Hình thức cấu trúc nhà nước Brunei

Mục lụcCâu 1. Tổng quan về hình thức chính thể của tất cả các quốc gia thuộc ASEAN .................. 2Câu 2: Về tổ chức bộ máy Nhà nước các nước ASEAN, có hai đặc điểm: .............................. 4Câu 3. Tổng quan về nguồn pháp luật của tất cả các quốc gia thuộc ASEAN ........................ 7Câu 4: Về tổ chức bộ máy Nhà nước các nước ASEAN .......................................................... 13Câu 5. Brunei: giới thiệu tổng quan về về chính trị, văn hóa, lịch sử, hình thức chính thể,hình thức cấu trúc nhà nước, tổ chức bộ máy nhà nước Brunei, khái quát hệ thống phápluật Brunei ................................................................................................................................... 15Câu 6. Campuchia: giới thiệu tổng quan về chính trị, văn hoá, lịch sử, hình thức chính thể,hình thức cấu trúc nhà nước, tổ chức bộ máy nhà nước của Campuchia ............................. 24Câu 7 Indonesia: giới thiệu tổng quan về về chính trị, văn hóa, lịch sử, hình thức chính thể,hình thức cấu trúc nhà nước. ..................................................................................................... 29Câu 8..bộ máy nhà nước và pháp luật Indonesia ..................................................................... 31Câu 9. Lào: giới thiệu tổng quan về về chính trị, văn hóa, lịch sử, hình thức chính thể, hìnhthức cấu trúc nhà nước, tổ chức bộ máy nhà nước Lào .......................................................... 33Câu 10: Malaysia: giới thiệu tổng quan về về chính trị, văn hóa, lịch sử, hình thức chínhthể, hình thức cấu trúc nhà nước, tổ chức bộ máy nhà nước Malaysia, khái quát hệ thốngpháp luật Malaysia...................................................................................................................... 40Câu 11: Myanmar: giới thiệu tổng quan về chính trị, văn hóa, lịch sử, hình thức chính thể,hình thức cấu trúc nhà nước, tổ chức bộ máy nhà nước, Khái quát hệ thống pháp luậtMyanmar ..................................................................................................................................... 41Câu 12: PHILIPPINES............................................................................................................... 47Câu 13. Singapore : giới thiệu tổng quan về về chính trị, văn hóa, lịch sử, hình thức chínhthể, hình thức cấu trúc nhà nước, tổ chức bộ máy nhà nước, khái quát hệ thống pháp luậtSingapore ..................................................................................................................................... 53Câu 14. Thái Lan: giới thiệu tổng quan về chính trị, văn hoá, lịch sử, hình thức chính thể,hình thức cấu trúc nhà nước, tổ chức bộ máy nhà nước, khái quát hệ thống pháp luật củaThái Lan....................................................................................................................................... 64Câu 15. Việt nam: giới thiệu tổng quan về về chính trị, văn hóa, lịch sử, hình thức chínhthể, hình thức cấu trúc nhà nước; đặc trưng văn hóa pháp luật ............................................ 71Câu 16. Tổ chức bộ máy nhà nước Việt nam, khái quát hệ thống pháp luật Việt nam (nguồn pháp luật, các ngành luật, khái quát về tiến trình lập hiến, Hiến pháp 2013, địnhhướng cơ bản về hoàn thiện pháp luật ( tập trung vào Bộ luật hình sự, Bộ luật tố tụng hìnhsự, Bộ luật dân sự ) ..................................................................................................................... 801Câu 1. Tổng quan về hình thức chính thể của tất cả các quốc gia thuộc ASEAN1. Về thể chế chính trị các nước ASEAN, các tác giả đã xác định được nhữngđặc điểm chủ yếu sau :Một là, thể chế chính trị của các nước ASEAN (trừ Thái Lan) từ sau Chiến tranhthế giới thứ hai đến nay gắn liền với quá trình đấu tranh giành và giữ vững nền độclập dân tộc, xây dựng và phát triển đất nước. Sự lựa chọn con đường phát triểnTBCN hay XHCN là một trong những yếu tố quyết định tính chất và đặc điểm củahình thức chính thể và tổ chức bộ máy Nhà nước các nước ASEAN. Trong số 8nước đi theo con đường phát triển TBCN, có 4 nước theo hình thức chính thể quânchủ lập hiến (Brunây, Campuchia, Malaixia, Thái Lan); Xingapo có hình thứcchính thể cộng hòa đại nghị theo mô hình của nước Anh. Riêng Mianma, theo Hiếnpháp năm 1947 là chính thể cộng hòa dân chủ đại nghị, nhưng từ sau các cuộc đảochính quân sự (năm 1962-1974 và năm 1988), thể chế chính trị của Mianma đếnnay vẫn đang là chế độ quân sự. Nước Lào từ một nước thuộc địa nửa phong kiến,sau khi giành được độc lập đã đi theo con đường phát triển XHCN với hình thứcchính thể cộng hòa dân chủ nhân dân.Hai là, ở các nước ASEAN phát triển theo con đường TBCN, phải trải qua nhiềubiến động, nhiều xung đột gay gắt, giai cấp tư sản và địa chủ tại các nước này mớidần dần giữ được vị trí thống trị của mình. Nền dân chủ tư sản ở các nước ASEANchịu ảnh hưởng và mô phỏng dân chủ tư sản phương Tây, mức độ nhiều ít khácnhau tùy thuộc vào điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của mỗi nước. Nhưng do đặcđiểm lịch sử và điều kiện kinh tế – xã hội của những nước này không có sự tươngđồng như các nước phương Tây, nên không tạo ra nền tảng cho việc thực thi cácthể chế dân chủ tư sản, mà chỉ là ―bức tranh biếm họa‖ của mô hình dân chủ tư sảnphương Tây. Điển hình là chế độ cộng hòa tổng thống của Philippin, Inđônêxia vớisự thống trị độc tài, quân phiệt và nạn tham nhũng nặng nề của giới chóp bu cầmquyền xung quanh tổng thống (như thời kỳ cầm quyền của Marcos với lệnh thiếtquân luật hơn mười năm trời trên toàn nước Philippin từ đêm 21/9/1972; cũng nhưsuốt 32 năm của cái gọi là ―Trật tự mới‖ dưới thời cầm quyền của Xuhactô ởInđônêxia…).Ba là, sau những biến động chính trị – xã hội sâu sắc bởi sự thao túng của giớiquân sự (Inđônêxia, Philippin, Mianma) đã để lại hậu quả nặng nề về nhiều mặt tạicác quốc gia này nên những năm gần đây, khuynh hướng dân chủ hóa đời sốngchính trị của đất nước và dân sự hóa bộ máy Nhà nước đang thắng thế ở một loạtnước ASEAN. Ví dụ, năm 1986 đã chấm dứt 21 năm cầm quyền của Marcos, một―Tổng thống có một bàn tay sắt‖ với chế độ độc tài do ông ta tạo ra ở Philippin; sựra đi của Tổng thống Xuhactô sau 32 năm cầm quyền và sự lùi bước của phe quânsự trước phe dân sự ở Inđônêxia; hoặc các thế lực quan liêu, quân phiệt đã khôngngăn cản và đàn áp được các lực lượng dân sự và tiến bộ ở Thái Lan (điển hình là2―cuộc cách mạng của sinh viên‖ vào những năm 1973 – 1976, cũng như xu hướngdân sự hóa bộ máy Nhà nước ở Thái Lan hiện nay…).Bốn là, do tính phức tạp, đa dạng về sắc tộc, tôn giáo, cũng như sự phân hóa ngaytrong nội bộ giai cấp tư sản của các nước ASEAN và ảnh hưởng của nền dân chủphương Tây, nên các nước ASEAN (trừ Lào) đều có rất nhiều đảng phái chính trị(ví dụ: Inđônêxia có gần 100 đảng chính trị, Thái Lan có hàng trăm đảng phái khácnhau…). Nhưng thực tế cho thấy, ở những nước này chỉ có một hoặc liên minhmột số đảng nhất định cầm quyền. Ví dụ: Đảng Nhân dân hành động (PAP) là đảngduy nhất cầm quyền ở Xingapo liên tục từ năm 1959 đến nay; ở Malaixia, ĐảngDân tộc Mã Lai thống nhất (UMNO) cầm quyền suốt 40 năm qua,v.v.. Đây là điềukiện bảo đảm ổn định về chính trị và phát triển kinh tế – xã hội của đất nước ởnhững nước này trong những năm vừa qua, nhất là Xingapo.2. Về tổ chức bộ máy Nhà nước các nước ASEAN, các tác giả cũng nêu rõ hai đặcđiểm:Thứ nhất, do ảnh hưởng nguyên mẫu Nhà nước của các nước thực dân từng đô hộở các nước ASEAN, nên bộ máy Nhà nước của các nước này (trừ Brunây, Lào,Mianma), về cơ bản theo nguyên tắc phân quyền. Tùy theo hình thức chính thể củacác nước mà nội dung, tính chất và mức độ của nguyên tắc phân quyền được thểhiện khác nhau, thông qua các thiết chế của bộ máy Nhà nước. Ví dụ, Philippinvốn là thuộc địa kiểu mới của Mỹ nên ―sao chép‖ mô hình cộng hòa tổng thốngcủa nước Mỹ; nguyên tắc phân quyền của cộng hòa đại nghị Xingapo là theo chếđộ đại nghị của nước Anh, có sự cách tân phần nào chế định nguyên thủ quốc giabằng việc bầu cử trực tiếp Tổng thống…Thứ hai, về các thiết chế của bộ máy Nhà nước các nước ASEAN cũng có một sốđặc điểm khác với các nước. Chẳng hạn, về cơ quan đại diện quyền lực Nhà nướccao nhất của các nước ASEAN (nghị viện hay Quốc hội) thì trừ Lào và Xingapo,Quốc hội chỉ có một viện, còn đa số các nước như