Hồi ký Biệt Cách Dù

Liên đoàn 81 Biệt cách Nhảy dù (tiếng Anh: 81st Airborne Commando Battalion, 81st ACB) - thường được gọi tắt là Biệt cách Dù (BCND / BCD) - là một binh chủng đặc biệt, đồng thời là một trong bốn lực lượng tổng trừ bị của Quân lực Việt Nam Cộng hòa (ba lực lượng còn lại là Nhảy dù, Biệt động quân và Thủy quân lục chiến). Bộ chỉ huy liên đoàn trực thuộc Bộ Tổng tham mưu, cùng với sự hỗ trợ đắc lực của Nha Kỹ thuật. Nhiệm vụ của Biệt cách dù là nhảy toán, hành quân bí mật vào vùng kiểm soát của đối phương, thu thập tin tức tình báo, phá hoại cơ sở hậu cần của quân địch và cũng sẵn sàng tham chiến khi tình hình chiến sự yêu cầu. Biệt cách dù cũng được sử dụng để truy lùng và tiêu diệt lực lượng đặc công đối phương trong một số trận đánh. Binh chủng được thành lập kể từ khi Mặt trận Giải phóng miền Nam Việt Nam ra đời cùng với sự ủng hộ quân sự công khai của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Trong chiến tranh ngoài những nhiệm vụ thu thập tình báo được chính thức công khai, đơn vị còn thực hiện những phi vụ bí mật do Tổng thống Việt Nam Cộng hòa và Bộ Tổng tham mưu trực tiếp chỉ đạo và điều thành. Biệt cách dù cũng là đơn vị cuối cùng buông súng trong Sự kiện 30 tháng 4 năm 1975 tại Bộ Tổng tham mưu Quân lực Việt Nam Cộng hòa.

  • Hiệu ca: Biệt cách Dù 81 hành khúc.
  • Đặc trưng: Mũ Beret xanh lục và Phù hiệu Cọp Bay.
  • Thánh tổ: Khâm sai Đại thần Nguyễn Tri Phương.
Liên đoàn 81 Biệt cách Nhảy dù
Việt Nam Cộng hòa
Hồi ký Biệt Cách Dù
Phù hiệu Cọp Bay

Những trận đánh lớnSửa đổi

Mặc dù được đào tạo cho những công tác đặc biệt xâm nhập vào hậu phương của địch, tuy nhiên khi tình hình chiến sự trở nên nguy cấp như trong Chiến dịch Mậu Thân 1968 hay Mùa Hè Đỏ Lửa 1972 Bộ Tổng tham mưu đã sử dụng Biệt cách nhảy dù như là một lực lượng tăng viện, tiếp cứu và thanh toán chiến trường. Biệt cách dù được huấn luyện để tác chiến đơn độc, quen với việc ngụy trang thành binh lính đối phương từ vũ khí, quân trang cũng như thói quen sinh hoạt.

  • Trận An Lộc 1972: Một trận đánh ác liệt trong Mùa Hè Đỏ Lửa. Liên đoàn 81 Biệt cách nhảy dù đã quần thảo quyết liệt với đặc công quân đội miền Bắc khiến cho lực lượng cả hai bên bị thiệt hại rất nhiều. Những người lính còn sống phải lập một nghĩa trang tại chỗ để chôn tử sĩ. Chính lực lượng biệt cách dù này đã truy tìm và thanh toán đặc công xâm nhập vào bên trong thị xã.
  • Trận Phước Long 1974: Trong một nỗ lực cuối cùng nhằm cứu Phước Long không bị mất vào tay đối phương, Bộ tổng tham mưu đã tính tới phương án dùng trực thăng đưa Liên đoàn 81 vào trong lòng thị xã với mục đích tạo một vùng đệm nhằm tái chiếm Phước Long. Nhưng do phần lớn tỉnh đã bị quân Giải phóng đánh chiếm, các bãi trực thăng có thể đáp đều đã nằm trong tầm bắn của pháo binh. Cho nên dù đã rất cố gắng nhưng sau một vài giao tranh nhỏ và một số trực thăng bị bắn rơi, biệt cách dù đã phải triệt thoái khỏi Phước Long trước khi tỉnh hoàn toàn lọt vào tay đối phương.
  • Trận Sài Gòn 1975: Biệt đội 3 chiến thuật gồm khoảng 1000 Biệt cách dù do Thiếu tá Phạm Châu Tài chỉ huy được lệnh bảo vệ Bộ Tổng tham mưu Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Biệt cách dù cũng đã tham gia phản công trong Tổng tiến công Tết Mậu Thân, và đánh không tệ. Trong trận đánh cuối này, sự phản kháng của họ đã làm chậm đà tiến công của bộ đội quân Giải phóng, bắn cháy được 9 xe tăng thiết giáp. Đội chỉ tan rã khi thất bại trong việc rút lui về tuyến sau.[5]

Chỉ huySửa đổi

  • Trung tá Phan Văn Huấn[6](sau được thăng cấp Đại tá, chỉ huy từ tháng 8 năm 1970 đến tháng 4 năm 1975).

Xem thêmSửa đổi

  • MACVSOG
  • Nha Kỹ thuật, Quân lực Việt Nam Cộng hòa
  • Lực lượng Biệt động quân Việt Nam Cộng hòa
  • Lực lượng đặc biệt (Việt Nam Cộng hòa)

Chú thíchSửa đổi

  1. ^ Đại tá Trần Khắc Kính, sinh năm 1929 tại Nam Định, tốt nghiệp khóa 1 Sĩ quan Trừ bị Nam Định. Chức vụ sau cùng: Tư lệnh phó Sư đoàn 22 Bộ binh, nhiệm kỳ trước người bạn đồng khóa là Đại tá Lều Thọ Cường (Sinh năm 1930 tại Hà Nội).
  2. ^ a b c d Vũ Đình Hiếu, Những cuộc hành quân bí mật đầu tiên trên Đường mòn Hồ Chí Minh.
  3. ^ Đại tá Lê Quang Tung, sinh năm 1919 tại Thừa Thiên, tốt nghiệp khóa 3 Sĩ quan Trừ bị Thủ Đức. Bị phe quân nhân cách mạng sát hại vào ngày 1/11/1963 trong sự kiện Đảo chính Việt Nam Cộng hòa 1963
  4. ^ Vũ Đình Hiếu, Lực lượng Đặc biệt Mỹ trên chiến trường Việt Nam.
  5. ^ Veith, George (2012). Black April The Fall of South Vietnam 1973-75. Encounter Books. p. 488-9. ISBN 9781594035722.
  6. ^ Đại tá Phan Văn Huấn, sinh năm 1933 tại Thừa Thiên, tốt nghiệp khóa 10 Võ bị Đà Lạt.

Tham khảoSửa đổi

  • Trần Ngọc Thống, Hồ Đắc Huân, Lê Đình Thụy (2011). Lược sử Quân lực Việt Nam Cộng hòa.

Liên kếtSửa đổi

  • Những ngày cuối cùng của một sắc lính