Khủng hoảng kinh tế trong chủ nghĩa tư bản

Nếu như trong sản xuất hàng hóa giản đơn, với sự phát triển của chức năng phương tiện thanh toán của tiền tệ đã làm xuất hiện khả năng nổ ra khung hoảng kinh tế, thì đến chủ nnhĩa tư bản, khi nền sản xuất đã xã hội hóa cao độ, khủng hoảng kinh tế là điều không tránh khỏi. Từ đầu thế kỷ XIX, sự ra đời của đại công nghiệp cơ khí đã làm cho quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa bị gián đoạn bởi những cuộc khủng hoảng có tính chu kỳ. Hình thức đầu tiên và phổ biến trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa là khủng hoảng sản xuất "thừa". Khi khủng hoảng nổ ra, hàng hóa không tiêu thụ được, sản xuất bị thu hẹp, nhiêu doanh nghiệp bị vỡ nợ, phá sản, thợ thuyền bị thất nghiệp, thị trường bị rối loạn. Tình trạng thừa hàng hóa không phải là so với nhu cầu của xã hội, mà là "thừa" so với sức mua có hạn của quần chúng lao động. Trong lúc khủng hoảng thừa đang nổ ra, hàng hóa đang bị phá hủy thì hàng triệu người lao động lại lâm vào tình trạng đói khổ vì họ không có khả năng thanh toán.

a) Bản chất và nguyên nhân của khủng hoảng kinh tế trong chủ nghĩa tư bản

Nếu như trong sản xuất hàng hóa giản đơn, với sự phát triển của chức năng phương tiện thanh toán của tiền tệ đã làm xuất hiện khả năng nổ ra khung hoảng kinh tế, thì đến chủ nnhĩa tư bản, khi nền sản xuất đã xã hội hóa cao độ, khủng hoảng kinh tế là điều không tránh khỏi. Từ đầu thế kỷ XIX, sự ra đời của đại công nghiệp cơ khí đã làm cho quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa bị gián đoạn bởi những cuộc khủng hoảng có tính chu kỳ. Hình thức đầu tiên và phổ biến trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa là khủng hoảng sản xuất "thừa". Khi khủng hoảng nổ ra, hàng hóa không tiêu thụ được, sản xuất bị thu hẹp, nhiêu doanh nghiệp bị vỡ nợ, phá sản, thợ thuyền bị thất nghiệp, thị trường bị rối loạn. Tình trạng thừa hàng hóa không phải là so với nhu cầu của xã hội, mà là "thừa" so với sức mua có hạn của quần chúng lao động. Trong lúc khủng hoảng thừa đang nổ ra, hàng hóa đang bị phá hủy thì hàng triệu người lao động lại lâm vào tình trạng đói khổ vì họ không có khả năng thanh toán.

Nguyên nhân của khủng hoảng kinh tế tư bản chủ nghĩa bắt nguồn từ chính mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư bản. Đó là mâu thuẫn giữa trình độ xã hội hóa cao của lực lượng sản xuất với chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội. Mâu thuẫn này biểu hiện ra thành các mâu thuẫn sau:

- Mâu thuẫn giữa tính tổ chức, tính kế hoạch trong từng xí nghiệp rất chặt chẽ và khoa học với khuynh hướng tự phát vô chính phủ trong toàn xã hội.

- Mâu thuẫn giữa khuynh hướng tích lũy, mở rộng không có giới hạn của tư bản với sức mua ngày càng eo hẹp của quần chúng do bị bần cùng hóa.

- Mâu thuẫn đối kháng giữa giai cấp tư bản và giai cấp lao động làm thuê.

