Đánh giá bằng khen học sinh giỏi

Có 36 năm là giáo viên giảng dạy, tôi xin chia sẻ cùng phụ huynh để thấu hiểu hơn vì sao cuối năm có hiện tượng lạm phát giấy khen, học sinh giỏi. Khen thưởng cần thực chất, xứng đáng nhằm động viên khuyến khích học sinh nỗ lực học tập tốt hơn đừng vì chạy theo thành tích…

Từ ngày 5.9.2021, không còn danh hiệu học sinh tiên tiến ở cấp 2, cấp 3.

Nhiều nguyên nhân khiến xảy ra việc "lạm phát" giấy khen

Học sinh giỏi nhiều xuất phát từ bệnh thành tích trong giáo dục, giáo viên chủ nhiệm muốn lớp có nhiều học sinh giỏi để được ban giám hiệu khen là dạy giỏi, tay nghề vững, tâm huyết, cũng là tiêu chí thi đua cuối năm. Giáo viên bộ môn cho điểm “nhẹ tay” để đạt chỉ tiêu về chất lượng bộ môn do mình giảng dạy. Hiệu trưởng thì luôn muốn trường có nhiều học sinh giỏi cấp trường, cấp huyện, tỉnh để cuối năm đưa vào tiêu chí xếp loại danh hiệu của trường.

Thầy cô giáo là người cầm cân nảy mực, nhưng đôi khi cũng vì thương học trò, dẫn đến việc coi kiểm tra, chấm điểm chưa thật nghiêm túc, chặt chẽ, nhất là đối với điểm kiểm tra thường xuyên (hệ số 1). Nhiều thầy cô là "chủ nợ điểm” của học sinh, khi kiểm tra bài cũ trò không học bài, thay vì cho điểm kém thì cho các em nợ để hôm sau kiểm tra lại đạt 9-10. Việc làm này là có tình, nhưng về lý là không đúng.

Rồi cứ đến cuối năm, nhiều giáo viên chủ nhiệm đi xin điểm cho học sinh để đạt danh hiệu học sinh giỏi, với lý do em thiếu 0,1; 0,2... là đủ 8.0 được giỏi. Nhiều trường còn quy định nếu bài kiểm tra hơn 2/3 lớp dưới điểm trung bình thì báo nhà trường có thể cho kiểm tra lại để có điểm số đẹp hơn. Những việc làm này của thầy cô là một trong những nguyên nhân góp phần lạm phát học sinh giỏi.

Góp phần tăng số lượng ngày càng nhiều học sinh giỏi là quy chế đánh giá, xếp loại theo Thông tư số 26/2020/TT-BGDĐT ban hành kèm theo Thông tư số 58/2011/TT-BGDĐT58/2011, sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy chế đánh giá, xếp loại học sinh trung học cơ sở và học sinh trung học phổ thông.

Cụ thể Điều 13 tiêu chuẩn xếp loại học kỳ và xếp loại cả năm học quy định học sinh đạt loại giỏi nếu có đủ các tiêu chuẩn sau: a) Điểm trung bình các môn học từ 8,0 trở lên, trong đó điểm trung bình của 1 trong 3 môn toán, ngữ văn, ngoại ngữ từ 8,0 trở lên; b) Không có môn học nào điểm trung bình dưới 6,5; c) Các môn học đánh giá bằng nhận xét đạt loại Đạt.

Do tính điểm trung bình các môn nên nhiều học sinh chỉ cần siêng học bài các môn Sử, Địa, Giáo dục công dân, Sinh, Công nghệ để bù cho những môn khó như Toán, Văn, Ngoại ngữ là đạt điểm trung bình các môn học từ 8,0 trở lên để đạt danh hiệu học sinh giỏi.

Về phía học sinh, tuy không phải tất cả song nhiều em bằng nhiều cách khác nhau đã thiếu trung thực trong kiểm tra để có được điểm số cao, đối phó với thầy cô, cha mẹ. Tôi đã phát hiện rất nhiều học sinh với đủ hình thức quay cóp bài trong giờ kiểm tra, nhiều em dùng điện thoại chụp tài liệu để sử dụng rất tinh vi. Nếu không phát hiện thì điểm 9, 10 là nắm chắc, nên phụ huynh đừng xem điểm số là thước đo năng lực của con em mình.

Cha mẹ nào không tự hào, hãnh diện khi con đạt được thành tích học giỏi, xuất sắc? Để đạt điều đó, nhiều người đua nhau cho con học thêm, luyện thi ở trường, trung tâm, tại gia. Dù học ở đâu, nhiều phụ huynh vẫn không quên đăng ký cho con theo học thầy cô dạy trên lớp chính khóa với hy vọng được thầy cô chú ý con mình nhằm có được sự chiếu cố, điểm số cao, học sinh giỏi.

Chấm dứt tình trạng giấy khen tràn lan

Từ năm học 2021-2022, áp dụng thực hiện Thông tư 22/2021/TT-BGDĐT đối với lớp 6 THCS trong việc nhận xét, đánh giá xếp loại, xét danh hiệu học sinh được dư luận xã hội quan tâm nhiều bởi những điểm mới tiến bộ, tích cực, nhân văn.

Việc đánh giá xếp loại học sinh về học tập và rèn luyện theo bốn mức: Tốt, Khá, Đạt, Chưa đạt và chỉ còn khen thưởng danh hiệu học sinh xuất sắc, học sinh giỏi. Bỏ cách tính điểm trung bình các môn học; Không còn xếp loại hạnh kiểm: Tốt, khá, trung bình, yếu; Học lực: Giỏi, khá, trung bình, yếu, kém; bỏ khen thưởng danh hiệu học sinh tiến tiến nên đã chấm dứt tình trạng giấy khen tràn lan cần được áp dụng cho các lớp từ 7 đến 12 trong năm học 2022-2023.

Áp lực cho học sinh không phải chỉ là vấn đề xếp hạng theo điểm trung bình môn cuối học kỳ hay cuối năm mà xuất phát từ tâm lý thành tích của thầy cô, phụ huynh... để rồi tất cả phải chạy theo điểm số.

Dưới góc độ là giáo viên cũng là phụ huynh, tôi mong rằng chúng ta hãy trả lại sự công bằng trong dạy và học, đó là thầy cô thực hiện đúng phương châm: Dạy thật - học thật - thi thật - chất lượng thật để các em thật sự hạnh phúc khi đến trường.

Sắp kết thúc năm học 2021 - 2022 thực hiện chương trình giáo dục phổ thông 2018 đối với lớp 2 và 6, Bộ GD-ĐT đã có nhiều thông tư, công văn hướng dẫn thực hiện kế hoạch giảng dạy phù hợp trong tình hình mới. Một trong những văn bản hướng dẫn của Bộ được dư luận xã hội quan tâm là Thông tư 22/2021/TT-BGDĐT.

Chỉ khen thưởng học sinh xuất sắc, giỏi

Theo ý kiến của nhiều thầy cô, Thông tư 22 có nhiều điểm mới tích cực, nhân văn trong việc đánh giá xếp loại học sinh (HS). Đó là bỏ cách tính điểm trung bình các môn học; không còn xếp loại hạnh kiểm trung bình, yếu; học lực khá, trung bình, yếu, kém; bỏ danh hiệu HS tiến tiến, chỉ khen thưởng HS xuất sắc, HS giỏi.

