De tài nghiên cứu khoa học về vấn đề kinh tế xã hội

De tài nghiên cứu khoa học về vấn đề kinh tế xã hội

Quang cảnh Hội nghị tổng kết Chương trình “Nghiên cứu những vấn đề trọng yếu về khoa học xã hội và nhân văn phục vụ phát triển kinh tế - xã hội” do Bộ Khoa học và Công nghệ tổ chức, tháng 10-2021.

Nhiều đề tàiđạt được kết quả vượt trội

Chương trình “Nghiên cứu những vấn đề trọng yếu về khoa học xã hội và nhân văn phục vụ phát triển kinh tế - xã hội” tích hợp 4 trụ cột nghiên cứu trong lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn về kinh tế, xã hội, văn hóa và con người. Chương trình được xây dựng nhằm các mục tiêu: Cung cấp luận cứ khoa học về những vấn đề trọng yếu thuộc lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn, nhằm đáp ứng yêu cầu thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Từ đó, đề xuất chính sách và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả tổ chức, quản lý, phát triển kinh tế - xã hội vì mục tiêu phát triển bền vững ở Việt Nam. Đồng thời, xây dựng cơ sở dữ liệu về khoa học xã hội và nhân văn phục vụ công tác hoạch định và thực thi chính sách, vì mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam.

Theo Giáo sư, Tiến sĩ Trần Thọ Đạt, Chủ nhiệm Chương trình “Nghiên cứu những vấn đề trọng yếu về khoa học xã hội và nhân văn phục vụ phát triển kinh tế - xã hội”, chương trình gồm 52 đề tài, bao trùm các lĩnh vực: Kinh tế và phát triển kinh tế; xã hội và quản lý xã hội; con người, văn hóa và chính trị. Một số đề tài nghiên cứu mang tính chất giao thoa giữa kinh tế - xã hội - văn hóa - con người. Qua 5 năm thực hiện, mặc dù còn một số khó khăn trong quá trình phối hợp, triển khai, song các đề tài đều nỗ lực đạt được mục tiêu đề ra, nhiều đề tài đạt những kết quả vượt trội, góp phần vào việc xây dựng và hoàn thiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.

Chương trình đã xuất bản 53 cuốn sách chuyên khảo, 3 cuốn giáo trình, gần 400 bài báo trong nước và quốc tế, trong đó tỷ lệ bài báo công bố quốc tế đạt trên 10%. Số đề tài có công bố quốc tế đạt trên 30%. Số bài báo được công bố trên các tạp chí có chỉ số ảnh hưởng thuộc danh mục ISI, Scopus chiếm tỷ lệ 60% trên tổng số các công bố quốc tế.

Trong quá trình triển khai thực hiện, chương trình đã tổ chức gần 100 hội thảo khoa học quốc gia, thu hút sự tham gia của các nhà khoa học, các chuyên gia đầu ngành, góp phần đào tạo 95 tiến sĩ và 144 thạc sĩ. 15/52 đề tài đạt kết quả xuất sắc, nhiều kết quả nghiên cứu được chắt lọc và chuyển giao cho Tổ xây dựng văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, góp phần xây dựng và hoàn thiện văn kiện phục vụ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng.

Bên cạnh việc chuyển giao và đóng góp trực tiếp cho công tác quản lý, hoạch định chính sách cấp trung ương, nhiều kết quả nghiên cứu còn được chuyển giao cho các địa phương, doanh nghiệp. Điển hình là các đề xuất nhằm giải quyết vấn đề an ninh việc làm cho người lao động tại các khu công nghiệp, khu chế xuất đã được chuyển giao cho Ban Quản lý khu công nghiệp, khu chế xuất, Sở Lao động - Thương binh và Xã hội các tỉnh, thành phố: Cần Thơ, Gia Lai, Đồng Nai, Bình Dương, Vĩnh Phúc, Bắc Giang, Hà Nam và Đà Nẵng; các vấn đề về phát triển du lịch nông nghiệp ở Đồng bằng sông Cửu Long được chuyển giao cho các tỉnh ở Đồng bằng sông Cửu Long...

Các sản phẩm khoa học tạo ra đều đã, đang và sẽ được ứng dụng trong việc hoạch định, thực thi chính sách trong các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội thông qua những giải pháp nhằm đổi mới sản phẩm, nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp, tạo thêm việc làm, tăng doanh thu, thay đổi mô hình tăng trưởng, giảm ô nhiễm môi trường, phát triển nền kinh tế xanh, nâng cao sức khỏe cho cộng đồng.

Tái cấu trúc theo hướng nghiên cứu chuyên sâu

Bộ Khoa học và Công nghệ rất chú trọng đến xây dựng và triển khai các chương trình khoa học xã hội và nhân văn phục vụ công tác hoạch định chính sách của Đảng và Nhà nước.

Định hướng cho giai đoạn tới, ông Lê Quang Thành, Vụ trưởng Vụ Khoa học xã hội, nhân văn và tự nhiên (Bộ Khoa học và Công nghệ) cho biết, giai đoạn 2021-2025, chương trình được tái cấu trúc theo các lĩnh vực nghiên cứu chuyên sâu, giải quyết vấn đề trong 10 năm: Chuyển đổi mô hình kinh tế, nghiên cứu hoàn thiện thể chế, nhận diện phát huy giá trị nguồn lực nhân văn, nghiên cứu vấn đề quốc tế...

Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Trần Văn Tùng mong muốn các nhà khoa học đề xuất, xây dựng để hình thành nên bộ tiêu chí đánh giá tác động hiệu quả kinh tế - xã hội từ kết quả các nghiên cứu mang lại. Ngoài ra, trong quá trình xây dựng và triển khai các đề tài phải chú ý đến tính tích hợp, liên ngành giữa các vấn đề nghiên cứu cũng như tính kế thừa kết quả nghiên cứu của các đề tài để tăng tính hiệu quả của chương trình.

Cũng theo Thứ trưởng Trần Văn Tùng, trong thời gian tới, chương trình tập trung giải quyết các vấn đề trọng điểm cấp quốc gia trong lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn nhằm đề xuất các chủ trương, chính sách, giải pháp thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2030, thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng. Các nghiên cứu cần hướng đến những vấn đề mang tính dài hạn, xuyên suốt nhằm phát triển kinh tế - xã hội một cách bền vững gắn với khai thác và phát triển các giá trị văn hóa, con người Việt Nam trong bối cảnh đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với xây dựng nền kinh tế tri thức, hội nhập.