Campuchia, Inđônêxia,Malaixia, Philippin, Thái Lan, Quốc hội có hai viện, nhưng tên gọi, thẩm quyềncủa các viện này không hoàn toàn giống nhau (riêng Mianma và Brunây hiện naykhông có Quốc hội hoặc Nghị viện). Trong tổng số đại biểu Quốc hội của một sốnước ASEAN có những đại biểu không qua con đường bầu cử mà do được bổnhiệm hoặc chỉ định. Ví dụ, Nghị viện Malaixia có 40 Thượng Nghị sĩ do Quốcvương chỉ định; Quốc hội Inđônêxia có 38 đại biểu do quân đội cử, còn 425 đạibiểu do dân bầu. Nhiệm kỳ Quốc hội của các nước ASEAN thường là 5 năm, riêngPhilippin, Hạ nghị viện có nhiệm kỳ 3 năm, Thượng Nghị viện nhiệm kỳ là 6 năm,nhưng cứ 3 năm có một nửa số Thượng nghị sĩ (12/24) được bầu lại.3. Về nguyên thủ quốc gia ở các nước ASEAN, theo các tác giả, ở những nướctheo chính thể cộng hòa tổng thống (Philippin, Inđônêxia), do sự tồn tại của chủnghĩa tư bản gia đình (hay còn gọi là chủ nghĩa tư bản thân tín – ―Crony –Capitalism‖ ), Tổng thống là trung tâm quyền lực tập trung xung quanh mình3những người thân trong gia đình Tổng thống, bạn bè cũng như những thân hữu làcác quan chức địa phương, cảnh sát, quân đội và các nhà kinh doanh… Dựa vàomối quan hệ này mà Tổng thống duy trì địa vị của mình, ngược lại, tầng lớp thânthuộc này của Tổng thống cũng lại dựa vào quyền lực của Tổng thống để tồn tại,tham nhũng, kiếm lời bất chính. Ví dụ, thời kỳ Tổng thống Marcos cầm quyền từ1967 – 1983, hàng trăm nhân vật nhờ sự bảo trợ của Tổng thống trở nên giàu có,ngay cả cận vệ của Marcos là tướng Ver cũng được cất nhắc lên Bộ trưởng BộQuốc phòng, trở thành nhà tỉ phú ở Philippin. Hoặc Xuhactô đã sử dụng quyền lựctối cao của Tổng thống để ban phát cho con cháu và các thuộc hạ thân tín nắm giữnhiều tổ hợp công nghiệp, chi phối và kiểm soát các ngành kinh tế then chốt củađất nước (như: khai thác dầu mỏ, khí đốt, xe hơi, máy bay, ngân hàng, kinh doanhbất động sản…). Tài sản của Xuhactô và 6 người con hiện nay được ước tínhkhoảng 50 tỷ USD, 10 người cháu của Xuhactô cũng đang kiểm soát nhiều lĩnhvực kinh tế quan trọng với giá trị tài sản hàng chục triệu USD. Các tướng lĩnh vàthuộc hạ thân tín của Xuhactô cũng được ban phát nhiều đặc quyền, đặc lợi, v.v...Trong khi đó Inđônêxia hiện đang nợ nước ngoài khoảng 140 tỷ USD, nợ trongnước khoảng 60 tỷ USD.Ở những nước theo hình thức chính thể quân chủ lập hiến (Thái Lan, Malaixia,Campuchia, Mianma), khác với Vua các nước trên thế giới ―trị vì nhưng không caitrị‖, Vua hay Quốc vương của các nước này vẫn là ―trung tâm quyền lực‖. Ví dụ,Quốc vương Brunây kiêm cả Thủ tướng, Bộ trưởng Quốc phòng và kiêm cả Bộtrưởng Tài chính (từ năm 1998); hoặc vai trò và quyền lực thực tế của Vua TháiLan là rất lớn, lớn hơn nhiều so với quy định của Hiến pháp. Cuộc khủng hoảngchính trị tháng 5/1992 và cuối năm 1997 cho thấy các phe phái đều phải ―nghetheo lời khuyên của Vua‖. Việc nối ngôi ở các nước này cũng không theo nguyêntắc ―cha truyền con nối‖ như các nước khác trên thế giới mà có thể do bầu theonhiệm kỳ (Malaixia), hoặc do Hội đồng Hoàng gia cử chọn Quốc vương(Campuchia); hoặc ―vĩnh hằng‖ theo quy định của Hiến pháp (khoản 1, Điều 313Hiến pháp 1997 của Thái Lan).Câu 2: Về tổ chức bộ máy Nhà nước các nước ASEAN, có hai đặc điểm:Thứ nhất, do ảnh hưởng nguyên mẫu Nhà nước của các nước thực dân từng đô hộở các nước ASEAN, nên bộ máy Nhà nước của các nước này (trừ Brunây, Lào,Mianma), về cơ bản theo nguyên tắc phân quyền. Tùy theo hình thức chính thể củacác nước mà nội dung, tính chất và mức độ của nguyên tắc phân quyền được thểhiện khác nhau, thông qua các thiết chế của bộ máy Nhà nước. Ví dụ, Philippinvốn là thuộc địa kiểu mới của Mỹ nên ―sao chép‖ mô hình cộng hòa tổng thốngcủa nước Mỹ; nguyên tắc phân quyền của cộng hòa đại nghị Xingapo là theo chế4độ đại nghị của nước Anh, có sự cách tân phần nào chế định nguyên thủ quốc giabằng việc bầu cử trực tiếp Tổng thống…Thứ hai, về các thiết chế của bộ máy Nhà nước các nước ASEAN cũng có một sốđặc điểm khác với các nước. Chẳng hạn, về cơ quan đại diện quyền lực Nhà nướccao nhất của các nước ASEAN (nghị viện hay Quốc hội) thì trừ Lào và Xingapo,Quốc hội chỉ có một viện, còn đa số các nước như Campuchia, Inđônêxia,Malaixia, Philippin, Thái Lan, Quốc hội có hai viện, nhưng tên gọi, thẩm quyềncủa các viện này không hoàn toàn giống nhau (riêng Mianma và Brunây hiện naykhông có Quốc hội hoặc Nghị viện). Trong tổng số đại biểu Quốc hội của một sốnước ASEAN có những đại biểu không qua con đường bầu cử mà do được bổnhiệm hoặc chỉ định. Ví dụ, Nghị viện Malaixia có 40 Thượng Nghị sĩ do Quốcvương chỉ định; Quốc hội Inđônêxia có 38 đại biểu do quân đội cử, còn 425 đạibiểu do dân bầu. Nhiệm kỳ Quốc hội của các nước ASEAN thường là 5 năm, riêngPhilippin, Hạ nghị viện có nhiệm kỳ 3 năm, Thượng Nghị viện nhiệm kỳ là 6 năm,nhưng cứ 3 năm có một nửa số Thượng nghị sĩ (12/24) được bầu lại.3. Về nguyên thủ quốc gia ở các nước ASEAN, ở những nước theo chính thể cộnghòa tổng thống (Philippin, Inđônêxia), do sự tồn tại của chủ nghĩa tư bản gia đình(hay còn gọi là chủ nghĩa tư bản thân tín – ―Crony – Capitalism‖ ), Tổng thống làtrung tâm quyền lực tập trung xung quanh mình những người thân trong gia đìnhTổng thống, bạn bè cũng như những thân hữu là các quan chức địa phương, cảnhsát, quân đội và các nhà kinh doanh… Dựa vào mối quan hệ này mà Tổng thốngduy trì địa vị của mình, ngược lại, tầng lớp thân thuộc này của Tổng thống cũng lạidựa vào quyền lực của Tổng thống để tồn tại, tham nhũng, kiếm lời bất chính. Vídụ, thời kỳ Tổng thống Marcos cầm quyền từ 1967 – 1983, hàng trăm nhân vật nhờsự bảo trợ của Tổng thống trở nên giàu có, ngay cả cận vệ của Marcos là tướng Vercũng được cất nhắc lên Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, trở thành nhà tỉ phú ởPhilippin. Hoặc Xuhactô đã sử dụng quyền lực tối cao của Tổng thống để ban phátcho con cháu và các thuộc hạ thân tín nắm giữ nhiều tổ hợp công nghiệp, chi phốivà kiểm soát các ngành kinh tế then chốt của đất nước (như: khai thác dầu mỏ, khíđốt, xe hơi, máy bay, ngân hàng, kinh doanh bất động sản…). Tài sản của Xuhactôvà 6 người con hiện nay được ước tính khoảng 50 tỷ USD, 10 người cháu củaXuhactô cũng đang kiểm soát nhiều lĩnh vực kinh tế quan trọng với giá trị tài sảnhàng chục triệu USD. Các tướng lĩnh và thuộc hạ thân tín của Xuhactô cũng đượcban phát nhiều đặc quyền, đặc lợi, v.v... Trong khi đó Inđônêxia hiện đang nợ nướcngoài khoảng 140 tỷ USD, nợ trong nước khoảng 60 tỷ USD.Ở những nước theo hình thức chính thể quân chủ lập hiến (Thái Lan, Malaixia,Campuchia, Mianma), khác với Vua các nước trên thế giới ―trị vì nhưng không caitrị‖, Vua hay Quốc vương của các nước này vẫn là ―trung tâm quyền lực‖. Ví dụ,Quốc vương Brunây kiêm cả Thủ tướng, Bộ trưởng Quốc phòng và kiêm cả Bộtrưởng Tài chính (từ năm 1998); hoặc vai trò và quyền lực thực tế của Vua Thái5Lan là rất lớn, lớn hơn nhiều so với quy định của Hiến pháp. Cuộc khủng hoảngchính trị tháng 5/1992 và cuối năm 1997 cho thấy các phe phái đều phải ―nghetheo lời khuyên của Vua‖. Việc nối ngôi ở các nước này cũng không theo nguyêntắc ―cha truyền con nối‖ như các nước khác trên thế giới mà có thể do bầu theonhiệm kỳ (Malaixia), hoặc do Hội đồng Hoàng gia cử chọn Quốc vương(Campuchia); hoặc ―vĩnh hằng‖ theo quy định của Hiến pháp (khoản 1, Điều 313Hiến pháp 1997 của Thái Lan).4. Về cơ quan hành pháp các nước ASEAN, các tác giả cho rằng, dù theo hình thứcchính thể nào thì ở các nước ASEAN, hành pháp vẫn là trung tâm của quyền lựcNhà nước và thuộc về Chính phủ. Hành pháp có thể do Tổng thống đứng đầu(Inđônêxia, Philippin), có thể do Thủ tướng đứng đầu (Thái Lan, Malaixia,Campuchia, Lào). Thực tiễn những năm gần đây cho thấy, mô hình hành pháp củachế độ cộng hòa đại nghị hay quân chủ đại nghị (Malaixia, Xingapo) có khả năngổn định và phát triển đất nước hơn, tránh được sự đối đầu giữa hành pháp với lậppháp như tại Inđônêxia, Philippin.Riêng ở Thái Lan, do có quá nhiều đảng phái chính trị (hàng trăm đảng phái) và dothế lực quân phiệt Thái Lan cố tình dùng quyền lực của mình để đàn áp phong tràodân chủ và thanh trừng lẫn nhau, nên trong 66 năm (từ sau Cách mạng tư sản năm1932 – 1998), Thái Lan đã trải qua 33 cuộc đảo chính, bình quân cứ 2 năm lại cómột cuộc đảo chính thay đổi chính phủ.5. Về cơ quan tư pháp các nước ASEAN,cho biết Tòa án các nước ASEAN tổ chứcvà hoạt động theo nguyên tắc tư pháp độc lập khi xét xử, áp dụng chế độ thẩmphán chuyên nghiệp và bổ nhiệm Thẩm phán theo nhiệm kỳ dài. Hầu hết các nướcASEAN (trừ Lào), Tòa án tổ chức theo nguyên tắc thẩm quyền xét xử chứ khôngtheo đơn vị hành chính – lãnh thổ tương ứng với cấp chính quyền địa phương. Mộtsố nước (Malaixia), Tòa án tối cao có thẩm quyền của Tòa án Hiến pháp theo môhình tòa án tối cao của Nhật Bản, Mỹ… Ở một số nước, đạo Hồi được coi là Quốcgiáo (Malaixia, Inđônêxia), ngoài Tòa án tư pháp, thường còn có Tòa án tôn giáoxét xử theo Luật Hồi giáo.6. Về chính quyền địa phương của các nước ASEAN, cơ bản được tổ chức và hoạtđộng theo nguyên tắc kết hợp giữa tập quyền và tản quyền, giữa tập trung với phitập trung và tự quản. Xuất phát từ đặc điểm địa lý, sắc tộc và diện tích quá rộng vớihơn chục nghìn hòn đảo…, nên Nhà nước Inđônêxia tổ chức chính quyền trungương theo nguyên tắc tập trung cao độ trong mối quan hệ với chính quyền các địaphương. Phần lớn các nước ASEAN, cơ quan hành chính ở cấp tỉnh, cấp huyện dochính quyền trung ương và cấp trên bổ nhiệm. Ở cấp xã, làng áp dụng chế độ tựquản, có Hội đồng và Xã trưởng, Làng trưởng do dân bầu trực tiếp hoặc gián tiếp.Malaixia có Hội đồng địa phương nhưng không áp dụng chế độ bầu cử mà dochính quyền cấp trên bổ nhiệm. Ở Lào, chính quyền địa phương chỉ có cơ quanhành chính do cấp trên bổ nhiệm, không có cơ quan dân cử ở tất cả các cấp.6Xingapo do diện tích nhỏ nên cả nước chia làm 4 khu nhưng không tổ chức chínhquyền địa phương như các nước khác.Ở nước ta, những năm qua có khá nhiều công trình nghiên cứu về các nướcASEAN của các ngành khoa học dưới các khía cạnh và mức độ khác nhau. Nhưngcó thể nói rằng, cho đến nay, ở Việt Nam chưa có một công trình khoa học nàonghiên cứu một cách cơ bản, có tính hệ thống Luật Hiến pháp các nước ASEANnói chung và thể chế chính trị và tổ chức bộ máy Nhà nước của các nước ASEANnói riêng. Vì vậy, có thể nói rằng, đây là chuyên khảo đầu tiên ở Việt Nam nghiêncứu một cách cơ bản, bao quát và cụ thể về thể chế chính trị và tổ chức bộ máyNhà nước các nước ASEAN dưới giác độ và phương pháp nghiên cứu của Luậthiến pháp nước ngoài.Câu 3. Tổng quan về nguồn pháp luật của tất cả các quốc gia thuộc ASEANTrả lờiMỗi quốc gia ASEAN với những đặc điểm riêng về lịch sử, truyền thống, địa lí,thành phần dân cư, trình độ phát triển kinh tế, chính trị, tôn giáo... là nền tảng tạonên sự đa dạng về xã hội và hệ thống pháp luật cho khu vực này. Tuy nhiên, trongsự đa dạng đó vẫn có những điểm tương đồng nhất định. Sự giao lưu và tiếp biếngiữa các nền văn hoá, những điểm tương đồng về lịch sử, truyền thống dân tộc củacác quốc gia trong khu vực đã tạo điều kiện thuận lợi cho các hệ thống pháp luật ởkhu vực này có những điểm giống nhau. Hơn thế, chúng ta không chỉ tìm thấynhiều điểm tương đồng giữa các hệ thống pháp luật này mà còn tìm thấy nhiềuđiểm tương đồng giữa chúng với các hệ thống pháp luật bên ngoài khu vực ĐôngNam Á.Nếu dựa vào cách phân loại của các học giả luật so sánh trên thế giới,chúng ta sẽ thấy việc xác định dòng họ của các hệ thống pháp luật ở các nướcASEAN khá thú vị Theo đó, phần lớn hệ thống pháp luật của các quốc gia nàychứa đựng các yếu tố của hai hoặc nhiều dòng họ pháp luật. Nói cách khác, phápluật các nước ASEAN chứa đựng tất cả những yếu tố của các dòng họ của các hệthống pháp luật trên thế giới.1.Dòng họ Civil 1aw ở các nước ASEANCivil law được tiếp nhận ở nhiều nước ASEAN chủ yếu gắn liền với quá trình xâmchiếm thuộc địa của các nước châu âu lục địa đối với các quốc gia này. Trừ TháiLan, luật chịu ảnh hưởng của dòng họ Civil law là Việt Nam, Lào, Campuchia,Indonesia và Philippines đều đã từng là thuộc địa của các nước thuộc lục địa châuâu là Pháp, Hà Lan, Tây Ban Nha.Việt Nam, Lào và Campuchia là những nước thuộc địa của Pháp trong thời giandài trước khi giành được độc lập. Chính sách thuộc địa của Pháp ở Đông Dương đãlàm cho hệ thống pháp luật của ba nước này tiếp nhận pháp luật của Pháp theo7cách thức bắt buộc. Chẳng hạn, ở Việt Nam trong thời kì Pháp thuộc, bên cạnh hệthống pháp luật của các hoàng đế Nam triều, các toà án của Pháp vẫn áp dụng phápluật của Pháp đối với "người Pháp và những ngoại kiều được biệt đãi như ngườiPháp, người Việt Nam sinh ra ởvùng đất thuộc địa dù đang sống ở đâu trên đấtViệt Nam".Ngay cả sau khi đã giành được độc lập và thậm chí đã xây dựng hệthống pháp luật theo mô hình pháp luật XHCN như ở Việt Nam và Lào, nhữngnhân tố của hệ thống pháp luật Pháp về kỹ thuật pháp lí, hệ thống khái niệm cơ bảnvà cấu trúc của pháp luật vẫn tiếp tục được duy trì. Indonesia là quốc gia trong khuvực nằm dưới sự cai trị của Hà Lan hơn 300 năm (từ cuối thế kỉ XVI đến cuối thếkỉ XVIII). Người Hà Lan tiến hành thuộc địa hoá quần đảo Indonesia lần đầu trongkhoảng 200 năm. Sau đó vùng đất này được chuyển giao cho người Pháp khi quânđội của Napoleọn Bonaparte lật đổ chính phủ Hà Lan. Sau gần 10 năm dưới sự caitrị của người Pháp và 4 năm dưới sự cai trị của người Anh đầu thế kỉ XIX,Indonesia lại chịu sự kiểm soát của Hà Lan lần thứ hai trong suốt hơn 100 năm(1816- 1942) đến khi quân đội Nhật Bản xâm chiếm vùng đất này trong Đại chiếnthế giới lần thứ II. Quá trình thuộc địa hoá của các nước này đã làm cho pháp luậtlndonesia bị ảnh hưởng mạnh mẽ bởi pháp luật Châu Âu lục địa, đặc biệt là phápluật của Hà Lan. Nhiều đạo luật của Indonesia được xây dựng dựa vào luật của HàLan, chẳng hạn pháp luật thương mại của Indonesia chịu ảnh hưởng rất lớn từ Bộluật thương mại năm 1847 của Hà Lan.Gần 4 thế kỉ (từ năm 1521 đến 1898 là thuộc địa của người Tây Ban Nha đã làmcho hệ thống pháp luật Philippines chịu ảnh hưởng mạnh mẽ bởi civil law của hệthống pháp luật châu âu lục địa. Pháp luật của Tây Ban Nha đã được áp dụng ởPhilippines thông qua các sắc lệnh của Hoàng gia Tây Ban Nha hoặc thông quaviệc ban hành các đạo luật dành riêng cho quần đảo này hoặc các đạo luật được ápdụng chúng cho tất cả các vùng thuộc địa của Tây Ban Nha. Nhiều bộ luật của TâyBan Nha có hiệu lực ở Philippines như Bộ luật hình sự năm 1870, Bộ luật thươngmại năm 1886 , Luật về hôn nhân năm 1870... Thái Lan là quốc gia duy nhất trongcác nước ASEAN không trải qua chế độ thuộc địa. Tuy nhiên, trong suốt thế kỉXIX, để duy trì chủ quyền lãnh thổ của mình, Thái Lan đã kí kết hàng loạt cáchiệp định song phương với các quốc gia phương Tây nhằm phát triển quan hệthương mại. Các hiệp định song phương này đã giúp cho Thái Lan mở cửa thịtrường với các nước phương Tây. Sự thay đổi về thương mại đã kéo theo sự thayđổi về xã hội và pháp luật. Vì thế, hệ thống pháp luật Thái Lan bị ảnh hưởng mạnhmẽ bởi pháp luật các nước phương Tây, đặc biệt là pháp luật của Châu Âu lục địa.Đầu thế kỉ XX, Thái Lan tiến hành cải cách hệ thống pháp luật và tư pháp. NgườiThái đã tiếp nhận hệ thống triết lí pháp luật, tổ chức toà án và tố tụng của pháp luậtChâu Âu và xem pháp luật của Pháp, Đức, Thụy Sĩ, Anh, Ý và Nhật Bản là nhữngmô hình cho việc xây dựng pháp luật của mình. Hàng loạt các bộ luật của TháiLan đã được ban hành theo mô hình pháp luật của các nước này như Bộ luật hình8sự năm 1908, Bộ luật dân sự và thương mại năm 1925; Bộ luật tố tụng dân sự năm1933, Bộ luật tố tụng hình sự năm 1935.2. Dòng họ Common 1aw ở các nước ASEANCác nước ASEAN có hệ thống pháp luật chịu ảnh hưởng của dòng họ Commonlaw bao gồm: Malaysia, Singapore, Brunei, Myanmar, Philippines. Giống nhưnhiều quốc gia và vùng lãnh thổ khác trên thế giới, sự ảnh hưởng của Common lawở các quốc gia Đông Nam Á chủ yếu gắn liền với quá trình thuộc địa hoá của Anhhoặc sự ảnh hưởng của Mỹ.Quá trình thuộc địa hoá của Anh đối với các vùng lãnh thổ của Malaysia đã tạođiều kiện cho pháp luật Anh được áp dụng ở đây.Năm 1786 người Anh thiết lậpđược sự kiểm soát đầu tiên ở Penang - vùng lãnh thổ khá rộng lớn củaMalaysia.Sau đó, người Anh đã từng bước thực hiện sự kiểm soát đối với các vùngđất khác.Các hiệp ước được ki kết giữa Anh và Hà Lan (năm 1824 và năm 1891)cùng với những hiệp ước được Anh kí với các vương quốc Hồi giáo khác ở vùngđất này đã giúp cho người Anh dần kiểm soát được toàn bộ các vùng lãnh thổ củaMalaysia. Gắn liền với quá trình kiểm soát các vùng lãnh thổ của Malaysia, phápluật của Anh được tiếp nhận vào Malaysia bằng nhiều hình thức khác nhau mà chủyếu là thông qua các thẩm phán và các nhà lập pháp. Theo đó, các thẩm phán ápdụng các nguyên tắc pháp luật của Anh trong quá trình xét xử vụ việc, các nhà làmluật khi soạn thảo