Cuộc khủng hoảng kinh tế đầu tiên nổ ra vào năm 1825 ở nước Anh và cuộc khủng hoảng đầu tiên diễn ra trên quy mô thế giới nổ ra vào năm 1847.

b) Tính chu kỳ của khủng hoảng kinh tế trong chủ nghĩa tư bản

Khủng hoảng kinh tế xuất hiện làm cho quá trình sản xuất tư bản chủ nahĩa tư bản mang tính chu kỳ. Trong giai đoạn tự do cạnh tranh của chủ nghĩa tư bản, cứ khoảng từ 8 đến 12 năm, nền kinh tế tư bản chủ nghĩa lại phải trải qua một cuộc khủng hoảng kinh tế. Chu kỳ kinh tế của chủ nghĩa tư bản là khoảng thời gian nền kinh tế tư bản chủ nghĩa vận động từ đầu cuộc khủng hoảng này đến đầu cuộc khủng hoảng sau. Chu kỳ kinh tế gồm bốn giai đoạn: khủng hoảng, tiêu điều, phục hồi và hưng thịnh.

- Khủng hoảng: là giai đoạn khởi điểm của chu kỳ kinh tế mới, ở giai đoạn này, hàng hoá ế thừa, ứ đọng, giá cả giảm mạnh, sản xuất đình trệ, xí nghiệp đóng cửa, công nhân thất nghiệp hàng loạt, tiền công hạ xuống. Tư bản mất khả năng thanh toán các khoản nợ, phá sản ,lực lượng sản xuất bị phá hoại nghiêm trọng. Đây là giai đoạn mà các mâu thuẫn biểu hiện dưới hình thức xung đột dữ dội.

- Tiêu điều: đặc điểm ở giai đoạn này là sản xuất ở trạng thái trì trệ, không còn tiếp tục đi xuống nhưng cũng không tăng lên, thương nghiệp vẫn đình đốn, hàng hóa được đem bán hạ giá, tư bản để rỗi nhiều vì không có nơi đầu cơ. Trong giai đoạn này, để thoát khỏi tình trạng bế tắc, các nhà tư bản còn trụ lại được tìm cách giảm chi phí bằng cách hạ thấp tiền công, tăng cường độ và thời gian lao động của công nhân, đổi mới tư bản cố định làm cho sản xuất vẫn còn có lời trong tình hình hạ giá. Việc đổi mới tư bản cố định làm tăng nhu cầu về tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng, tạo điều kiện cho sự phục hồi chung của nền kinh tế.

- Phục hồi: là giai đoạn mà các xí nghiệp được khôi phục và mở rộng sản xuất. Công nhân lại được thu hút vào làm việc; mức sản xuất đạt đến quy mô cũ, vật giá tăng lên, lợi nhuận của tư bản do đó cũng tăng lên.

- Hưng thịnh: là giai đoạn sản xuất phát triển vượt qua điểm cao nhất mà chu kỳ trước đã đạt được. Nhu cầu và khả năng tiêu thụ hàng hóa tăng, xí nghiệp được mở rộng và xây dựng thêm. Nhu cầu tín dụng tăng, ngân hàng tung tiền chi vay, năng lực sản xuất lại vượt quá sức mua của xã hội. Do đó, lại tạo điều kiện cho một cuộc khủng hoảng kinh tế mới.

Khủng hoảng kinh tế không chỉ diễn ra trong công nghiệp mà trong cả nông nghiệp. Nhưng khủng hoảng trong nông nghiệp thường kéo dài hơn khủng hoảng trong công nghiệp. Sở dĩ như vậy là do chế độ độc quyền tư hữu vì ruộng đất đã cản trở việc đổi mới tư bản cố định để thoát khỏikhủng hoảng. Mặt khác, trong nông nghiệp vẫn còn một bộ phận không nhỏ những người tiểu nông, điều kiện sống duy nhất của họ là tạo ra nông phẩm hàng hóa trên đất canh tác của mình. Vì vậy, họ phải duy trì sản xuất ngay cả trong thời kỳ khủng hoảng.

Từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai, do tăng cường vai trò điều tiết của nhà nước tư bản độc quyền nên chu kỳ khủng hoảng ở các nước tư bản sau chiến tranh đã có những thay đổi sâu sắc, thể hiện ở những điểm chủ yếu sau:

- Thứ nhất, khủng hoảng kinh tế không gay gắt. Trước Chiến tranh thế giới thứ hai, khủng hoảng kinh tế 1929-1933 đã làm rung chuyển thế giới tư bản chủ nghĩa, sản xuất công nghiệp ở các nước tư bản phát triển trong thời gian này đã bị kéo thụt lùi lại hàng chục năm, chỉ tương đương với sản lượng công nghiệp những năm cuối thế kỷ XIX: Mỹ giảm 55,6%, Anh giảm 32,2%. Pháp giảm 34,7%. Đức giám 43,5%,... Khủng hoảng kinh tế 1929-1933 cho đến nay vẫn được coi là vực thẳm trong lịch sử phát triển kinh tế của chủ nghĩa tư bản. Nhưng từ sau chiến tranh, khủng hoảng kinh tế ở các nước đều không dữ dội như trước chiến tranh, sản xuất công nghiệp chỉ giảm tương đối nhẹ (mức giảm cao nhất cũng chỉ là 21 %, còn thấp nhất có cuộc khủng hoảng chỉ giảm 1,4%).

- Thứ hai, vật giá leo thang trong khủng hoàng. Trước chiến tranh, khi khủng hoảng thừa nổ ra vật giá giảm sút rất nhanh và do đó tỷ suất lợi nhuận cũng giảm xuống. Trong cuộc khủng hoảng kinh tế 1929- 1933, vật giá ở Mỹ giảm 23,6%, Anh giảm 15,7%, Đức giảm 23,4%, Nhật giảm 26,4%. Sau chiến tranh, khi khủng hoảng kinh tế nổ ravật giá chỉ giảm nhẹ, sang đến thập kỷ 60 của thế kỷ XX vật giá lại tăng lên và đặc biệt là sang thập kỷ 70 ngay trong thời kỳ khủng hoảng vật giá leo thang mạnh, tốc độ tăng giá tái mức hai con số ở nhiều nước. Đây là hiện tượng chưa hề có trong lịch sử phát triển của chủ nghĩa tư bản thời kỳ trước chiến tranh.

- Thứ ba, sự xuất hiện của các cuộc khủng hoảng trung gian, khủng hoảng cơ cấu.

+ Khủng hoảng trung gian là cuộc khủng hoảng nhẹ xảy ra giữa hai cuộc khủng hoảng lớn. Ví dụ: ở Mỹ trong khoảng thời gian từ cuộc khủng hoảng 1948-1949 đến cuộc khủng hoảng 1957-1958 có một cuộc khủng hoảng trung gian là khủng hoảng 1953- 1954:từ cuộc khủng hoảng 1957-1958 đến khủng hoảng 1969-1970 có một cuộc khủng hoảng trung gian là khủng hoảng 1960-1961.

Trong cuộc khủng hoảng trung gian 1953 1954, đầu tư của Mỹ giảm nhẹ khoảng 3,2%, nguyên nhân là do chiến tranh Triều Tiên chấm dứt, chính phủ Mỹ cắt giảm chi tiêu quân sự.

Cuộc khủng hoảng trung gian 1960-1961 xảy ra khi nền kinh tế Mỹ vẫn chưa khắc phục được toàn bộ hậu quả của khủng hoảng 1957-1958, trước cuộc khủng hoảng này đầu tư vẫn chưa trở lại mức năm 1957. Đầu tư giảm nhẹ chỉ khoảng 4,8%.

+ Khủng hoảng cơ cấu là cuộc khủng hoảng xảy ra trong từng ngành, từng lĩnh vực riêng biệt, như: khủng hoảng năng lượng, nguyên liệu, khủng hoảng dầu mỏ, khủng hoảng tiền tệ.

Khủng hoảng dầu mỏ thế hiện ở chỗ các nước sản xuất dầu mỏ hạn chế xuất khẩu dầu, giảm bớt cung ứng, đẩy giá dầu lên cao làm chao đảo kinh tế ở các nước nhập khẩu dầu mỏ. Khủng hoảng dầu mỏ lần 1 vào năm 1973- 1974 giá dầu tăng 287%, từ 3,01 USD/ thùng lên 11,65 USĐ/thùng. Khủng hoảng dầu mỏ lần 2 vào năm 1979-1980 giá dầu tăng 223% từ 12,7 USD thùng lên 41 USD/thùng.