Liên kết nguồn tin:

http://www.hanoimoi.com.vn/tin-tuc/Khoa-hoc/1017708/nghien-cuu-khoa-hoc-xa-hoi-va-nhan-van-de-phat-trien-kinh-te---xa-hoi

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ - HÀNH CHÍNH QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH BÁO CÁO TỔNG HỢP KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI KHOA HỌC CẤP BỘ NĂM 2008 Mã số B.08-09 TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ CỦA VIỆT NAM HIỆN NAY (DƯỚI GÓC ĐỘ PHÂN TÍCH CÁC NGUỒN LỰC) CHỦ NHIỆM ĐỀ TÀI: PGS.TS VÕ VĂN ĐỨC THƯ KÝ KHOA HỌC: ThS. PHÍ THỊ HẰNG CƠ QUAN CHỦ TRÌ: VIỆN KINH TẾ 7254 26/3/2009 HÀ NỘI - 2008 DANH SÁCH CỘNG TÁC VIÊN NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI 1. TS. Trần Kim Chung - Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương 2. GS.TS Trần Văn Chử - Học viện Chính trị - Hành chính QG Hồ Chí Minh 3. ThS. Phí Thị Hằng - Học viện Chính trị - Hành chính QG Hồ Chí Minh 4. TS. Trần Thị Hằng - Học viện Chính trị - Hành chính QG Hồ Chí Minh 5. GS.TS Hoàng Ngọc Hòa - Học viện Chính trị - Hành chính QG Hồ Chí Minh 6. TS. Nguyễn Thị Hường - Học viện Chính trị - Hành chính QG Hồ Chí Minh 7. TS. Phạm Thị Khanh - Học viện Chính trị - Hành chính QG Hồ Chí Minh 8. ThS. Trần Tuyết Lan - Học viện Chính trị - Hành chính QG Hồ Chí Minh 9. CN. Đỗ Thị Loan - Học viện Chính trị - Hành chính QG Hồ Chí Minh 10. ThS. Nguyễn Thị Miền - Học viện Chính trị - Hành chính QG Hồ Chí Minh 11. PGS.TS Nguyễn Thị Thơm - Học viện Chính trị - Hành chính QG Hồ Chí Minh 12. TS. Nguyễn Từ - Học viện Chính trị - Hành chính QG Hồ Chí Minh BẢNG VIẾT TẮT ADB : Ngân hàng phát triển châu Á CCKT : Cơ cấu kinh tế CMKT : Chuyên môn kỹ thuật CNH, HĐH : Công nghiệp hóa, hiện đại hóa DNNN : Doanh nghiệp nhà nước FDI : Vốn đầu tư trực tiếp FPI : Vốn đầu tư gián tiếp GDP : Tổng sản phẩm quốc nội GNP : Tổng sản phẩm quốc dân GNI : Tổng thu nhập quốc gia HDI : Chỉ số phát triển con người ICOR : Hệ số gia tăng tư bản - đầu ra IMF : Quỹ tiền tệ quốc tế KCN : Khu công nghiệp NGOs : Vốn của các Tổ chức phi chính phủ NSNN : Ngân sách Nhà nước ODA : Hỗ trợ phát triển chính thức TFP : Năng suất nhân tố tổng hợp TTKT : Tăng trưởng kinh tế WB : Ngân hàng thế giới WTO : Tổ chức thương mại thế giới XHCN : Xã hội chủ nghĩa DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu bảng Tên bảng Trang1.1. Mức thuế cá nhân ở một số nước và lãnh thổ ở châu Á và phương Tây 34 1.2. Tỷ lệ tiết kiệm trong nước ở một số quốc gia và lãnh thổ (% GDP năm 2000) 35 2.1. Tốc độ tăng trưởng kinh tế từ năm 1991 - 1995 (%) 42 2.2. Cơ cấu các ngành trong GDP (%) 43 2.3. Tốc độ tăng trưởng kinh tế từ năm 1996 - 2000 (tính theo giá so sánh) 43 2.4. Cơ cấu kinh tế từ năm 1996 - 2000 (tính theo giá thực tế) 43 2.5. Một số chỉ tiêu kinh tế - xã hội Việt Nam thời kỳ 2001 - 2005 45 2.6. Tốc độ tăng trưởng kinh tế Việt Nam 2006 - 2007 46 2.7. Tốc độ tăng trưởng kinh tế thế giới (%) 46 2.8. Số lượng lao động có việc làm theo trình độ học vấn và giới tính năm 2006 56 2.9. Vốn đầu tư của quốc gia qua các năm từ 2000 - 2006 61 2.10. Vốn đầu tư của khu vực kinh tế nhà nước phân theo nguồn vốn 62 2.11. Đối tác và địa phương đầu tư và thu hút FDI tính từ đầu năm đến 22/12/2007 63 2.12. Tác động của ODA đối với tỷ lệ tăng trưởng thông qua chỉ số ICOR 65 2.13. Kết quả sản xuất nông, lâm nghiệp, thủy sản 69 2.14. Mặt hàng nông, lâm, thủy hải sản xuất, nhập khẩu chủ yếu 69 2.15. Số liệu rừng trồng và rừng bị cháy, chặt phá qua các năm 72 2.16. Kết quả khai thác tài nguyên biển nước ta 76 2.17. Các nhóm khoáng sản hiện có ở nước ta 77 2.18. Đánh giá đóng góp của các nhân tố sản xuất 89 2.19. Đóng góp của năng suất lao động vào tăng trưởng GDP 90 2.20. Hệ số ICOR của Việt Nam giai đoạn 1991 - 1995 92 MỤC LỤC TrangChương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGUỒN LỰC KINH TẾ 111.1. Một số khái niệm cơ bản về tăng trưởng kinh tế và nguồn lực 111.1.1. Khái niệm về tăng trưởng và phát triển kinh tế 111.1.2. Quan niệm về nguồn lực kinh tế 151.2. Vai trò của nguồn lực tác động đến tăng trưởng kinh tế 211.2.1. Nguồn lực con người 211.2.2. Nguồn lực vốn 231.2.3. Nguồn lực tự nhiên 251.2.4. Nguồn lực khoa học - công nghệ 271.2.5. Nguồn lực phi vật thể 281.2.6. Mối quan hệ giữa các nguồn lực 291.3. Kinh nghiệm của một số quốc gia và vùng lãnh thổ về huy động và sử dụng các nguồn lực cho tăng trưởng và phát triển kinh tế 33Chương 2: PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG HUY ĐỘNG VÀ SỬ DỤNG CÁC NGUỒN LỰC KINH TẾ ĐÓNG GÓP CHO TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ Ở VIỆT NAM 422.1. Phân tích sự đóng góp của các nguồn lực vào tăng trưởng kinh tế 422.1.1. Tổng quan về tăng trưởng kinh tế của Việt Nam thời gian qua 422.1.2. Thực trạng đóng góp nguồn lực lao động vào tăng trưởng kinh tế 522.1.3. Thực trạng đóng góp của các nguồn vốn đầu tư vào tăng trưởng kinh tế 592.1.4. Đóng góp của tài nguyên thiên nhiên vào tăng trưởng kinh tế 662.1.5. Nguồn lực khoa học - công nghệ 782.1.6. Các nguồn lực phi vật chất 832.2. Đánh giá tổng quát sự đóng góp của các nguồn lực chủ yếu đối với tăng trưởng kinh tế Việt Nam 862.2.1. Một số thành tựu cơ bản 862.2.2. Một số tồn tại, hạn chế 88Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP ĐỂ HUY ĐỘNG VÀ SỬ DỤNG CÁC NGUỒN LỰC NHẰM ĐẢM BẢO NÂNG CAO TỐC ĐỘ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ CỦA VIỆT NAM 973.1. Quan điểm về phát huy các nguồn lực nhằm đảm bảo tăng trưởng kinh tế hiệu quả và bền vững 973.1.1. Huy động và kết hợp tốt các nguồn lực trong và ngoài nước 973.1.2. Chất lượng nguồn lực lao động - điều kiện cơ bản đề huy động, sử dụng, phát triển các nguồn lực khác 993.1.3. Kết hợp tốt giữa Nhà nước và thị trường trong việc phân bổ, sử dụng và phát triển các nguồn lực 1003.1.4. Sử dụng hợp lý có hiệu quả các nguồn lực đã được huy động 1013.1.5. Thu hút và sử dụng các nguồn lực góp phần tăng trưởng kinh tế phải đảm bảo công bằng xã hội, bảo vệ môi trường và an ninh quốc phòng 1033.2. Định hướng và mục tiêu, cơ hội và thách thức đối với tăng trưởng kinh tế nước ta 1043.2.1. Định hướng và mục tiêu tăng trưởng kinh tế nước ta 1043.2.2. Cơ hội, thách thức của Việt Nam đối với huy động, sử dụng và phát triển các nguồn lực trong điều kiện hội nhập kinh tế 1143.3. Những giải pháp chủ yếu để huy động và sử dụng hợp lý các nguồn lực nhằm nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế Việt Nam trong thời gian tới 1173.3.1. Huy động và sử dụng hợp lý có hiệu quả các nguồn vốn đầu tư 1173.3.2. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực 1233.3.3. Phát triển khoa học - công nghệ và thúc đẩy việc áp dụng tiến bộ khoa học - công nghệ, kỹ thuật vào tăng trưởng kinh tế 1253.3.4. Khai thác và sử dụng tài nguyên thiên nhiên theo hướng bền vững 1283.3.5. Các giải pháp khác 130KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 134DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 144 1MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Tăng trưởng và phát triển kinh tế luôn là vấn đề thu hút sự quan tâm ở mọi quốc gia trên thế giới. Với hầu hết các nước, tăng trưởng kinh tế luôn là điều kiện tiên quyết để phát triển kinh tế, nâng cao hơn nữa đời sống người dân, giảm thất nghiệp và thực hiện nhiều mục tiêu vĩ mô khác. Đối với các nước đang phát triển thì tăng trưởng kinh tế lại càng có ý nghĩa cấp thiết hơn vì tăng trưởng kinh tế là điều kiện số một để gia nhập nhóm các nước phát triển, tăng trưởng kinh tế là nhân tố quyết định để đưa đất nước thoát khỏi đói nghèo, lạc hậu, là điều kiện để phát triển kinh tế, tham gia hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực, thực hiện công bằng xã hội, nâng cao đời sống người dân… Ở Việt Nam, tăng trưởng và phát triển kinh tế luôn được Đảng, Nhà nước đặc biệt quan tâm trong các Cương lĩnh và chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Qua các kỳ Đại hội, Đảng ta luôn đề cập đến vấn đề tăng trưởng và phát triển kinh tế với mục tiêu: “…dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh…” mà điều kiện tiên quyết để thực hiện là phải phấn đấu tăng trưởng kinh tế nhanh, mạnh và vững chắc theo hướng bền vững. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X của Đảng đã nhấn mạnh: “phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh công cuộc đổi mới, huy động và sử dụng tốt mọi nguồn lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; thực hiện công bằng xã hội, … mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, giữ vững ổn định chính trị - xã hội, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại”. Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ 4 (Khóa X) tiếp tục khẳng định: “Duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế cao đi liền với nâng cao chất lượng và hiệu quả của tăng trưởng; tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội… gắn khai thác với sử dụng có hiệu quả cao các nguồn lực, 2phát huy tối đa nội lực đi đôi với thu hút và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực bên ngoài, tạo thành sức mạnh quốc gia. Tích cực tạo ra và sử dụng có hiệu quả cao các lợi thế so sánh của đất nước”. Cũng từ mục tiêu này, dưới góc nhìn của các nhà kinh tế, để đạt được từ nay đến 2020, mỗi năm Việt Nam phải đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế trung bình ít nhất 7,5%. Việt Nam đã duy trì được tốc độ tăng trưởng khá cao và liên tục, trong giai đoạn 1991 - 1995 tốc độ tăng trưởng là 8,18%; giai đoạn 1996 - 2000 là 6,94%; 2001 - 2005 là 7,5%, tính chung cả thời kỳ 1998 - 2005 tốc độ tăng trưởng bình quân là 7,5%. Năm 2006, tốc độ tăng GDP đạt 8,24% ; năm 2007 đạt 8,4%, năm 2008, do sự biến động của kinh tế thế giới nên tăng trưởng kinh tế của chúng ta chỉ đạt 6,23%. Từ những con số trên cho thấy tăng trưởng kinh tế của nước ta chưa thực sự ổn định và vững chắc. Tăng trưởng kinh tế vẫn dựa theo chiều rộng: dựa vào tài nguyên thiên nhiên, nguồn lao động dồi dào, giá nhân công rẻ, nguồn vốn từ bên ngoài Như vậy, chất lượng tăng trưởng kinh tế không cao. Đây là thách thức to lớn cho những năm sắp tới, đặc biệt là từ năm 2010 trở đi, khi mà công nghiệp hóa đất nước đòi hỏi ở trình độ cao hơn, cạnh tranh và hội nhập kinh tế sâu sắc hơn, các nguồn lực kinh tế hữu hạn trở nên khan hiếm hơn, giá cao hơn. Một trong những nghịch lý hiện nay, là hầu hết các nước đang và chậm phát triển có những lợi thế về nguồn tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý, nguồn lao động dồi dào thì lại là những quốc gia nghèo, lạc hậu. Ở Việt Nam, trong những năm vừa qua, tăng trưởng kinh tế vẫn dựa nhiều vào lao động, còn sự đóng góp của năng suất nhân tố tổng hợp (TFP) còn ở mức thấp và thay đổi chậm. trong lúc đó, vốn, đặc biệt là vốn nước ngoài ngày càng “đắt”, khan hiếm thì lại được sử dụng nhiều, còn nguồn lao động dồi dào, giá nhân công rẻ sẽ không còn là lợi thế lâu dài…. Có nhiều nguyên nhân giải thích cho việc chúng ta có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, nhưng chất lượng tăng trưởng thấp và không vững chắc, đó là: điều kiện kinh tế thế giới và khu vực không thuận lợi, tốc độ chuyển đổi cơ cấu kinh 3tế còn chậm, chất lượng nguồn nhân lực còn chưa tương xứng tiềm năng và lợi thế, trong đó, nguyên nhân chủ yếu là chưa xác định rõ các nguồn lực tăng trưởng kinh tế (có bao nhiêu?, giá thế nào?) và sử dụng chúng thế nào cho có hiệu quả? Như Đại X đã nhận định: “Tăng trưởng kinh tế chưa tương xứng với khả năng, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế còn kém, cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm, nhiều nguồn lực và tiềm năng trong nước chưa được huy động và khai thác triệt để”. Tháng 11/2006, Việt Nam đã trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức thương mại thế giới. Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực ngày càng sâu rộng thì việc huy động và sử dụng các nguồn lực trong và ngoài nước như thế nào cho có hiệu quả là vấn đề không chỉ mang ý nghĩa lý luận mà còn có ý nghĩa lớn về thực tiễn. Vì vậy, việc nghiên cứu và phân tích các nguồn lực đóng góp cho tăng trưởng kinh tế là một đòi hỏi cấp bách cần được nghiên cứu. Đó là lý do mà chúng tôi lựa chọn đề tài này. 2. Tình hình nghiên cứu của đề tài: 2.1. Tình hình nghiên cứu trong nước Trong giai đoạn hiện nay, nguồn gốc tăng trưởng kinh tế, các nguồn lực kinh tế đã thu hút sự quan tâm của nhiều nhà kinh tế với rất nhiều bài viết trên các báo, tạp chí, nhiều luận án tiến sỹ kinh tế, luận văn thạc sỹ kinh tế, các chương trình khoa học cấp Nhà nước, các đề tài khoa học của các cấp quản lý khác nhau, cùng nhiều công trình khoa học khác dưới dạng sách giáo khoa, giáo trình, tài liệu hội thảo. Tăng trưởng kinh tế của Việt Nam dưới cách tiếp cận khác nhau đã được các nhà khoa học trong và ngoài nước nghiên cứu, có thể kể ra một số công trình tiêu biểu đã được công bố trong những năm gần đây: 1. S. S. Pack (1992), “Tăng trưởng và phát triển”, Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương. 2. Vũ Đình Bách (1995), “Các giải pháp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của Việt Nam”, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 43. Lê Đăng Doanh, Nguyễn Minh Tú (1995), “Tăng trưởng kinh tế và chính sách xã hội ở Việt Nam trong quá trình chuyển đổi từ 1991 đến nay, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 4. GS.TS Vũ Ngọc Phùng chủ biên (2003), “Giáo trình Kinh tế phát triển”, Trường Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội. 5. GS.TS Nguyễn Văn Thường chủ biên (2004), “Tăng trưởng kinh tế Việt Nam: Những rào cản cần phải vượt qua”, Nxb. Lý luận chính trị, Hà Nội. 6. PGS.TS. Nguyễn Khắc Minh, (2005): “Nhìn lại kinh tế Việt Nam trong hai thập kỷ qua một vài dự báo và đề xuất”, Nxb. Khoa học kỹ thuật, Hà Nội. 7. Đinh Văn Ân (2005), Quan niệm và thực tiễn phát triển kinh tế, xã hội tốc độ nhanh, bền vững và chất lượng cao ở Việt Nam, Nxb. Thống kê. 8. GS.TS Trần Văn Chử chủ biên (2006), “Kinh tế học phát triển”, Nxb. Lý luận chính trị, Hà Nội. 9. Lê Xuân Bá - Nguyễn Thị Tuệ Anh (2005) “Tăng trưởng kinh tế Việt Nam 15 năm (1991- 2005) từ góc độ phân tích đóng góp của các nhân tố sản xuất”, Nxb. Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội. 10. GS.TS Nguyễn Văn Nam và PGS.TS Trần Thọ Đạt (2006), “Tốc độ và chất lượng tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam”, Nxb. Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội. 11. GS.TSKH Lê Du Phong chủ biên (2006), “Nguồn lực và động lực phát triển trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam”, Nxb. Lý luận chính trị, Hà Nội. 12. PGS.TS Võ Văn Đức chủ biên (2006), “Tăng trưởng kinh tế Việt Nam qua mô hình tăng trưởng kinh tế của R. SoLow”, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 13. Vũ Thành Tự Anh “Tăng trưởng dưới mức tiềm năng”, Thời báo Kinh tế Sài Gòn, 29/12/2006. 514. TS. Nguyễn Từ (2007), Đánh giá thực trạng và đề xuất giải pháp đối với tăng trưởng kinh tế ở nước ta, Đề tài cấp Bộ Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. 15. Thu Oanh “Vị thế kinh tế của Việt Nam”, Tạp chí Con số và Sự kiện, tháng 10/2006. 16. PGS.TS Trần Đình Thiên “Kinh tế Việt Nam: Chất lượng mới cho giai đoạn phát triển mới”, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, tháng 9/2005. 17. Vũ Quang Việt “Tăng trưởng tốt nhưng vẫn còn yếu kém”, Thời báo Kinh tế Sài Gòn, 9/2/2006. 18. GS.TS Nguyễn Văn Thường, GS.TS Nguyễn Kế Tuấn (2008), Kinh tế Việt Nam sau một năm gia nhập tổ chức thương mại thế giới, Nxb. Đại học KTQD, Hà Nội. 19. Kinh tế Việt Nam sau hơn một năm gia nhập WTO. Những tác động, bài học quan trọng và một số kinh nghiệm, Tạp chí Ngân hàng 6/2008. Hầu hết trong các công trình khoa học này, các tác giả đã sử dụng nhiều mô hình, lý thuyết và thuật toán để đánh giá tình hình tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam qua các giai đoạn khác nhau và hệ thống hoá những vấn đề lý luận có liên quan đến tốc độ và chất lượng tăng trưởng của nền kinh tế. Trong đó, phải nhấn mạnh một số công trình: Như cuốn sách “Tốc độ và chất lượng tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam” do GS.TS Nguyễn Văn Nam và PGS.TS Trần Thọ Đạt chủ biên đã hệ thống hóa những vấn đề có liên quan đến tốc độ và chất lượng tăng trưởng của nền kinh tế. Hoặc sách “Tăng trưởng kinh tế Việt Nam: Những rào cản cần phải vượt qua” do GS.TS Nguyễn Văn Thường chủ biên, đã tìm ra những hạn chế của tăng trưởng kinh tế của Việt Nam. Cuốn sách của PGS.TS Nguyễn Khắc Minh lại đánh giá tác động của tiến bộ công nghệ đối với tăng trưởng kinh tế của Việt Nam. Còn trong cuốn sách “Tăng trưởng kinh tế của Việt Nam 15 năm (1991 - 2005) từ góc độ phân tích đóng góp của các nhân tố sản xuất” của tác giả Lê Xuân Bá và Nguyễn Thị Tuệ Anh lại phân tích sự đóng góp của 3 nhân tố: vốn, lao động và năng suất nhân tố tổng hợp đến 6tăng trưởng kinh tế của Việt Nam. Hoặc PGS.TS Võ Văn Đức chủ biên cuốn sách “Tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam qua mô hình tăng trưởng kinh tế của R. Solow” đã phân tích tăng trưởng kinh tế của Việt Nam từ mô hình cơ bản của R.Solow, chủ yếu là dưới tác động của năng suất nhân tố tổng hợp. Cuốn sách được xuất bản năm 2008 của GS.TS Nguyễn Văn Thường, GS.TS Nguyễn Kế Tuấn đã đánh giá kinh tế Việt Nam sau một năm gia nhập WTO, đưa ra những khó khăn, thách thức cho nền kinh tế Việt Nam. Ở các bài báo và các tài liệu khác, nhiều nhà khoa học đã nhấn mạnh rằng tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam có thể cao hơn nếu sử dụng tốt các nguồn lực và có những chính sách kinh tế hiệu lực và kịp thời. Các tác giả đã đánh giá thực trạng tăng trưởng kinh tế Việt Nam, phân tích những nỗ lực, cố gắng và các thành tựu đạt được, cũng như phân tích những tồn tại, hạn chế và những nguyên nhân dẫn đến tình hình đó. 2.2. Tình hình nghiên cứu