và ban hành các đạo luật đã đưa các nguyên tắc pháp luật đãđược các thẩm phán áp dụng vào trong các đạo luật.Ngoài ra, việc các luật giađược đào tạo theo truyền thống của Anh và tiếng Anh được xem là ngôn ngữ phổbiến trong hoạt động của bộ máy nhà nước cũng là những nhân tố làm choMalaysia dễ dàng tiếp nhận pháp luật Anh. Hệ thống pháp luật của Singaporẹ,mang những đặc điểm của hệ thống pháp luật Common law bắt nguồn từ lịch sửcủa quốc gia này.Từ năm 1919, Singapore bắt đầu chịu ảnh hưởng của pháp luậtAnh. Trước khi Văn phòng thuộc địa của Anh ở London kiểm soát hoàn toàn vùnglãnh thổ Singapore năm 1867, quốc đảo này đã nằm dưới sự kiểm soát của chínhquyền thuộc địa Anh ở vùng Bengalvà chính quyền Ấn Độ (lãnh thổ thuộc địa củaAnh). Vì thế, hệ thống pháp luật Anh đã được tiếp nhận bằng cả 2 cách trực tiếp vàgián tiếp vào hệ thống pháp luật singapore. Mặc dù, trong Tuyên bố thứ hai về nềntư pháp của Hoàng gia Anh ngày 27/11/1826 liên quan đến việc giải tán các toà áncó thẩm quyền xét xử ở Penang và thành lập toà án mới có thẩm quyền xét xử đốivới toàn bộ Vùng thuộc địa eo biển trong đó có Singapore, không có điều khoảnxác định pháp luật nào sẽ được Toà án của Vùng thuộc địa eo biển áp dụng nhưngdựa vào các phán quyết của Toà án này, từ năm 1835 đến năm 1890, các luật giacủa Singapore đã xác định rằng tất cả các luật của Anh bao gồm common law, luậtcông bình và luật thành văn có hiệu lực ở Anh ngày 27/11/1826 sẽ được áp dụng ởSingapore. Ngay cả khi đã trở thành quốc gia độc lập năm 1963, Singapore vẫntiếp nhận pháp luật của Anh theo cách riêng của mình. Ngoài common law, nhiều9đạo luật của Anh vẫn được áp dụng ở Singapore với những điều kiện nhất định.Điều 5 Luật dân sự Singapore ban hành năm 1970 thay thế cho Sắc lệnh năm 1809đã xác định một số lĩnh vực thương mại như công ti, ngân hàng, bảo hiểm hànghải... của Singapore sẽ áp dụng pháp luật của Anh; Bộ luật tố tụng hình sự củaSingapore cũng xác định pháp luật của Anh trong những trường hợp nhất định vẫntiếp tục được áp dụng ở Singapore. Ngày 12/11/1993, Nghị viện Singapore đã banhành Luật về áp dụng pháp luật Anh. Luật này quy định cụ thể những đạo luật củaAnh, common law và các nguyên tắc công bình của Anh sẽ được áp dụng ởSingapore với điều kiện các luật đó phù hợp với hoàn cảnh của Singapore.Brunei bắt đầu chịu ảnh hưởng mạnh mẽ hệ thống pháp luật Anh từ năm 1888 khiQuốc vương của Brunei lúc đó là Hashim Jalilul Alam Aqamaddin kí hiệp ước vớichính quyền Anh đặt Brunei dưới sự bảo trợ của Anh mặc dù trước đó, Anh vàBrunei đã có nhiều hiệp ước khác nhau. Đến năm 1908, một văn bản được Anhban hành để sửa đồi các quy định liên quan đến tổ chức và thẩm quyền của các toàán dân sự và hình sự cũng như luật về tố tụng được áp dụng ở Brunei. Điều này đãlàm cho hệ thống pháp luật Anh có ảnh hưởng ngày càng mạnh mẽ đến Brunei.Ngày nay, theo Luật áp dụng của Brunei được ban hành năm 1951, sửa đổi năm1984 và 2009 vẫn xác định Brunei tiếp tục áp dụng common law, luật công bình vàcác luật thành văn được áp dụng chung của Anh nếu chúng không trái với điềukiện và hoàn cảnh của Brunei.Như vậy, cả trong lịch sử và hiện tại, hệ thống phápluật Brunei chịu ảnh hưởng rất lớn của hệ thống pháp luật Anh.Hệ thống pháp luật Myanmar bắt đầu chịu ảnh hưởng mạnh mẽ bởi common lawcủa Anh từ năm 1824 khi kết thúc cuộc chiến tranh lần thứ nhất giữa Anh vàMyanmar (khi đó quốc gia này có tên là Burma). Sau cuộc chiến tranh này, haivùng lãnh thổ của Myanmar là Rakhine và Taninthayi bị người Anh thôn tính vànằm dưới sự kiểm soát của Anh.Sau cuộc chiến tranh lần thứ hai với Myanmarnăm 1852, người Anh kiểm soát thêm hai vùng lãnh thổ khác là Bang và Moat-tama. Để cai quản vùng đất đã chiếm được người Anh xây dựng hệ thống quản lí củaAnh và các quy định của pháp luật Anh được áp dụng trong việc quản lí thành phốnơi có cung điện triều đại vua cuối cùng của Myanmar.Đến năm 1886 , toàn bộ cácvùng lãnh thổ của Myanmar nằm trong sự kiểm soát của người Anh và để cai quảnvùng đất này, người Anh đã xác lập Myanmar thành một tỉnh của Ấn Độ (khi đó làvùng thuộc địa của Anh) dưới sự kiểm soát của Toàn quyền Ấn Độ. Pháp luật Anhở Ấn Độ đã được áp dụng đối với "tỉnh" Myanmar. Tình trạng này kéo dài đếnnăm 1935 khi Myanmar được tách khỏi án Độ và chính quyền thuộc địa Anh thiếtlập Myanmar trở thành vùng lãnh thổ thuộc quyền cai tư trực tiếp của Anh thôngqua Toàn quyền ở Myanmar. Myanmar là thuộc địa của Anh cho đến khi giànhđược độc lập năm 1948.Trong thời kì này, giống như nhiều vùng thuộc địa kháccủa Anh, Hội đồng cơ mật (Privy Council) được xem là cơ quan xét xử cao nhấtcủa Myanmar.Vì thế, các phán quyết của cơ quan này ảnh hưởng mạnh mẽ đến10pháp luật của Myanmar. Sự ảnh hưởng của hệ thống pháp luật Anh trong suốt thờikì từ nửa đầu thế kỉ XIX đã làm cho các nhân tố của common law thẩm thấu vàohệ thống pháp luật của Myanmar trong quá trình phát triển lịch sử của nó cho đếnngày nay.Sự kiểm soát của Mỹ đối với quần đảo Philippines theo hiệp ước Tây Ban Nha vàMỹ được kí kết tại Paris ngày 10/12/1898 đã từng bước làm thay đổi hệ thốngpháp luật của Philippines cho dù trước đó, hệ thống pháp luật của Tây Ban Nha đãcó ảnh hưởng khá sâu sắc với hệ thống pháp luật của nước này. Các luật lệ củangười Philippines dần dần bị bãi bỏ, pháp luật của Tây Ban Nha đối với vùng lãnhthổ này cùng với các tập quán ở đây cũng bị thay thế nếu các quy định của nó tráivới Hiến pháp Mỹ, các nguyên tắc pháp luật và các thể chế của Mỹ. Hàng loạt cácđạo luật về tổ chức nhà nước được ban hành... Sự kiểm soát của Mỹ đối vớiPhilippines đã làm cho hệ thống pháp luật của nước này chịu ảnh hưởng của hệthống pháp luật Mỹ. Những nhân tố cơ bản của dòng họ Common law đã từngbước được tiếp nhận vào hệ thống pháp luật Philipines. Việc áp dụng án lệ, vai tròcủa Hiến pháp Philippínes có những điểm rất tương đồng với hệ thống pháp luậtMỹ ngoài những đặc tính của hệ thống pháp luật Tây Ban Nha đã được tiếp nhậnởnước này trong suốt gần 400 năm trước đó năm dưới sự cai trị của người Tây BanNha.3. Dòng họ pháp luật xã hội chủ nghĩa ở các nước ASEANDòng họ pháp luật XHCN cũng hiện diện trong các nước ASEAN ngay sau Đạichiến thế giới lần thứ II.Ngoài Việt Nam và Lào, hai hệ thống pháp luật khác làMyanmar và Indonesia cũng đã có những nhân tố nhất định của dòng họ pháp luậtXHCN trong lịch sử phát triển của mình.Việt Nam được xem là đại diện điển hình của hệ thống pháp luật XHCN đã vàđang tồn tại ở Đông Nam Á. Sau khi giành được độc lập từ năm 1945 và đặc biệt làsau chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954, Việt Nam đã bắt đầu xây dựng mô hìnhhệ thống pháp luật XHCN ở miền Bắc với việc học tập mô hình pháp luật của LiênXô và các nước XHCN ở giai đoạn này, "cùng với sự kế thừa pháp luật thời chiếncủa giai đoạn trước với một vài nhân tố chịu ảnh hưởng của Pháp, tư tưởng phápluật XHCN và mô hình pháp luật XHCN từng bước được áp dụng trong công cuộcxây dựng chú nghĩa xã hội ở miền Bắc".Quan điểm xây dựng hệ thống pháp luậtXHCN tiếp tục được thực hiện sau khi hoàn thành công cuộc thống nhất đất nướcvề mặt lãnh thổ.Hệ thống pháp luật của Lào có rất nhiều điểm tương đồng với hệ thống pháp luậtViệt Nam. Đặc biệt từ năm 1975, sau khi chế độ dân chủ nhân dân được xây dựngthay thế cho chế độ quân chủ trước đó, hệ thống pháp luật của Lào được xây dựngtheo mô hình pháp luật của Liên Xô và của Việt Nam. Cuối những năm 80 và đầu90 của thế kỉ trước Nhà nước Lào đã thực hiện chính sách cải cách trong đó có cảicách hệ thống pháp luật. Tuy vậy, những nhân tố cơ bản của hệ thống pháp luật11XHCN vẫn được duy trì trong hệ thống pháp luật của Cộng hoà dân chủ nhân dânLào.Những cải cách pháp luật của Lào trong giai đoạn vừa qua cũng được thựchiện trên cơ sở kinh nghiệm cải cách pháp luật của Việt Nam.Trong lịch sử phát triển của Myanmar, sau khi giành được độc lập kể từ năm 1948,thời kì từ năm 1962 đến năm 1988, các nhà lãnh đạo Myanmar chủ trương xâydựng mô hình XHCN cho quốc gia này. Mặc dù không giống hoàn toàn với các hệthống pháp luật XHCN khác nhưng nhiều chính sách của chính phủ mà đứng đầulà Tướng Ne Win đã được thực hiện theo mô hình pháp luật XHCN. Theo đó,Tướng Ne Win đã tạo ra hệ thống chính trị được gọi là "Con đường lên chủ nghĩaxã hội của Burma", nhà nước pháp quyền mới được xây dựng theo hệ tư tưởngXHCN.Dưới sự lãnh đạo của Đảng Chương trình XHCN Bunna, hệ thống thươngmại và công nghiệp của Burma đã được quốc hữu hoá Điều này đã được thể hiệntrong quá trình phát triển của hệ thống pháp luật nước này. Từ năm 1962- 1974 đãcó 182 đạo luật được ban hành. ―Trong thời kì này, các đạo luật không phù hợp vớichế độ XHCN đã bị bãi bỏ và các đạo luật góp phần cho định hướng của chế độ đãđược ban hành”.