đoạn trích ở trên thể hiện suy nghĩ của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm về mối quanhệ riêng – chung, quan hệ cá nhân – cộng đồng, sự tiếp nối của các thế hệ trong một đấtnước, một dân tộc. Những suy nghĩ ấy được thể hiện bằng thơ, tức không đơn thuần là tưtưởng, mà chứa đựng cảm xúc, tình cảm của tác giả. Do đó, có sức lay động tâm tư ngườiđọc.II. THÂN BÀI1. Phân tích 9 dòng thơ đầu: Cảm nhận mới của nhà thơ về đất nướcChín dòng thơ đầu, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm nêu lên những cảm nhận củamình về đất nước. Nếu như ở đoạn thơ trước đó trong bài thơ, tác giả nhìn nhận đất nướctừ bề dày văn hoá dân tộc hàng nghìn năm qua, thì ở đây lại là những suy nghĩ về đấtnước từ cuộc sống hiện tại trong các mối quan hệ riêng – chung, cá nhân – cộng đồng, sựtiếp nối giữa các thế hệ.Khổ thơ mở đầu bằng một lời khẳng định:Trong anh và em hôm nayĐều có một phần Đất NướcLâu nay, trong suy nghĩ của nhiều người, đất nước, quê hương, tổ quốc, dân tộc...luôn là những khái niệm trừu tượng. Với nhà thơ trẻ đang đôi mặt với cuộc chiến tranhkhốc liệt một mất một còn, đất nước gần gũi, thân thiết. Điều này chưa hẳn đã mới, trongca dao, dân ca có không ít những câu hát như thế:Anh đi anh nhớ quê nhàNhớ canh rau muống nhớ cà dầm tươngNhớ ai dãi nắng dầm sươngNhớ ai tát nước bên đường hôm nao.Quê hương là tất cả những gì gắn bó ruột rà với con người. Đó là nơi ta yêu thathiết. Đó là buổi sáng làm đồng. Đó là từng miếng ăn quê kiểng mỗi ngày...Song, cái mới ở khổ thơ của Nguyễn Khoa Điềm là Đất Nước ở trong mỗi một conngười, Đất Nước ở trong ta: Trong anh và em... Đất Nước trong chúng ta hài hoà nồngthắm... Đất Nước là máu xương của mình. Đó là nhận thức mới về đất nước. Nhận thứcấy được nêu ra để dẫn dắt đến một ý tứ khác của những dòng thơ ở cuối khổ này (từng cánhân phải làm gì cho đất nước)Bốn dòng thơ kế tiếp mở rộng ý ban đầu:Khi hai đứa cầm tayĐất Nước trong chúng ta hài hoà nồng thắmKhi chúng ta cầm tay mọi ngườiĐất Nước vẹn tròn, to lớnHai câu thơ (bốn dòng) được cấu trúc giống nhau theo kiểu cấu trúc của câu cóđiều kiện trong văn xuôi hay lời nói thông thường: Khi... Đất Nước. Hai câu thơ cũng lànhững lời khẳng định (kết quả của sự nhận thức) về một chân lý. Cả bốn dòng chỉ có mộthình ảnh, lại là hình ảnh mang tính tượng trưng: cầm tay diễn tả sự thân thiết, tin cậy, yêuthương lẫn nhau. Hình ảnh ấy đi liền với những tính từ chỉ mức độ (hài hoà, nồng thắm,vẹn tròn, to lớn). Bởi vậy, dù ý tứ tuy không phải là quá mới mẻ, song, những câu thơ ấylại có sức nặng của tình cảm chân thành. Những câu thơ này còn có một tầng nghĩa thứhai, tác giả không trực tiếp nói ra. Đó là đất nước không phải là một khái niệm trừutượng, càng không phải một giá trị bất biến, có sẵn. Đất nước là một thực thể sống và sựsống ấy ra sao ở về phía tất cả những con người trong đất nước đó. Nói rõ ràng ra, đó làmối quan hệ giữa cá nhân với cộng đồng, giữa mỗi một con