nước ngoài về tăng trưởng kinh tế của Việt Nam 1. Karl John trong bài “Vietnam’s WTO hopes and dreams”, Asia times online (2007) cho rằng tăng trưởng của Việt Nam năm 2006 khoảng 8,2%, mức tăng trưởng này là rất cao và chỉ sau mức tăng trưởng của Trung Quốc. Nhưng theo tác giả, trong những năm tới, khi Việt Nam chính thức trở thành thành viên của WTO thì mức tăng trưởng này sẽ còn cao hơn, thậm chí mức tăng trưởng này còn có khả năng vượt qua mức tăng trưởng của Trung Quốc. Tác giả đã đề cập đến môi trường đầu tư thuận lợi của Việt Nam. Theo đó, rất nhiều nhà đầu tư đang chờ đợi cho Việt Nam chính thức trở thành thành viên WTO thì họ mới đặt chân đến Việt Nam. Tác giả đi đến kết luận rằng sự kiện gia nhập WTO sẽ giúp Việt Nam có được cơ hội ngàn vàng trong việc gia tăng mức tăng trưởng trong những thập kỷ tới. 2. Kei Stuart (2006) trong bài “Vietnam as an Emerging Economy”, cho rằng nền kinh tế Việt Nam đạt được những thành tích đầy ngoạn mục là do những thay đổi của Chính phủ trong chính sách kinh tế vĩ mô. Tác giả cho 7rằng nguyên nhân bên trong của sự tăng trưởng này là do sự thay đổi trong quá trình ra quyết định “new blood” (thay máu - chú thích tác giả). Kei Stuart cho rằng chính sự điều chỉnh cần thiết về hành chính, kinh tế, đối ngoại và việc áp dụng các công cụ của nền kinh tế thị trường đã giúp Việt Nam đạt mức tăng trưởng cao và vững chắc trong khi vẫn duy trì mối quan hệ rất tốt với các nước trong khu vực và các nước láng giềng. 3. Ngoài ra còn có các bài viết của James Riedel (2005); Finfact Team; và một số tác giả khác đã đề cập đến tăng trưởng kinh tế Việt Nam trên nhiều góc độ tiếp cận khác nhau. Tuy nhiên, các tác giả đều đánh giá cao những nỗ lực của Chính phủ Việt Nam trong việc duy trì một nền kinh tế ổn định, một môi trường đầu tư ngày càng thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài đến Việt Nam. 4. Lant. Pri Chet: “50 năm lý thuyết tăng trưởng kinh tế hiện đại và cuộc tìm kiếm vẫn còn tiếp tục”, Tạp chí Ngân hàng số 23, tr.12, 2006. Tác giả nhấn mạnh đến vai trò của tăng trưởng kinh tế, các lý thuyết khác nhau về tăng trưởng kinh tế và vai trò của tăng trưởng kinh tế đối với kinh tế quốc gia và toàn cầu. Có thể nói, các tác giả trong và ngoài nước đã có nhiều cách tiếp cận khác nhau đến thực trạng tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam và sự đóng góp của các nguồn lực đối với tăng trưởng kinh tế. Nhiều nhà khoa học cũng đã chỉ ra những nhân tố tích cực góp phần tạo ra động lực tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong những năm qua. Nhưng đa số các tác giả đã tiếp cận định tính và cả định lượng hoặc tiếp cận dưới dạng chính sách, có nghĩa là xem xét từng nguồn lực một cách riêng rẽ, đánh giá chủ yếu trên các con số tăng trưởng mà chưa thực sự đi vào chiều sâu đánh giá một cách tổng hợp thực trạng thu hút, khai thác và sử dụng các nguồn lực cho tăng trưởng kinh tế. Chúng tôi cũng đồng tình với tác giả Lê Xuân Bá và Nguyễn Thị Tuệ Anh: “Ở Việt Nam, nghiên cứu nguồn lực tăng trưởng kinh tế trong dài hạn bằng phương pháp ước 8lượng đánh giá trực tiếp của các nhân tố sản xuất có rất ít”. Một số nghiên cứu gần đây (như các tác giả Trần Thọ Đạt, 2006; Tổng cục Thống kê, 2003; Trần Kim Chung, 2002; Lê Đăng Doanh, GS.TSKH Lê Du Phong 2002, 2003, 2004) cũng phân tích nguồn lực tăng trưởng, nhưng không đánh giá theo các nguồn lực kinh tế mà theo phương pháp bóc tách tốc độ tăng trưởng để ước lượng xem các nhân tố sản xuất và TFP đóng góp bao nhiêu điểm phần trăm vào tăng năng suất lao động trong giai đoạn khảo sát, đặc biệt là sự đóng góp của các nguồn lực trong nước và quốc tế vào tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế của nước ta thời gian qua, nhưng chưa đánh giá tổng hợp về các nguồn lực kinh tế. Tuy nhiên, việc nghiên cứu tổng thể dưới góc độ tiếp cận phân tích các nguồn lực cho tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay thì đến nay chưa có một công trình khoa học nào. Như Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X đã nhận định: “Phát huy cao độ nội lực, đồng thời ra sức tranh thủ ngoại lực, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong điều kiện mới. Phát huy nội lực, xem đó là nhân tố quyết định đối với sự phát triển. Đồng thời coi trọng huy động các nguồn ngoại lực thông qua hội nhập và hợp tác quốc tế, tranh thủ các nguồn lực bên ngoài để phát huy nội lực mạnh hơn, nhằm tạo ra sức mạnh tổng hợp để phát triển đất nước nhanh và bền vững”. 3. Mục tiêu và nhiệm vụ của đề tài: 3.1. Mục tiêu: phân tích sự đóng góp các nguồn lực kinh tế cho tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam thời gian qua, đề xuất một số quan điểm và giải pháp để huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn lực nhằm góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh, bền vững trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế. 3.2. Nhiệm vụ: - Hệ thống hóa và làm rõ cơ sở lý luận về vai trò của các nguồn lực đối với tăng trưởng kinh tế. - Phân tích thực trạng huy động và sử dụng các nguồn lực kinh tế ở Việt Nam góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế Việt Nam thời gian qua. 9- Đề xuất một số quan điểm và giải pháp để huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực nhằm đảm bảo chất lượng tăng trưởng kinh tế của Việt Nam. 4. Phương pháp và phạm vi nghiên cứu 4.1. Phương pháp nghiên cứu Ngoài những phương pháp truyền thống: duy vật lịch sử, duy vật biện chứng, quan điểm của Đảng và Nhà nước, đề tài chú trọng sử dụng các phương pháp nghiên cứu kinh tế thông dụng như phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh, kinh tế lượng, toán kinh tế, phương pháp chuyên gia, điều tra xã hội học. 