Đáng chú ý là Luật phòng chống sự vi phạm việc thiết lập hệthống kinh tế XHCN năm 1964 và Luật trao quyền thành lập hệ thống kinh tếXHCN năm 1965.Trong Lời nói đầu và Điều 1 Hiến pháp năm 1974 của Myanmarkhẳng định rõ Myanmar là nhà nước XHCN và đặt dưới sự lãnh đạo của ĐảngChương trình XHCN Myanmar. Indonesia dưới thời kì lãnh đạo của Sukamo (1957 - 1965) cũng tiếp nhận những quan điểm nhất định của hệ thống pháp luậtXHCN. Đặc biệt, Tống thống Sukamo sau cuộc viếng thăm Trung Quốc tháng10/1956 đã tuyên bố khái niệm về chính quyền mới.Theo đó, chính quyền của ônglà sự kết hợp của ba nhân tố: chủ nghĩa dân tộc, tôn giáo và chủ nghĩa cộng sản.Đảng cộng sản Indonesia, Đảng dân tộc Indonesia đã ủng hộ mạnh mẽ quan niệmnày.Mặc dù, Đảng chính trị Hồi giáo phản đối nhưng với sự hỗ trợ của lực lượngquân đội, ông đã từng bước xây dựng chính quyền của mình. Cùng với việc xâydựng chính quyền theo quan điểm của mình, Tổng thống Sukamo với sự ủng hộcủa Đảng cộng sản đã thực hiện nhiều chính sách pháp luật XHCN ở Indonesiatrong thời kì này. Chính quyền và chính sách pháp luật của Sukamo chấm dứt cùngvới việc lên nắm quyền của Tổng thống Suharto từ năm 1967.4. Luật Hồi giáo ở các nước ASEANĐa số các học giả hiện đại cho rằng đạo Hồi xuất hiện ở khu vực Đông Nam Á từkhoảng cuối thế kỉ XII đầu thế kỉ XIV.Những quốc gia có nhiều cư dân Hồi giáo làIndonesia Malaysia, Philippines, Brunei, Singapore và Thái Lan. Sự xuất hiện củađạo Hồi đã có ảnh hưởng rất lớn đối với sự phát triển pháp luật của các quốc giatrong khu vực này. Các hệ thống pháp luật của các nước ASEAN chịu ảnh hưởngcủa Luật Hồi giáo bao gồm: Malaysia, Indonesia, Brunei, Thái Lan, Philippines. Ởcác quốc gia này, cộng đồng Hồi giáo có hệ thống luật lệ riêng, ―hầu hết các hệthống pháp luật, thậm chí, Thái Lan, Philippines, Singapore-những nước không có12đa số người Hồi giáo, vẫn coi luật Hồi giáo như là hệ thống pháp luậttách biệt".Nhiều quốc gia đã thành lập các toà án Hồi giáo riêng biệt để xét xử cáctranh chấp của các tín đồ Hồi giáo như Malaysia, Indonesia, Brunei đối với cáclĩnh vực được luật Hồi giáo quy định. Trong khi đó ở Thái Lan, các vụ việc có liênquan đến tín đồ Hồi giáo thường được xét xử bởi các thẩm phán thường cùng vớimột thẩm phán Hồi giáo (Datoh Yutithum).Những điểm khái quát nêu trên cho thấy tính đa dạng của pháp luật ở các nướcASEAN.Trong hệ thống pháp luật của mỗi quốc gia đều chứa đựng những yếu tốpháp luật của ít nhất hai dòng họ pháp luật khác nhau.Những điểm khái quát ở trêncũng cho thấy sự hiện diện của các dòng họ pháp luật cơ bản trên thế giới trongpháp luật của 10 nước khu vực Đông Nam Á là thành viên của ASEAN. Sự đadạng pháp luật này cũng sẽ là một thách thức khá lớn đối với các luật gia khi cácquốc gia này tiến tới một Cộng đồng các quốc gia Đông Nam Á./.Câu 4: Về tổ chức bộ máy Nhà nước các nước ASEANThứ nhất, do ảnh hưởng nguyên mẫu Nhà nước của các nước thực dân từng đô hộở các nước ASEAN, nên bộ máy Nhà nước của các nước này (trừ Brunây, Lào,Mianma), về cơ bản theo nguyên tắc phân quyền. Tùy theo hình thức chính thể củacác nước mà nội dung, tính chất và mức độ của nguyên tắc phân quyền được thểhiện khác nhau, thông qua các thiết chế của bộ máy Nhà nước. Ví dụ, Philippinvốn là thuộc địa kiểu mới của Mỹ nên ―sao chép‖ mô hình cộng hòa tổng thốngcủa nước Mỹ; nguyên tắc phân quyền của cộng hòa đại nghị Xingapo là theo chếđộ đại nghị của nước Anh, có sự cách tân phần nào chế định nguyên thủ quốc giabằngviệcbầucửtrựctiếpTổngthống…Thứ hai, về các thiết chế của bộ máy Nhà nước các nước ASEAN cũng có một sốđặc điểm khác với các nước. Chẳng hạn, về cơ quan đại diện quyền lực Nhà nướccao nhất của các nước ASEAN (nghị viện hay Quốc hội) thì trừ Lào và Xingapo,Quốc hội chỉ có một viện, còn đa số các nước như Campuchia, Inđônêxia,Malaixia, Philippin, Thái Lan, Quốc hội có hai viện, nhưng tên gọi, thẩm quyềncủa các viện này không hoàn toàn giống nhau (riêng Mianma và Brunây hiện naykhông có Quốc hội hoặc Nghị viện). Trong tổng số đại biểu Quốc hội của một sốnước ASEAN có những đại biểu không qua con đường bầu cử mà do được bổnhiệm hoặc chỉ định. Ví dụ, Nghị viện Malaixia có 40 Thượng Nghị sĩ do Quốcvương chỉ định; Quốc hội Inđônêxia có 38 đại biểu do quân đội cử, còn 425 đạibiểu do dân bầu. Nhiệm kỳ Quốc hội của các nước ASEAN thường là 5 năm, riêngPhilippin, Hạ nghị viện có nhiệm kỳ 3 năm, Thượng Nghị viện nhiệm kỳ là 6 năm,nhưng cứ 3 năm có một nửa số Thượng nghị sĩ (12/24) được bầu lại.13Về nguyên thủ quốc gia ở các nước ASEAN, ở những nước theo chính thể cộnghòa tổng thống (Philippin, Inđônêxia), do sự tồn tại của chủ nghĩa tư bản gia đình(hay còn gọi là chủ nghĩa tư bản thân tín – ―Crony – Capitalism‖ ), Tổng thống làtrung tâm quyền lực tập trung xung quanh mình những người thân trong gia đìnhTổng thống, bạn bè cũng như những thân hữu là các quan chức địa phương, cảnhsát, quân đội và các nhà kinh doanh… Dựa vào mối quan hệ này mà Tổng thốngduy trì địa vị của mình, ngược lại, tầng lớp thân thuộc này của Tổng thống cũng lạidựa vào quyền lực của Tổng thống để tồn tại, tham nhũng, kiếm lời bất chính. Vídụ, thời kỳ Tổng thống Marcos cầm quyền từ 1967 – 1983, hàng trăm nhân vật nhờsự bảo trợ của Tổng thống trở nên giàu có, ngay cả cận vệ của Marcos là tướng Vercũng được cất nhắc lên Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, trở thành nhà tỉ phú ởPhilippin. Hoặc Xuhactô đã sử dụng quyền lực tối cao của Tổng thống để ban phátcho con cháu và các thuộc hạ thân tín nắm giữ nhiều tổ hợp công nghiệp, chi phốivà kiểm soát các ngành kinh tế then chốt của đất nước (như: khai thác dầu mỏ, khíđốt, xe hơi, máy bay, ngân hàng, kinh doanh bất động sản…).Ở những nước theo hình thức chính thể quân chủ lập hiến (Thái Lan, Malaixia,Campuchia, Mianma), khác với Vua các nước trên thế giới ―trị vì nhưng không caitrị‖, Vua hay Quốc vương của các nước này vẫn là ―trung tâm quyền lực‖. Ví dụ,Quốc vương Brunây kiêm cả Thủ tướng, Bộ trưởng Quốc phòng và kiêm cả Bộtrưởng Tài chính (từ năm 1998); hoặc vai trò và quyền lực thực tế của Vua TháiLan là rất lớn, lớn hơn nhiều so với quy định của Hiến pháp. Cuộc khủng hoảngchính trị tháng 5/1992 và cuối năm 1997 cho thấy các phe phái đều phải ―nghetheo lời khuyên của Vua‖. Việc nối ngôi ở các nước này cũng không theo nguyêntắc ―cha truyền con nối‖ như các nước khác trên thế giới mà có thể do bầu theonhiệm kỳ (Malaixia), hoặc do Hội đồng Hoàng gia cử chọn Quốc vương(Campuchia); hoặc ―vĩnh hằng‖ theo quy định của Hiến pháp (khoản 1, Điều 313Hiếnpháp1997củaTháiLan).Về cơ quan hành pháp các nước ASEAN, dù theo hình thức chính thể nào thì ởcác nước ASEAN, hành pháp vẫn là trung tâm của quyền lực Nhà nước và thuộcvề Chính phủ. Hành pháp có thể do Tổng thống đứng đầu (Inđônêxia, Philippin),có thể do Thủ tướng đứng đầu (Thái Lan, Malaixia, Campuchia, Lào). Thực tiễnnhững năm gần đây cho thấy, mô hình hành pháp của chế độ cộng hòa đại nghị hayquân chủ đại nghị (Malaixia, Xingapo) có khả năng ổn định và phát triển đất nướchơn, tránh được sự đối đầu giữa hành pháp với lập pháp như tại Inđônêxia,Philippin.Riêng ở Thái Lan, do có quá nhiều đảng phái chính trị (hàng trăm đảng phái) và dothế lực quân phiệt Thái Lan cố tình dùng quyền lực của mình để đàn áp phong tràodân chủ và thanh trừng lẫn nhau, nên trong 66 năm (từ sau Cách mạng tư sản năm1932 – 1998), Thái Lan đã trải qua 33 cuộc đảo chính, bình quân cứ 2 năm lại cómộtcuộcđảochínhthayđổichínhphủ.14Về cơ quan tư pháp các nước ASEAN, Tòa án các nước ASEAN tổ chức và hoạtđộng theo nguyên tắc tư pháp độc lập khi xét xử, áp dụng chế độ thẩm phánchuyên nghiệp và bổ nhiệm Thẩm phán theo nhiệm kỳ dài. Hầu hết các nướcASEAN (trừ Lào), Tòa án tổ chức theo nguyên tắc thẩm quyền xét xử chứ khôngtheo đơn vị hành chính – lãnh thổ tương ứng với cấp chính quyền địa phương. Mộtsố nước (Malaixia), Tòa án tối cao có thẩm quyền của Tòa án Hiến pháp theo môhình tòa án tối cao của Nhật Bản, Mỹ… Ở một số nước, đạo Hồi được coi là Quốcgiáo (Malaixia, Inđônêxia), ngoài Tòa án tư pháp, thường còn có Tòa án tôn