Học sinh lớp 6 được đánh giá, nhận xét theo Thông tư 22. Điều này phần nào hạn chế lạm phát giấy khen

ĐÀO NGỌC THẠCH

Theo Thông tư 22, chỉ khen thưởng danh hiệu "HS xuất sắc, HS giỏi”. Danh hiệu “HS xuất sắc" đối với những HS có kết quả rèn luyện, kết quả học tập cả năm học được đánh giá mức tốt và có ít nhất 6 môn học được đánh giá bằng nhận xét kết hợp với đánh giá bằng điểm số có điểm trung bình môn đạt từ 9 trở lên. Danh hiệu "HS giỏi" tất cả các môn học đánh giá bằng nhận xét ở mức đạt, các môn học đánh giá bằng nhận xét kết hợp đánh giá bằng điểm số điểm trung bình học kỳ và trung bình năm từ 6,5 điểm trở lên, trong đó có ít nhất 6 môn học có điểm trung bình đạt từ 8 trở lên.

Như vậy, theo Thông tư 22, tất cả các môn học đều công bằng như nhau, không còn phụ thuộc vào điểm môn toán, ngữ văn, ngoại ngữ; không còn “môn chính, môn phụ” trong đánh giá, xếp loại HS nữa, bởi các môn đều có giá trị như nhau. Theo nhiều thầy cô, đây là điểm mới tích cực rất đáng ghi nhận giúp HS thay đổi ý thức học tập, việc coi các môn như nhau trong đánh giá HS sẽ giúp hạn chế tư tưởng môn chính phụ, từ đó giảm thiểu việc học lệch.

Không còn nhiều giấy khen

Ngoài ra, Thông tư 22 với cách tính điểm trung bình môn đã hạn chế phần nào việc lạm phát giấy khen cho HS. Để đạt danh hiệu HS xuất sắc, HS giỏi, các em phải nỗ lực cố gắng nhiều hơn. Nhiều thầy cô đánh giá Thông tư 22 có nhiều điểm tiến bộ, khen đúng, trúng, công bằng và để đạt danh hiệu HS xuất sắc, giỏi phải nỗ lực học đều tất cả các môn, rất khác so với Thông tư 26, 58.

\n

Ngoài ra, Thông tư số 22/2016/TT-BGDĐT sửa đổi Thông tư 30 của Bộ GD-ĐT còn quy định rõ: Đánh giá vì sự tiến bộ của HS; coi trọng việc động viên, khuyến khích sự cố gắng trong học tập, rèn luyện của HS; giúp HS phát huy nhiều nhất khả năng; đảm bảo kịp thời, công bằng, khách quan; không cứ phải khen bằng giấy khen mà còn có nhiều cách khác, như: Khen bằng lời khích lệ, khen bằng biểu dương trên lớp...”.

Là giáo viên dạy môn lịch sử và GDCD, tôi thật sự cảm thấy vui vì từ ngày xóa bỏ quan niệm giáo viên dạy môn chính - phụ trong thực tế và ngay cả trong suy nghĩ lâu nay của phụ huynh, HS, đem lại sự công bằng trong đánh giá các môn học, đánh giá đúng năng lực HS. Nhiều thầy cô nói vui: “Với Thông tư 22, Bộ GD-ĐT đã trả lại tên cho em” cho thầy cô dạy môn sử, địa, GDCD…

Tuy nhiên triệt để hơn, không còn có sự phân biệt môn chính - phụ, thiết nghĩ Bộ GD-ĐT nên quy định thêm trong kỳ thi tuyển sinh vào lớp 10 công lập hằng năm các địa phương nên chọn bất kỳ môn nào trong các môn học ở cấp THCS đánh giá bằng điểm số, không chỉ chọn thi tuyển thường là 3 môn: toán, ngữ văn, ngoại ngữ như lâu nay sẽ hạn chế tình trạng học lệch môn hiện nay ở cấp THCS.

Hiện tại Thông tư 22 chỉ áp dụng đối với lớp 6 trong năm học 2021 - 2022, còn các lớp từ 7 đến 12 vẫn áp dụng Thông tư 26. Như vậy có thể thấy ở bậc trung học vẫn áp dụng song song cùng lúc hai Thông tư 22 và 26. Bộ GD-ĐT cần xem xét, thiết nghĩ nên chỉ thực hiện Thông tư 22, vì có nhiều điểm mới tiến bộ, khoa học, nhân văn hơn Thông tư 26.

Chủ đề