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Nguồn lực cho tăng trưởng và phát triển là rất rộng và phức tạp, do vậy chúng tôi chỉ tập trung vào nghiên cứu các nguồn lực kinh tế chủ yếu: tài nguyên thiên nhiên, vốn, lao động và khoa học công nghệ, còn các nguồn lực phi vật thể chỉ nghiên cứu dưới góc độ là các nhân tố tác động. - Thời gian nghiên cứu: chủ yếu từ năm 2000 đến nay. 5. Nội dung nghiên cứu: Chương I: Những vấn đề lý luận về nguồn lực kinh tế 1.1. Một số khái niệm cơ bản về tăng trưởng, phát triển kinh tế và nguồn lực 1.2. Vai trò của nguồn lực tác động đến tăng trưởng kinh tế 1.3. Kinh nghiệm của một số quốc gia và vùng lãnh thổ về huy động và sử dụng các nguồn lực cho tăng trưởng và phát triển kinh tế Chương II: Phân tích thực trạng huy động và sử dụng các nguồn lực kinh tế đóng góp cho tăng trưởng kinh tế Việt Nam 2.1. Phân tích sự đóng góp của các nguồn lực vào tăng trưởng kinh tế 102.2. Đánh giá tổng quát sự đóng góp của các nguồn lực chủ yếu đối với tăng trưởng kinh tế Việt Nam Chương III: Quan điểm và những giải pháp để huy động và sử dụng các nguồn lực nhằm đảm bảo nâng cao tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam 3.1. Quan điểm về phát huy các nguồn lực nhằm đảm bảo tăng trưởng kinh tế hiệu quả và bền vững. 3.2. Định hướng và mục tiêu, cơ hội và thách thức đối với tăng trưởng kinh tế nước ta 3.3. Những giải pháp chủ yếu để huy động và sử dụng hợp lý các nguồn lực nhằm nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế Việt Nam trong thời gian tới 11CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGUỒN LỰC KINH TẾ 1.1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN VỀ TĂNG TRƯỞNG, PHÁT TRIỂN KINH TẾ VÀ NGUỒN LỰC 1.1.1. Khái niệm về tăng trưởng và phát triển kinh tế Ngày nay, trên thế giới mặc dù có những quan điểm khác nhau trong đường lối chính trị, xã hội, nhưng nhìn chung có sự nhìn nhận tương đối thống nhất về sự tiến bộ của một nước thường được đánh giá trên hai mặt: đó là tăng trưởng về kinh tế và sự tiến bộ về mặt xã hội - môi trường. Trước đây, người ta thường dùng hai thuật ngữ “tăng trưởng” và “phát triển” để phản ánh sự tiến bộ đó, vào những năm cuối của thế kỷ XX, đã bổ sung thêm một thuật ngữ đánh dấu sự phát triển đó là “phát triển bền vững”. Có rất nhiều quan niệm khác nhau về TTKT, nhưng đa số đều thống nhất: "Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng tổng sản phẩm quốc dân trong một thời kỳ nhất định, là kết quả của tất cả các hoạt động sản xuất và dịch vụ trong nền kinh tế tạo ra, không kể việc sản xuất được thực hiện trong nước hay nước ngoài". Như vậy có thể hiểu: Tăng trưởng kinh tế là sự tăng thêm về mặt quy mô, sản lượng sản phẩm vật chất và dịch vụ được sáng tạo ra trong một thời kỳ nhất định (thường là một năm) và không phân biệt chủ sở hữu. Để biểu thị sự tăng trưởng kinh tế, trước đây, người ta đo lường tổng của cải xã hội tạo ra trong thời kỳ nhất định bằng hai đại lượng chính: GNP (Tổng sản phẩm quốc dân), GDP (Tổng sản phẩm quốc nội) và GDP là tổng giá trị sản phẩm hàng hóa và dịch vụ cuối cùng về kết quả hoạt động kinh tế được tạo ra trên phạm vi lãnh thổ của một quốc gia trong một thời kỳ nhất định (thường là một năm), không phân biệt nguồn vốn và chủ sở hữu ở trong nước hay nước ngoài. Ngày nay để đánh giá đầy đủ và chính xác hơn người ta thường dùng GNI (Tổng thu nhập quốc gia) thay cho GNP. GNI là tổng giá trị thu nhập do 12công dân của một nước tạo ra trong một thời kỳ nhất định (thường là một năm) không kể tạo ra trong nước hay nước ngoài. Cách tính GNP và GNI là tương đối giống nhau. GNI là một trong những chỉ tiêu quan trọng nhất phản ánh trình độ kinh tế ở tầm vĩ mô. Tổng thu nhập quốc gia phản ánh toàn bộ thu nhập cuối cùng của sản xuất và các yếu tố sản xuất của quốc gia từ sản xuất trong nước (GDP) với chênh lệch thu nhập về lợi tức sở hữu, về nhân tố sản xuất như: lao động, vốn tài nguyên và quyền sở hữu tài sản khác với nước ngoài. Ở đây, nội dung của GNI đã bao gồm yếu tố sở hữu trong nước và từ bên ngoài. Tổng thu nhập quốc gia được tính theo phương pháp sau: GNI = Tổng sản phẩm quốc nội + Thu lợi tức sở hữu về các nhân tố sản xuất - Chi trả lợi tức sở hữu về các nhân tố sản xuất Tổng sản phẩm quốc nội là: Tổng giá trị tăng thêm của toàn bộ sản phẩm hàng hoá và dịch vụ cuối cùng được tạo ra trên lãnh thổ một nước trong một thời kỳ nhất định (thường là một năm), không phân biệt nguồn vốn và chủ sở hữu trong nước hay nước ngoài. Sự tăng trưởng của một nước được thể hiện qua chỉ số GNI và GDP, có GNI, GDP danh nghĩa và GNP, GDP thực tế. Do đó có mức tăng trưởng danh nghĩa và mức tăng trưởng thực tế. Tăng trưởng kinh tế là một nội dung cơ bản của phát triển kinh tế, của tiến bộ kinh tế - xã hội. Song nếu tăng trưởng kinh tế với bất kỳ giá nào thì có thể làm chệch hướng đường lối chính trị, khai thác kiệt quệ tài nguyên, làm ô nhiễm môi trường, mất cân bằng sinh thái, tăng tệ nạn xã hội Phát triển là sự đi lên, sự tiến bộ của toàn xã hội một cách toàn diện, bao gồm sự tổng hợp rất nhiều nhân tố: tăng trưởng kinh tế cao, thu nhập quốc dân tính theo đầu người tăng liên tục, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng giảm tỷ trọng nông nghiệp, tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ, mức sống của đại đa số dân cư được cải thiện, các giá trị văn hoá, tinh thần được 13đề cao. Như vậy, khái niệm phát triển có nội dung phong phú và toàn diện hơn khái niệm tăng trưởng. Phát triển bao hàm sự vận động của một hệ thống, sự tương hợp của các động lực, sự thống nhất cao của toàn xã hội và tính mục đích cụ thể. Đồng thời phát triển cũng là sự gạt bỏ, loại trừ, hạn chế các cản trở, tác động ngược của tăng trưởng. Phát triển kinh tế có thể hiểu là một quá trình lớn lên (hay tăng tiến) về mọi mặt của nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định. Trong đó bao gồm cả sự tăng thêm về quy mô sản lượng và sự tiến bộ về cơ cấu kinh tế - xã hội. Phát triển kinh tế là tăng trưởng kinh tế bền vững, vừa đảm bảo tăng trưởng trước mắt vừa đảm bảo tăng trưởng kinh tế trong tương lai. Ngay từ năm 1992, trong Báo cáo phát triển về thế giới của Liên Hợp Quốc