người với đất nước.Từ câu chuyện hiện tại, nhà thơ tiếp tục mạch cảm xúc và suy nghĩ về đất nước ởtương lai:Mai này con ta lớn lênCon sẽ mang Đất Nước đi xaĐến những tháng ngày mơ mộng…Đất nước không chỉ có ngày hôm qua và hôm nay. Đất nước của ngày mai. Từngthế hệ kế tiếp sẽ làm cho đất nước trường tồn mãi mãi nhờ bàn tay, khối óc và sức mạnhcủa sự đoàn kết toàn dân.Trong hoàn cảnh cuộc kháng chiến khốc liệt thời bấy giờ, phải thấy ở những câuthơ trên còn là một khát vọng: Đất nước sẽ hoà bình, đất nước sẽ tươi đẹp và còn nhiềuhơn thế nữa.2. Những khổ thơ cuối, nhà thơ nêu lên trách nhiệm của cá nhân đối với đất nướcEm ơi em Đất Nước là máu xương của mìnhPhải biết gắn bó và san sẻPhải biết hoá thân cho dáng hình xứ sởLàm nên Đất Nước muôn đời...Cấu trúc của câu thơ cũng theo kiểu suy luận: Đất nước là ... nêu lên một tiền đề.Từ tiền đề ấy, phải biết.../ phải biết... để làm nên ... Câu thơ giàu chất duy lý nhưng khônglên gân mà trở thành lời nhắn nhủ tha thiết. Ở đây có những từ tượng trưng rất đáng chúý: máu xương, gắn bó, san sẻ, hoá thân, dáng hình, muôn đời. Sau rất nhiều suy nghĩ cụthể về đất nước, đến đây nhà thơ khẳng định Đất nước là máu xương của mình. Máuxương là sự sống. Rất ít trường hợp người ta ví một điều gì đó với máu xương, bởi nó cóý nghĩa biểu trưng cho sự thiêng liêng. Đất nước là máu xương có nghĩa là đất nước tồntại như một sự sống và để có sự sống ấy hẳn phải có rất nhiều hi sinh. Quả đúng như vậy,biết bao con người, bao thế hệ đã ngã xuống cho sự sống còn của đất nước. Vì thế, mỗimột con người phải biết gắn bó và san sẻ. Gắn bó là yêu thương, quan hệ mật thiết vớinhau. Từ sự gắn bó ấy mới có thể san sẻ. San sẻ trách nhiệm, san sẻ niềm vui, niềm hạnhphúc cho nhau. Đất nước vĩ đại nhưng đất nước là một thực thể sống. Thực thể ấy khôngphải là sự tập hợp của những cá nhân rời rạc mà là một cộng đồng. Hoá thân cũng cónghĩa là dâng hiến. Thời bình, người ta dâng hiến sức lực, mồ hôi cho tổ quốc. Thờichiến, người ta dâng hiến cả sự sống của mình. Sự dâng hiến ấy, theo suy ngẫm của nhàthơ, là cuộc hoá thân. Bóng dáng mỗi người đã làm nên bóng dáng quê hương xứ sở, đấtnước. Không có sự hoá thân kia làm sao đất nước trường tồn, làm sao có được đất nướcmuôn đời!Những câu thơ in đậm chất duy lý (khá chặt chẽ, logic) cất lên như tiếng gọi củatrái tim, vì thế nó thiết tha, thúc giục lòng người.III. KẾT LUẬNĐoạn thơ trên là một đoạn thơ hay trong bài Đất Nước. Nhà thơ đã thể hiện nhữngsuy nghĩ mới mẻ của mình về đất nước bằng một giọng trữ tình, ngọt ngào. Câu chuyệnvề đất nước đối với mỗi người luôn là câu chuyện của trái tim, vừa thiêng liêng, cao cả,cũng vừa gắn bó, thân thiết. Từ suy nghĩ và tình cảm ấy, khi đối diện với kẻ thù của dântộc, hẳn người ta phải biết làm gì cho Tổ quốc, giang sơn.Ngày nay, đất nước đã sạch bóng quân thù. Nhưng trách nhiệm của mỗi công dânđối với đất nước vẫn rất cần đặt ra thường xuyên, bởi đó là câu chuyện không bao giờ cũ.