giáoxétxửtheoLuậtHồigiáo.Về chính quyền địa phương của các nước ASEAN, cơ bản được tổ chức và hoạtđộng theo nguyên tắc kết hợp giữa tập quyền và tản quyền, giữa tập trung với phitập trung và tự quản. Xuất phát từ đặc điểm địa lý, sắc tộc và diện tích quá rộng vớihơn chục nghìn hòn đảo…, nên Nhà nước Inđônêxia tổ chức chính quyền trungương theo nguyên tắc tập trung cao độ trong mối quan hệ với chính quyền các địaphương. Phần lớn các nước ASEAN, cơ quan hành chính ở cấp tỉnh, cấp huyện dochính quyền trung ương và cấp trên bổ nhiệm. Ở cấp xã, làng áp dụng chế độ tựquản, có Hội đồng và Xã trưởng, Làng trưởng do dân bầu trực tiếp hoặc gián tiếp.Malaixia có Hội đồng địa phương nhưng không áp dụng chế độ bầu cử mà dochính quyền cấp trên bổ nhiệm. Ở Lào, chính quyền địa phương chỉ có cơ quanhành chính do cấp trên bổ nhiệm, không có cơ quan dân cử ở tất cả các cấp.Xingapo do diện tích nhỏ nên cả nước chia làm 4 khu nhưng không tổ chức chínhquyền địa phương như các nước khác.Câu 5. Brunei: giới thiệu tổng quan về về chính trị, văn hóa, lịch sử, hình thứcchính thể, hình thức cấu trúc nhà nước, tổ chức bộ máy nhà nước Brunei, khái quáthệ thống pháp luật BruneiDƯ ĐỊA CHÍNằm về phía Tây Bắc đảo Kalimantan hoặc Borneo thuộc vùng Đông Nam châu Á,Brunei hay Vương quốc Hồi giáo Brunei có tên đầy đủ là nước Negara BruneiDarussalam. Theo ngôn ngữ Malay, ―Brunei Darussalam‖ có nghĩa là nơi ở củahòa bình.Là một quốc gia nhỏ có phần lãnh thổ hầu hết bị bao bọc bởi Đông Malaysia vàphần còn lại giáp với biển Đông ở phía Bắc, Brunei gồm hai bộ phận tách rời nhau:một phần lớn ở phía Tây gồm 3 vùng (daerah) Brunei - Muara, Tutong, Belait với97% dân số và phần nhỏ hơn là vùng núi Temburong ở phía Đông với chừng10.000 cư dân. Đất nước Brunei có khí hậu nhiệt đới - cận xích đạo, nhiệt độ cao,15độ ẩm lớn và mưa nhiều với 75% diện tích là rừng cây tạo nên cảnh phố - rừng gầngũi, hài hòa đã được mệnh danh là ―hòn ngọc xanh‖ của Đông Nam Á.Trên một diện tích lãnh thổ với 5.765 km², Brunei có khoảng 380.000 cư dân,trong đó 64% là người Mã Lai, 20% là người Hoa và 8% còn lại thuộc các bộ tộc,với khoảng 60% dân số sống tại vùng đô thị. Thủ đô của Brunei là Bandar SeriBegawan Area với khoảng 46.000 dân, những khu vực quan trọng khác gồm thànhphố cảng Muara, những vùng sản xuất dầu lửa Seria và Kuala Belait.Với nền kinh tế ổn định và vững chắc, người dân Brunei không phải đóng thuế,thậm chí không phải nộp cả phí giáo dục và chi phí khám chữa bệnh cũng chỉ dừnglại ở 1 dola Brunei (BND).* Thể chế chính trị:Ngàyquốc- Ngày tuyên bố độc lập: 1/1/1984khánh:23/2/1984Bru-nây theo chế độ quân chủ chuyên chế thế truyền do Quốc Vương đứng đầu.Quốc vương có quyền tuyên bố tình trạng khẩn cấp và sửa đổi luật pháp, kể cảHiếnpháp.Giúp đỡ Quốc vương cai quản đất nước có 5 Hội đồng do Quốc vương chỉ định:(i) Hội đồng Bộ trưởng Nội các (the Council of Cabinet Ministers)(ii)HộiđồngTôngiáo(theReligiousCouncil);(iii)HộiđồngCơmật(thePrivyCouncil);(iv)HộiđồngLậppháp(theLegislativeCouncil):(v) Hội đồng Truyền ngôi (the Council of Succession);- Nguyên thủ quốc gia: Quốc vương Ha-gi Hát-xa-nan Bôn-ki-a (Sultan HajiHassanal Bolkiah) lên ngôi từ 05/10/1967 (Quốc Vương thứ 29); là Nguyên thủquốc gia, kiêm Thủ tướng, Bộ trưởng Quốc phòng và Tổng tư lệnh các lực lượngvũ trang, đồng thời là thủ lĩnh Hồi giáo; từ năm 1998 kiêm Bộ trưởng Tài chính.- Thái tử là Hoàng tử Ha-gi An-Mu-ta-đi Bi-la (Haji Al-Muhtadee Billah), đượctấn phong ngày 10/8/1998. Ngày 23/5/2005, được bổ nhiệm làm Bộ trưởng Caocấp Văn phòng Thủ tướng (Senior Minister in the Prime Minister’s Office).- Bộ trưởng Ngoại giao và Thương mại (Minister of Foreign Affairs and Trade):Hoàng thân Mô-ha-mét Bôn-ki-a (Mohamed Bolkiah).16- Trong nỗ lực chứng tỏ tính hiện đại của hoàng gia Brunei trước công luận, mộthoàng gia không chỉ quan tâm đến đời sống vật chất của người dân mà còn cả đếnđời sống tinh thần, các hoạt động chính trị… đồng thời không đóng cửa trước tràolưu dân chủ xã hội, Quốc vương Hassanal Bolkiah đã từng bước cải cách chính trịmà cụ thể ngày 15-7-2004 đã công bố triệu tập lại Hội đồng Lập pháp với 21 thànhviên được chỉ định. Hội đồng này đã họp phiên đầu tiên vào ngày 25-9-2004 bànluận về đề xuất sửa đổi hiến pháp để tiến hành bầu cử có giới hạn.Ngày 1-9-2005, Quốc vương Hassanal Bolkiah đã giải thể Hội đồng Lập pháp cũvà chỉ định 29 thành viên cho Hội đồng Lập pháp mới hoạt động từ ngày 2-9-2005,với nhiệm kỳ 5 năm gồm Thủ tướng, các Bộ trưởng, những người có chức danhcống hiến cho cộng đồng và đại diện của 4 vùng thuộc Vương quốc Brunei. Hộiđồng Lập pháp Brunei đã tham gia Hội đồng liên nghị viện Hiệp hội các quốc giaĐông Nam Á (AIPA) với tư cách Quan sát viên đặc biệt, và tại Đại Hội đồngAIPA 30 diễn ra tại Thái Lan, Hội đồng Lập pháp Brunei đã được AIPA kết nạplàm thành viên chính thức ngày 4-8-2009. Lịch sử phát triển:Tiểu vương quốc Bru-nây có lịch sử từ lâu đời. Từ thế kỷ 16, những người Hồigiáo từ Bán đảo Ma-lắc-ca (Malacca) đã đến Bru-nây buôn bán và truyền đạo.Trong các thế kỷ 17, 18 và đặc biệt là cuối thế kỷ 19, phương Tây xâm nhập Brunây cũng như các tiểu vương quốc khác ở Tây Ma-lai-xi-a. Đến năm 1888, Brunây trở thành nước bảo hộ của Anh. Năm 1906, Bru-nây chấp nhận sự kiểm soátcủa Anh với quyền hành pháp thuộc về Đại diện thường trực của Anh (BritishResident).Trong Chiến tranh Thế giới II, Bru-nây bị Nhật chiếm đóng (1941 – 1945), và năm1946, Anh quay lại chiếm Bru-nây. Trước phong trào đấu tranh đòi độc lập ở Brunây, Anh phải ký với Quốc Vương một thoả ước, quy định Bru-nây có quyền tựquyết về các vấn đề đối nội, chủ yếu về kinh tế và tôn giáo; Anh là nước bảo hộphụ trách các vấn đề đối ngoại, quốc phòng và an ninh.Ngày 14/12/1960, Đại hội đồng Liên hợp quốc đã thông qua nghị quyết về trao trảđộc lập cho các lãnh thổ thuộc địa và chưa tự trị, trong đó có Bru-nây. Đến ngày03/11/1971, Anh đã phải thoả thuận với Bru-nây sửa đổi Hiến pháp 1959, côngnhận Bru-nây có quyền tự quyết về công việc nội bộ; Anh phụ trách vấn đề đối17ngoại, còn vấn đề an ninh và quốc phòng là trách nhiệm chung của cả Anh và Brunây.Ngày 1/7/1979, Anh và Quốc Vương Bru-nây đã ký một hiệp định, theo đó Anh sẽtrao trả độc lập hoàn toàn cho Bru-nây vào ngày 31/12/1983. Bru-nây lấy ngày1/1/1984 là ngày tuyên bố độc lập.Lưu ý:Chữ in nghiêng là lịch sử tớ tìm đk ở trang khác các bạn tham khảo thêmnhéÍt có tư liệu đề cập đến thời tiền sử của Brunei nhưng Brunei được biết đến trongkhoảng thế kỷ 14 – 16 là một vương quốc hùng mạnh với lãnh thổ rộng lớn baogồm vùng phía Nam Philippines, Sarawak và Sabah. Các ảnh hưởng đến từ châuÂu đã dần thu hẹp diện tích lẫn quyền lực của vương quốc này. Tuy Brunei cógiành chiến thắng trong một cuộc chiến ngắn với Tây Ban Nha vào năm 1578nhưng đến thế kỷ 19, phần lãnh thổ này đã dần bị thâu tóm vào tay White Rajahs ởSarawak và đến năm 1882 chỉ còn lại hai vùng đất bé nhỏ là thành phố Brunei vàmột phần bên trong Sarawak.Để bảo vệ vùng đất còn lại của vương quốc Brunei và tránh sự dòm ngó xâm lượccủa các cường quốc châu Âu khác, người Anh đã tuyên bố bảo hộ các vùngSarawak, Brunei và Bắc Borneo từ năm 1888. Năm 1959, Brunei được tự trị vàmột hiến pháp đã được soạn thảo cho phép bầu cử Hội đồng Lập pháp. Cuộc bầucử lần đầu tiên tổ chức năm 1962 đã đem lại thắng lợi cho đảng Rakyat với xu thếđòi dân chủ toàn diện cho Brunei và cổ xúy việc tham gia cùng các bang lánggiềng là Sabah và Sarawak trong Liên bang Bắc Borneo.Những trào lưu quá mới mẻ của một đất nước quân chủ còn lệ thuộc sự bảo hộ đãdẫn đến xung khắc quyền lực với hoàng tộc và cuộc nổi dậy đòi dân chủ đã sớm bịđội quân Gurkhar của người Anh ngăn chặn, Quốc vương Brunei ban bố tìnhtrạng khẩn cấp và đình chỉ hiến pháp, tuyên bố cuộc bầu cử không hiệu lực và cấmđảng Rakyat hoạt động. Những diễn biến này cùng những quyền lợi khó phân địnhđã làm cho ý tưởng thành lập Liên bang Bắc Borneo tan vỡ, ảnh hưởng tới quyếtđịnh của Brunei không tham gia Liên bang Malaysia sau này mà vẫn là một vươngquốc bảo hộ thuộc Anh.Ngày 1-1-1984, Brunei tuyên bố độc lập, chính thức trở thành một nhà nước quânchủ lập hiến. Ngày 13-2-1984, Hội đồng Lập pháp bị giải thể. Vương quốc Hồigiáo Brunei được Tiểu vương Hassanal Bolkiah, vị vua triều đại thứ 29 cai trịbằng sắc lệnh. Brunei gia nhập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á - ASEAN từngày 8-1-1984, là thành