đã khẳng định: "Phát triển là nâng cao phúc lợi của nhân dân, nâng cao tiêu chuẩn sống và cải tiến giáo dục sức khoẻ và bình đẳng về cơ hội là tất cả những thành phần cơ bản của phát triển kinh tế. Bảo đảm các quyền chính trị và công dân là một mục tiêu phát triển rộng hơn. Tăng trưởng kinh tế là cách cơ bản để có thể được phát triển, nhưng bản thân nó chưa hoàn toàn phản ánh cho sự tiến bộ"1. Cụ thể mức độ gia tăng của sản phẩm quốc dân tính theo đầu người phản ánh mức độ tăng trưởng của một quốc gia trong một giai đoạn nhất định. Mức độ gia tăng của thu nhập thực tế mà mỗi người dân được hưởng phản ánh mức độ công bằng, dân chủ. Tăng thu nhập thực tế và sự phân phối thu nhập bình đẳng hơn là những yếu tố cơ bản để tăng chất lượng cuộc sống. Sự gia tăng kinh tế phải lớn hơn mức tăng dân số, đi liền với sự thay đổi cơ cấu kinh tế - xã hội, đi đôi với tăng thu nhập thực tế nhờ phân phối hợp lý kết quả của tăng trưởng và ổn định được lạm phát, bảo vệ và tái tạo môi trường tự nhiên, nâng cao dân trí và sự chăm sóc y tế mới gọi là phát triển kinh tế. Thực tiễn lịch sử cho thấy, ở một số nước có sự tăng trưởng kinh tế mà không có sự phát triển kinh tế. Bởi phát triển đòi hỏi sự tiến bộ toàn diện, sự 1 GS.TS Vũ Đình Bách (chủ biên), Các giải pháp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 1998, tr.9. 14đánh giá tổng hợp nhiều mặt của sự tiến bộ xã hội. Các nước có chế độ chính trị khác nhau có trình độ phát triển xã hội khác nhau về nhiều mặt tạo nên sự đa dạng khi đánh giá trình độ phát triển ở mỗi nước. Trên cơ sở đó Liên Hợp Quốc đưa ra khái niệm chỉ số phát triển con người HDI (Human Development Index) là chỉ số đánh giá sự phát triển của một quốc gia, gọi là sự phát triển con người. HDI đo lường sự tiến bộ kinh tế kết hợp với tiến bộ xã hội dựa trên 3 chỉ tiêu thể hiện sự phát triển: Tuổi thọ bình quân, tỷ lệ người biết chữ, mức thu nhập bình quân theo đầu người. HDI là chỉ tiêu tổng hợp đánh giá sự phát triển của xã hội, phản ánh ba mặt quan trọng của chất lượng cuộc sống của người dân mà sự tăng trưởng kinh tế thuần tuý không thể tạo ra được. Nếu phát triển đồng bộ, cân đối hài hoà về ba chỉ tiêu này sẽ có HDI cao, ngược lại nếu phát triển không cân đối thì HDI bị hạ xuống. Ngày nay tiêu chí phát triển kinh tế được bổ sung thêm về chất lượng sản phẩm cao, an toàn, thân thiện với môi trường…, phù hợp với sự biến đổi của nhu cầu xã hội, nhu cầu con người, môi trường xã hội và công bằng xã hội. Như vậy ở một khía cạnh nào đó phát triển kinh tế cũng là sự phản ánh sự vận động nền kinh tế của một quốc gia từ trạng thái thấp lên trạng thái cao cả về chất lượng và số lượng bằng nhiều chỉ tiêu khác nhau. Ngày nay, để xem xét trình độ phát triển của một quốc gia, người ta thường dùng khái niệm phát triển bền vững. Khái niệm này được xem như đỉnh cao của tư tưởng phát triển hiện nay. Phát triển bền vững là một thuật ngữ được các chính trị gia, các nhà khoa học trên toàn thế giới sử dụng rộng rãi, mặc dù quan niệm này còn mới mẻ và chưa có sự thống nhất trong cách diễn giải. Có rất nhiều quan niệm và định nghĩa khác nhau về phát triển bền vững. Các nhà thống kê đã tính có khoảng 70 định nghĩa về phát triển bền vững, nhưng có lẽ một định nghĩa được nhiều quốc gia, nhiều nhà chính trị, khoa học đồng tình ủng hộ, đó là định nghĩa của Hội đồng thế giới về môi trường và phát triển WCED (World Commission on Environment and Development) đưa ra vào năm 1987. "Phát triển bền vững là phát triển đáp 15ứng được những yêu cầu của hiện tại, nhưng không gây trở ngại cho việc đáp ứng các nhu cầu của các thế hệ mai sau"2. Phát triển bền vững là sự phát triển kinh tế - xã hội với tốc độ cao, liên tục trong một thời gian dài. Tại các Hội nghị Thượng đỉnh Trái đất về Môi trường và phát triển tổ chức ở Rio De Janeiro (Braxin) năm 1992 và Hội nghị thượng đỉnh Thế giới về phát triển bền vững tổ chức ở Johannesburg (Cộng hoà Nam Phi) năm 2002 đã xác định "phát triển bền vững" là quá trình phát triển có sự kết hợp chặt chẽ (nhất là tăng trưởng kinh tế), phát triển xã hội (nhất là thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội: xoá đói giảm nghèo, giải quyết việc làm, an sinh xã hội) và bảo vệ môi trường (nhất là bảo vệ, khắc phục ô nhiễm môi trường, phục hồi và cải thiện chất lượng môi trường, phòng chống cháy và chặt phá rừng, khai thác tràn lan tài nguyên thiên nhiên). Quan điểm phát triển bền vững đã được Đảng ta khẳng định qua các kỳ Đại hội đó là "phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội và bảo vệ môi trường". Phát triển bền vững đã trở thành đường lối, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam và chính sách của Nhà nước. Về định hướng chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam, Chính phủ đã có Quyết định 153/2004/QĐ-TTg để cụ thể hoá những chủ trương của Đảng và Nhà nước trong thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. 1.1.2. Quan niệm về nguồn lực kinh tế Tăng trưởng và phát triển kinh tế chịu sự chi phối của nhiều nhân tố kinh tế và phi kinh tế khác nhau. Trong số các nhân tố kinh tế bao gồm các loại nhân tố kinh tế tác động đến khả năng sản xuất (tổng cung) và các nhân tố tác động đến sự thay đổi quy mô và cơ cấu tổng cầu của nền kinh tế. Với các điều kiện khác không đổi sự cân bằng cung cầu do giá cả thị trường điều 2 Định hướng phát triển bền vững ở Việt Nam (Chương trình Nghị sự 21), Hà Nội, tháng 8/ 2004. tr.4. 