viên Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương(APEC) và thuộc Khối Thịnh vượng chung Anh.18* VĂN HÓAVăn hóa Brunei chịu nhiều ảnh hưởng từ các nền văn hóa lân cận, trong đó đậmnét nhất phải kể đến Malaysia và Indonesia là hai nước gần gũi về địa lý cũng nhưlịch sử. Những nghiên cứu còn để lại cũng cho thấy tầm ảnh hưởng sâu sắc của vănhóa Hồi giáo và Ấn giáo trong sinh hoạt thường ngày của cư dân với những quyđịnh và phong tục khá khắt khe. Tuy có nguồn gốc từ Malaysia nhưng chính nhữngchuẩn mực Hồi giáo với nhiều hạn chế và cấm kỵ đã hình thành nên tính cáchngười Brunei, bảo thủ và độc đoán hơn hẳn người dân bản quán của mình.Do Hồi giáo là quốc giáo nên hàng năm tại Brunei vẫn diễn ra nhiều lễ hội mangđậm màu sắc Hồi giáo như tháng chay Ramadhan, lễ hội Hari Raya Aidilfitri…,nhiều công trình kiến trúc mang đậm nét văn hóa Hồi giáo. Brunei được mệnhdanh là xứ sở của các thánh đường Hồi giáo với cả trăm ngôi thánh đường có kiếntrúc đặc trưng với màu trắng cẩm thạch và mái hình chóp dát vàng lộng lẫy. NgoàiIslam là quốc giáo, Brunei cũng hiện diện một số tôn giáo khác như Phật giáo, Cơđốc giáo và bái vật giáo (hình thức tôn giáo nguyên thủy thờ cúng đồ vật như câycối, cung tên…).Tại đất nước Brunei, một bộ phận người dân có truyền thống định cư trên sông đãhình thành khu làng nổi Kampong Ayer nổi tiếng, quy tụ khoảng 30.000 cư dân vớinền văn hóa sông nước rất độc đáo. Cũng chính tại đây mà một số ngành thủ côngmỹ nghệ như làm đồ trang sức bằng bạc hay làm giỏ đan, móc, thêu… đã được duytrì.Ngôn ngữ Malay là quốc ngữ của Brunei nhưng trong giao tiếp, tiếng Anh và tiếngHoa cũng được sử dụng rộng rãi. Hình thức chính thểNhà nước Brunay có nền quân chủ truyền thống. Mặc dù đã cho ra đời và sửađổi đến 3 bản Hiến pháp nhưng Hiến pháp Brunay vẫn duy trì chế độ quân chủ.Hiến pháp 1984 quy định Vua là người đứng đầu Nhà nước, có quyền lực tuyệtđối.Quyền lực này chỉ thực hiện nhân danh Vua và những người được ủy quyền.Vua được các Hội đồng giúp đỡ. Đó là Hội đồng Tôn giáo, Hội đồng Cơ mật, Hộiđồng Chính phủ ( Thủ tướng và Nội các) và Hội đồng Thừa kế. Hội đồng Tôn giáocố vấn cho Vua về các vấn đề liên quan đến Đạo Hồi; Hội đồng Cơ mật cố vấn choVua trong các vấn đề ân xá, Hội đồng Thừa kế hoạt động khi các vấn đề thừa kếphát sinh. Hình thức cấu trúcNhà nước Brunay thuộc loại hình nhà nước đơn nhất. Là nhà nước mà lãnh thổcủa nước đó được hình thành từ một lãnh thổ duy nhất, lãnh thổ này được chia19thành các đơn vị hành chính trực thuộc. Brunei được biết đến trong khoảng thế kỷ14 – 16 là một vương quốc hùng mạnh với lãnh thổ rộng lớn bao gồm vùng phíaNam Philippines, Sarawak và Sabah. Các ảnh hưởng đến từ châu Âu đã dần thuhẹp diện tích lẫn quyền lực của vương quốc này. Tuy Brunei có giành chiến thắngtrong một cuộc chiến ngắn với Tây Ban Nha vào năm 1578 nhưng đến thế kỷ 19,phần lãnh thổ này đã dần bị thâu tóm vào tay White Rajahs ở Sarawak và đến năm1882 chỉ còn lại hai vùng đất bé nhỏ là thành phố Brunei và một phần bên trongSarawak. Nhà nước có chủ quyền quốc gia chung, có hệ thống cơ quan quyền lựcvà quản lý chung cho toàn lãnh thổ., sự phân cấp, phân quyền cho chính quyền cáccấp ở địa phương không có tư cách quyền lực nhà nước và chỉ được hưởng một chếđộ tự quản có mức độ. Tổ chức bộ máy Nhà nước- Người đứng đầu Nhà nướcỞ Brunay, theo Hiến pháp, Vua là người đứng đầu Nhà nước. Quyền lực tối caocủa Nhà nước tập trung vào tay Vua và quyền lực này chỉ được thực hiện nhândanh Vua và những người được ủy quyền.Chế độ quân chủ Đạo Hồi Mã Lai – một loại hình triết học, chính trị của Nhànước luôn được Vua và các quan chức giữ gìn và củng cố, được coi là một nhân tốduy trì sự ổn định về chính trị của đất nước.- Lập phápHiến pháp năm 1959 của Brunay đã thể hiện được quyền tự trị của Brunay, trừlĩnh vực an ninh quốc phòng và đối ngoại vẫn do người Anh kiểm soát. Bản Hiếnpháp được sửa đổi năm 1971 đã thể hiện việc giành lại quyền lực trong lĩnh vựcquốc phòng. Năm 1984, Hiến pháp Brunay đã tuyên bố độc lập hoàn toàn về chínhtrị và toàn bộ lĩnh vực an ninh quốc phòng và đối goại được chuyển giao về taynhà nước Brunay.Hiến pháp quy định Vua là người đứng đầu Nhà nước, có quyền lực tuyệt đối.Vua được các Hội đồng giúp đỡ. Đó là Hội đồng Tôn giáo, Hội đồng Cơ mật, Hộiđồng Chính phủ ( Thủ tướng và Nội các) và Hội đồng Thừa kế. Hội đồng Tôn giáocố vấn cho Vua về các vấn đề liên quan đến Đạo Hồi; Hội đồng Cơ mật cố vấn choVua trong các vấn đề ân xá, Hội đồng Thừa kế hoạt động khi các vấn đề thừa kếphát sinh.Trước đây, Brunay cũng có Hội đồng lập pháp, nhiệm vụ theo dõi chặt chẽ việclập pháp, nhưng Hội đồng này đã bị đình chỉ hoạt động từ sau ― cuộc nổi dậy năm1962‖. Hiện nay, việc lập pháp được ban hành theo chỉ dụ của Vua.- Hành pháp20Chính phủ Brunay là cơ quan hành chính cao nhất, tức là cơ quan nắm quyềnhành pháp cao nhất. đứng đầu Chính phủ là Thủ tướng Chính phủ. Từ khi giànhđược độc lập năm 1984, Vua luôn giữ chức Thủ tường chính phủ. Như vậy, Vuavừa là người đứng đầu Nhà nước, vừa là người đứng đầu Chính phủ. Ngoài ra Vuacòn kiêm cả Bộ trưởng Bộ quốc phòng.Hội đồng Chính phủ là cơ quan cố vấn cho Thủ tướng Chính phủ, thực hiệnchức năng quản lý Nhà nước về mọi mặt đối với đất nước. Hội đồng Chính phủ doThủ tướng đứng đầu, bao gồm 7 Phó thủ tướng và 12 Bộ trưởng của 12 Bộ ( Quốcphòng, Ngoại giao, Tài chính, Nội vụ, Giáo dục, Tư pháp, Công nghiệp và TàiNguyên, Tôn giáo, Phát triển, Văn hóa – Thanh niên và Thể thao, Y tế, Thông tin).Ngoài ra, trong Hội đồng Chính phủ còn có cố vấn đặc biệt của Thủ tướng vàcác thứ trưởng.Hiện nay Brunay có 12 Bộ và Văn phòng Thủ tướng, 77 Ban. Các bộ tập trungvào việc hoạch định chính sách, còn các Ban tập trung vào việc tổ chức thực hiệnchính sách. Bộ trưởng là người điều hành cao nhất của Bộ, chịu trách nhiệm trướcThủ tướng Chính phủ về lĩnh vực ngành mình phụ trách. Các Bộ đều tập trung hoạtđộng theo các Chức năng được quy định rõ cho mỗi Bộ.Chức năng chính phản ánh quy mô quản lý đất nước tập trung ở Bộ Nội vụ,bao gồm các cơ quan Trung ương và địa phương quản lý các vấn đề di cơ, laođộng, nhà tù, an ninh và cứu hỏa. Bộ phát triển quản lý các vấn đề điện nước, pháttriển nhà cửa, đất đai và các dịch vụ công, lập kế hoạch, quy hoạch phát triển thànhphố và quốc gia. Mọi quyền lực Trung ương đều thuộc về Vua, quyền lực ở địaphương được phân chia cho các địa phương.- Tư phápTòa án tối cao gồm Tòa Thượng thẩm và Tòa Phúc Thẩm. Thẩm quyền của TòaThượng thẩm về các vấn đề hình sự và dân sự là không hạn chế. Quyền kháng ánđối với quyết định của các tòa án cấp dưới được giới hạn trong khuôn khổ các vấnđề hình sự và dân sự. Tòa Phúc thẩm xem xét các việc kháng án hình sự và dân sựtheo các quyết định của Tòa thượng thẩm.Hệ thống luật pháp mô phỏng theo luật của các nước Anh với một tập thể quantòa độc lập. Bộ tư pháp có trách nhiệm xét xử các việc thi hành luật pháp của côngchúng tại các Tòa sơ thẩm, Phúc thẩm và Thượng thẩm. Cả ba tòa án này đều xửcác vụ án dân sự và hình sự, trong đó Tòa sơ thẩm xét xử phần lớn các trường hợp,còn các vụ án quá thẩm quyền sẽ được chuyển lên Tòa Phúc thẩm hoặc TòaThượng thẩm.- Bộ máy hành chính địa phươngBộ máy hành chính địa phương bao gồm các Ủy ban thành phố và Ủy ban quận.các ủy ban ngày thuộc thẩm quyền quản lý của Bộ Nội vụ và có chức năng duy trìhoạt đọng ở các địa phương. Các ủy ban này chịu trách nhiệm đảm bảo các dịch vụ21xã hội, kỹ thuật và hành chính tại địa phương như cấp giấy phép kinh doanh đườngxá, cầu cống, môi trường, bảo vệ thiên nhiên, hệ thống điện nước.Người đứng đầu Ủy ban là chủ tịch ủy ban, trực tiếp làm việc với các trưởnglàng và người đứng đầu các cơ quan hành chính địa phương. Các ủy ban duy trìquyền lực của mình với những thẩm quyền được Bộ nội vụ giao, và thực hiệnnhững hoạt động nhờ sự giúp đỡ của các trưởng làng.Các thành phố Ban-đa Xê-ri Bê-ga-oan, Bê-la-it, Xê-ri-a và Tu-tông được thànhlập các Ủy ban thành phố. Các Ủy ban này gồm có quan chức Chính phủ và ngườiđịa phương, do Vua chỉ định từ các ngành cảnh sát, công vụ, tôn giáo, từ các Vănphòng quận, Văn phòng quản lý đất đai, Ban kế hoạch nông thôn và đô thị, Dịchvụ cứu hỏa, Y tế,… Khái quát về hệ thống pháp luậtHệ thống pháp luật của Brunei là sự kết hợp giữa hệ thống pháp luật án lệ(common law) và hệ thống pháp luật của Đạo hồi. Theo Hiến pháp năm 1959,đứng đầu Nhà nước là nhà vua (Sultan). Sultan nắm giữ quyền hành pháp và lậppháp. Sultan cũng là người đứng đầu nội các giống như Thủ tướng Chính phủ củacác nước và nắm giữ vị trí Bộ trưởng Bộ Quốc phòng và Bộ Tài chính.Hệ thống tư pháp của Brunei độc lập và việc xét xử của toà án được dựa trêncơ sở các đạo luật thành văn và án lệ. Trong bài này, chúng tôi xin giới thiệu cáccơ quan tư pháp của Brunei đó là Cơ quan Tổng Chưởng lý và các toà án củaBrunei.- Cơ quan Tổng Chưởng lý.Cơ quan Tổng Chưởng lý của Brunei có chức năng, nhiệm vụ giống Bộ Tưpháp của các nước. Tổng Chưởng lý là người đứng đầu Cơ quan Tổng Chưởng lý.Tổng Chưởng lý là cố vấn pháp lý của Chính phủ Hoàng Gia giúp việc cho TổngChưởng lý có Cố vấn chưởng và các luật sư cung cấp ý kiến pháp lý cho Chínhphủ và đại diện cho Chính phủ trong các vụ kiện dân sự và hình sự. Tổng Chưởnglý có trách nhiệm xây dựng luật. Để tiến hành nhiệm vụ xây dựng luật, các Cơquan của Tổng Chưởng lý phối hợp chặt chẽ với các Bộ ngành khác của Chínhphủ.Tổng Chưởng lý theo Hiến pháp được trao quyền khởi tố, tiếp tục và chấm dứtkhởi tố trong bất kỳ giai đoạn nào của quy trình tố tụng hình sự nào. Tất cả việckhởi tố hình sự đều được thực hiện nhân danh Công tố viên (Tổng Chưởng lý). Đểthực hiện nhiệm vụ của mình, Tổng Chưởng lý không phải chịu sự quản lý hoặcđiều hành của bất kỳ người nào hoặc cơ quan nào. Phó Công tố viên, giúp việc choTổng Chưởng lý, chịu trách nhiệm tiến hành các vụ kiện hình sự ở toà án tối cao vàtoà cấp dưới.Công tố viên và các phó sẽ tư vấn và hướng dẫn quá trình khởi tố do công anvà cơ quan thi hành pháp luật khác thực hiện bao gồm việc tư vấn trong quá trìnhđiều tra.22Ngoài việc tiến hành các nhiệm vụ trên, các Cơ quan của Chưởng lý cũng sẽcung cấp các dịch vụ công cộng như đăng ký thành lập công ty, tên công ty, nhãnhiệu hàng hoá, kiểu dáng công nghiệp, sáng chế, quyền của công tố, kết hôn và vănbản mua bán hàng hoá tư.Cơ quan của Tổng Chưởng lý được chia thành 5 bộ phận: Vụ Dân sự, Vụ Tưpháp hình sự, Vụ Quốc tế, Vụ Xây dựng văn bản và Vụ đăng ký. Vụ Dân sự.- Cung cấp các ý kiến pháp lý cho các Bộ và cơ quan Chính phủ, trừ nhữngvấn đề liên quan tới quốc tế và hình sự;- Xây dựng hợp đồng và các văn bản pháp luật;- Hỗ trợ việc thu hồi các khoản nợ của Chính phủ;- Thực hiện việc khởi kiện dân sự nhân danh Chính phủ;- Đại diện cho Chưởng lý khi gặp các cơ quan, Bộ, ngành của Chính phủ;- Hỗ trợ việc xây dựng pháp luật nếu cần thiết. Vụ Tư pháp hình sự.Vụ Tư pháp hình sự gồm có một số Công tố viên là những người chịu tráchnhiệm chủ yếu tiến hành các vụ khởi tố hình sự và phúc thẩm tại toà án,đồng thời đưa ra ý kiến tư vấn cho các cơ quan thực thi pháp luật. Hơn thếnữa, Vụ này cũng giải quyết các đơn yêu cầu của các công ty luật tư nhân,công ty bảo hiểm và người thanh toán bảo hiểm. Vụ quan hệ Quốc tế.Vụ quan hệ Quốc tế chủ yếu cung cấp các ý kiến pháp lý liên quan tới Côngpháp quốc tế cho Bộ và các cơ quan của Chính phủ. Chuyên viên trong Vụnày thường tham dự vào các cuộc Hội thảo, hội nghị, nhóm làm việc của cáctổ chức quốc tế và khu vực; sau đó đưa ra những đề xuất xây dựng pháp luậtnhằm thực thi các cam kết quốc tế trong các điều ước quốc tế song phươngvà đa phương. Vụ xây dựng pháp luật.Vụ Xây dựng pháp luật chịu trách nhiệm soạn thảo và hoặc thẩm định cácdự thảo pháp luật của các Bộ khác hoặc cơ quan Chính phủ khác hoặc củacác Vụ trong Cơ quan Công tố.Vụ này cũng chịu trách nhiệm chỉnh lý các luật của Brunei. Việc sửa đổi luậtlà quá trình liên tục nhằm tránh những thay đổi lớn và xây dựng luật mới Vụ Đăng ký.Vụ đăng ký bao gồm việc đăng ký công ty, nhãn hiệu hàng hoá, sáng chế,kiểu dáng công nghiệp và hôn nhân. Chính vì vậy, trách nhiệm chính của nólà đăng ký như nói ở trên và lưu giữ những thông tin này để công chúng vàChính phủ sử dụng và giúp ích điều tra. Vụ này cũng đưa ra ý kiến pháp lý23cho các Bộ, cơ quan của Chính phủ về những vấn đề lập pháp liên quan tớiviệc quản lý đăng ký.- Toà án.Toà án của Brunei được điều hành thông qua hệ thống các toà án: Toà Hoànggia, Toà cấp cao và Toà phúc thẩm.Tất cả các toà án đều thụ lý các vụ kiện hình sự và dân sự, phần lớn các vụ kiệnđều được giải quyết tại Toà Hoàng gia ở Bandar Seri Begawan, Kuala Belait,Tutong và Temburong. Những vụ kiện nghiêm trọng sẽ được giải quyết tại Toà cấpcao và Toà này cũng có thẩm quyền phúc thẩm các bản án, quyết định của ToàHoàng Gia. Toà Phúc thẩm có thẩm quyền phúc thẩm các bản án, quyết định củaToà cấp dưới và toà cấp cao. Brunei có thoả thuận Anh Quốc nhằm bổ nhiệm cácthẩm phán của Anh vào Toà cấp cao của Brunei và Toà Phúc thẩm. Hội đồng thẩmphán của Hội đồng Cơ mật ở Luân Đôn có thẩm quyền giải quyết cuối cùng đốivới các vụ kiện dân sự nhưng không có thẩm quyền đó với các vụ kiện hình sự.Brunei có hệ thống Toà án Hồi giáo riêng biệt áp dụng luật Sharia đối với các vấnđề liên quan tới hôn nhân gia đình và các vấn đề khác liên quan tới đạo hồi.Câu 6. Campuchia: giới thiệu tổng quan về chính trị, văn hoá, lịch sử, hình thứcchính thể, hình thức cấu trúc nhà nước, tổ chức bộ máy nhà nước của Campuchia1. Chính trịTheo quy định của Hiến pháp, Vương quốc Campuchia thực hiện chính sách trunglập, không liên kết vĩnh viễn, duy trì hòa bình với các nước láng giềng và các nướctrên thế giới, không xâm lược hoặc can thiệp vào công việc nội bộ của các nướckhác, giải quyết mọi vấn đề bằng phương pháp hòa bình, không tham gia liên minhquân đội hoặc hiệp ước quân sự trái với chính sách trung lập .Campuchia hiện có 57 Đảng chính trị. Hệ thống quyền lực được phân định rõ giữaLập pháp, Hành pháp, và Tư pháp2. Lịch sử- Lịch sử hình thành : Vương quốc Khmer ra đời vào cuối thế kỷ thứ 9 do ngườianh hùng dân tộc JaYavarman II đã thống nhất được đất nước trên lãnh thổ củaPhủ Nam và Chân Lạp trước đây , Kinh đô lúc đó là Angkor. Từ cuối thế kỷ thứ 9đến thế kỷ 13 Vương quốc Khmer phát triển cực thịnh và đã xây dựng được một sốcông trình vĩ đại như Angkor Wat, Angkor Thom... Từ thế kỷ 13 đến đầu thế kỷ 19các cuộc nội chiến và chinh phục của ngoại bang đã làm cho Vương quốc Khmersuy yếu.Nhữnggiaiđoạnlịchsửquantrọng:+ Những thập niên đầu của thế kỷ 19 thực dân pháp vào Đông Dương, năm 1863Pháp buộc Vua Norodom phải ký Hiệp ước đặt Campuchia dưới sự bảo hộ củaPháp và đến năm 1884 Campuchia hoàn toàn trở thành thuộc địa của Pháp.24+ Năm 1941 Sihanouk lên ngôi đã vận động đấu tranh giành lại nền độc lập choCampuchia . Ngày 09/11/1953 Pháp tuyên bố trao trả độc lập cho Campuchia .Tháng 4/1955 Sihanouk thoái vị nhường ngôi Vua cho cha là Norodom Suramarithđể thành lập Cộng đồng xã hội bình dân . Tổng tuyển cử tháng 9/1955 Cộng đồngxã hội bình dân đã giành thắng lợi lớn, Sihanouk trở thành Thủ tướng, mọi quyềnlực tập trung vào tay ông. Năm 1960 Quốc vương Norodom Suramarith qua đời,Sihanouk được Quốc hội bầu làm Quốc trưởng Campuchia.+ Ngày 18/03/1970 Lon Nol-Siric Matak được sự hậu thuẫn của Mỹ đã đảo chínhSihanouk và thành lập Cộng hòa Khmer tháng 10/1970. Sihanouk và Hoàng tộcsang cư trú tại Trung Quốc và sau đó thành lập mặt trận đoàn kết dân tộcCampuchia ( FUNK ) và Chính phủ đoàn kết dân tộc đoàn kết Campuchia (GRUNK)đặttrụsởtạiBắcKinhTrungQuốc.+ Ngày 17/04/1975 Pol Pot lật đổ chế độ cộng hòa của Lon Nol và thành lập nướcCampuchia dân chủ , thực hiện chế độ diệt chủng tàn khốc nhất trong lịch sử củaCampuchia.+ Ngày 2/12/1978 Mặt trận giải phóng dân tộc Campuchia ra đời do Heng Samrinlàm Chủ tịch, ngày 7/01/1979 với sự giúp đỡ của quân tình nguyện Việt Nam, mặttrận giải phóng dân tộc Campuchia đã lật đổ chế độ diệt chủng Pol Pot - Eng Xary,thành lập nước Cộng hòa nhân dân Campuchia, năm 1989 đổi thành nhà nướcCampuhia.+ Ngày 23/01/1991 Hiệp định hòa bình Campuchia được ký kết giữa 19 nước và 4phái của Campuchia tại thủ đô Paris ( Pháp ) . Từ ngày 23 -25/5/1993 tổng tuyểncử ở Campuchia do Liên Hiệp Quốc tổ chức . Ngày 24/09/1993 Quốc hội mới vàChính phủ liên hịêp giữa Đảng CPP - FUNCINPEC được thành lập và đổi tênnước thành Vương quốc Campuchia, Sihanouk lần thứ hai lên ngôi Vua.+ Ngày 26/07/1998 tổng tuyển cử lần thứ hai, Chính phủ Hoàng gia tiếp tục làChính phủ liên hiệp giữa đảng CPP và đảng FUNCINPEC.+ Ngày 27/7/2003 tổng tuyển cử lần thứ ba, tuy nhiên do bế tắc chính trị kéo dàinên gần một năm sau, ngày 15/07/2004 Chính phủ liên hiệp nhiệm kỳ 3 giữa đảngCPP và đảng FUNCINPEC mới được thành lập do Samdech Hun Sen làm Thủtướng.+ Ngày 6/10/2004 Quốc vương Sihanouk tuyên bố thoái vị, ngày 14/10/2004 Hội25