16tiết sẽ tác động đến quy mô và cơ cấu sản lượng của nền kinh tế, nhờ đó mà tác động đến tăng trưởng và phát triển kinh tế. Các nhân tố kinh tế tác động đến khả năng sản xuất (hay các nhân tố đầu vào của sản xuất) là: tài nguyên thiên nhiên, nguồn lao động, vốn, khoa học và công nghệ, được quan niệm là các nguồn lực kinh tế. Các nhân tố kinh tế có nguồn gốc hình thành khác nhau: Tài nguyên thiên nhiên được hình thành một cách khách quan do tự nhiên ban tặng; nguồn lao động gắn với bản thân con người; trong khi đó vốn, khoa học và công nghệ là do con người sáng tạo ra. Các nguồn lực kinh tế tham gia vào các quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế với những vai trò khác nhau. Tài nguyên thiên nhiên là đối tượng của lao động là lực lượng vật chất cơ bản, ban đầu của các sản phẩm hoặc là nguồn “năng lượng”, hay lực lượng trợ giúp cho hoạt động sản xuất các sản phẩm và dịch vụ. Các loại vốn, khoa học và công nghệ là các loại công cụ , phương tiện và phương thức khác nhau để lao động của con người tác động vào các yếu tố để tạo ra các sản phẩm và dịch vụ. Lao động của con người với tư cách là chủ thể sáng tạo có vị trí trung tâm trong việc tổ chức và sử dụng có hiệu quả cao nhất các nguồn lực kinh tế. Quy mô, cơ cấu, chất lượng và khả năng sử dụng các nguồn lực kinh tế bị tác động bởi nhiều nhân tố khác nhau, bao gồm cả những yếu tố tự nhiên và kinh tế - xã hội, trong đó trình độ phát triển kinh tế - xã hội có ý nghĩa quyết định. Chính vì vậy, sự khác nhau về sự giàu có của các nguồn tài nguyên thiên nhiên và trình độ phát triển kinh tế, xã hội giữa các quốc gia làm cho quy mô, cơ cấu, chất lượng và trình độ sử dụng các nguồn lực kinh tế khác nhau. Từ đó tác động của chúng đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế là khác nhau. Ngày nay, đối với các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam, để tăng trưởng kinh tế, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá được coi là con đường duy nhất để thoát khỏi một nền nông nghiệp lạc hậu, nhỏ lẻ, manh mún. Để tăng trưởng kinh tế, thì phải khai thác và sử dụng các nguồn lực 17kinh tế khác nhau. Có rất nhiều nguồn lực, nhân tố tác động đến tăng tưởng kinh tế và cũng có rất nhiều cách phân loại các nguồn lực phát triển. Dưới các góc độ tiếp cận khác nhau. Có thể hiểu, nguồn lực là lực lượng vật chất để thực hiện tăng trưởng và phát triển kinh tế. Theo nhiều nhà khoa học thì nguồn lực là bao gồm cả nguồn lực kinh tế, văn hoá, chính trị, xã hội Cho đến nay, có thể nói rằng chưa có một tài liệu chính thức nào đưa ra định nghĩa và khái niệm nguồn lực, mà chỉ đưa ra quan niệm dưới dạng tổng quát, dễ hiểu nguồn lực là toàn bộ các yếu tố cả vật chất và tinh thần đã và đang góp phần thúc đẩy cho tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội và chính trị của quốc gia đó. Gần đây trong cuốn sách "Nguồn lực và động lực phát triển trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam” do GS. TSKH Lê Du Phong làm chủ biên thì "Nguồn lực là tổng hợp các yếu tố vật thể và phi vật thể tạo nên nền kinh tế của một đất nước và thúc đẩy nó phát triển"3. Viện Chiến lược phát triển (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) đã đưa ra thuật ngữ cụ thể và chi tiết hơn về nguồn lực cho tăng trưởng và phát triển kinh tế về nguồn lực phát triển đó là "Điều kiện vật chất được sử dụng cho phát triển (các nguồn tài nguyên thiên nhiên cơ sở vật chất, nguồn vốn, nguồn nhân lực )4. TS. Chu Tiến Quang, Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương: “Theo nghĩa hẹp, nguồn lực được hiểu là các nguồn lực vật chất cho phát triển, ví dụ như tài nguyên thiên nhiên, tài sản vốn bằng tiền… Theo nghĩa rộng, nguồn lực hiểu gồm tất cả các lợi thế, tiềm năng vật chất để phục vụ cho một mục tiêu phát triển nhất định nào đó… Nguồn lực phát triển của một quốc gia được hiểu là khả năng cung cấp các yếu tố cần thiết cho việc phát triển kinh tế - xã hội của đất nước”5. 3 GS.TSKH Lê Du Phong chủ biên, Nguồn lực và động lực phát triển trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam, Nxb Lý luận chính trị, 2005, tr.12. 4 Viện Chiến lược phát triển "Quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội. Một số vấn đề lý luận và thực tiễn”. Nxb Chính trị quốc gia. H. 2004, tr.70. 5 Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương, Chu Tiến Quang (chủ biên) Huy động và sử dụng các nguồn lực trong phát triển kinh tế nông thôn. Thực trạng và giải pháp, Nxb. Chính trị quốc gia, 2005. 18Các Mác đóng góp lớn vào lý thuyết tăng trưởng với công trình nổi tiếng “Tư bản”. Theo Mác, “Nguồn lực của tăng trưởng kinh tế là sự tích lũy tư bản, trong đó là các yếu tố tác động đến quá trình này là đất đai, lao động, vốn và tiến bộ kỹ thuật. Xét trên quy mô toàn xã hội, nguồn gốc của tư bản tích lũy là giá trị thặng dư do lao động làm thuê tạo ra”6. Theo chúng tôi quan niệm về nguồn lực có phạm vi, quy mô rất rộng, nó không chỉ chứa đựng những yếu tố, nhân tố sẵn có, đã và đang tạo ra sức mạnh trên thực tế mà cả các nhân tố, tiềm năng có thể góp phần và tạo ra sức mạnh trong tương lai. Như vậy, nguồn lực đóng góp cho tăng trưởng và phát triển kinh tế không phải chỉ có các yếu tố vật chất như các quan niệm cổ đại, mà nó còn có các yếu tố phi vật thể. Đặc biệt trong xu thế hội nhập và mở cửa, do đó nguồn lực bên ngoài, nguồn lực phi vật thể lại có khi còn có tác động nhiều hơn. Cơ cấu quy mô, tỷ trọng của nguồn lực kinh tế không cố định, mà có sự thay đổi tỷ trọng, vai trò và vị trí của từng nguồn lực cùng với sự phát triển của nền kinh tế thế giới và định hướng của từng quốc gia đó. Từ đó, theo quan niệm của chúng tôi: Nguồn lực cho tăng trưởng và phát triển kinh tế bao gồm toàn bộ các nguồn tài nguyên thiên nhiên, tài sản, con người trong nước và từ nước ngoài và các yếu tố phi vật thể khác đã, đang và sẽ được khai thác, sử dụng nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội theo hướng bền vững. Như vậy, khái niệm nguồn lực là rất rộng và phức tạp. Sự tác động đến quá trình phát triển nền kinh tế do nhiều nhân tố, trong đó có cả nhân tố kinh tế và phi kinh tế. Song chúng ta không thể liệt kê và nghiên cứu tất cả, chỉ nghiên cứu các nguồn lực phát triển cơ bản nhất, bao quát nhất. 6 Lê Xuân Bá, Nguyễn Thị Tuệ Anh (chủ biên), Tăng trưởng kinh tế Việt Nam 15 năm (1991 - 2005) từ góc độ phân tích đóng góp của các nhân tố sản xuất, Nxb. Khoa học và Kỹ thuật, H. 2006, tr. 55.