Trong những năm gần đây, giá dầu trên thế giới diễn biến rất bất thường. Tháng 7 - 2008, giá dầu thế giới leo lên mức kỷ lục 147 USD/thùng sau đó giảm dần và chạm đáy ở ngưỡng 32 USD/thùng do tác động từ sự suy giảm nhu cầu thế giới mà cuộc khủng hoảng toàn cầu gây ra.

Khủng hoảng tiền tệ được dùng để chỉ hiện tượng giá trị đối ngoại của đơn vị tiền tệ quốc gia bị suy giảm (nói cách khác là mất giá so với ngoại tệ) một cách nghiêm trọng và nhanh chóng. Chính phủ trở nên vô cùng khó khăn khi kiểm soát tỷ giá hối đoái và khi ngân hàng trung ương cố gắng can thiệp tỷ giá để bảo vệ giá trị tiền tệ thì dự trữ ngoại hối của quốc gia bị mất đi ở quy mô lớn.

Đã có một số mô hình khủng hoảng tiền tệ được nghiên cứu, một trong số đó là những nhà đầu cơ tấn công vào tiền tệ của một quốc gia và khi họ có nhiều tiền hơn ngân hàng trung ương của quốc gia đó thì khủng hoảng tiền tệ sẽ xảy ra.

Kể cả những nền kinh tế lớn như Mỹ cũng phải đối mặt với nguy cơ khủng hoảng tiền tệ trong bối cảnh thế giới hiện nay. Từ đầu những năm 70 của thế kỷ XX trở lại đây, đồng đôla Mỹ đã trải qua hai thời kỳ nghiêng ngửa kịch liệt. Lần đầu vào cuối những năm 70, tỷ giá hối đoái đôla Mỹ tụt xuống thấp điểm nhất trong lịch sử, lần thứ hai xảy ra vào năm 1985-1987 đồng đôla Mỹ sụt giá kéo dài trong 2 năm. Đồng đôla Mỹ mất giá đã hạ thấp dự trữ đôla Mỹ của các nước, khiến thị trường tài chính - tiền tệ quốc tế lâm vào tình trạng hỗn loạn, không ổn định.

Nhìn vào diễn biến lịch sử thì từ năm 1970, chu kỳ tăng, giảm giá của đôla Mỹ là từ 5-7 năm cho mỗi một quá trình. Theo quy luật đó thì sau khi đôla Mỹ lên giá tới mức kỷ lục vào năm 2001 (chỉ số đôla Mỹ lúc đó đạt gần 122 điểm), đôla Mỹ bắt đầu giảm giá so với các loại tiền tệ mạnh khác của thế giới vào đầu năm 2002. Từ thời điểm đó đến nay, đôla Mỹ đã mất giá được trên 10 năm (chỉ số đôla Mỹ thấp nhất tháng 4-2008 gần 69 điểm). Tuy nhiên, ngoài sự giảm giả mang tính chu kỳ, sự giảm giá của đồng đôla Mỹ còn có nguyên nhân là do bị cạnh tranh bởi đồng Euro và một số đồng tiền mạnh khác. Mặc khác, cuộc khủng hoảng năm 2008 bắt đầu từ Mỹ cho đến nay vẫn chưa có dấu hiệu phục hồi. Vì vậy, diễn biến tỷ giá của đồng đôla Mỹ trên thị trường tiền tệ thế giới chắc chắn còn phức tạp. Nguyên nhân của khủng hoảng cơ cấu là do:

Một là, tác động của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ một mặt hình thành những ngành kinh tế mới như công nghiệp năng lượng, công nghiệp vật liệu, song mặt khác lại làm suy thoái những ngành nghề truyền thống. Ví dụ: công nghiệp vật liệu mới ra đời làm cho công nghiệp sắt thép bị cạnh tranh. Nhiều sản phẩm trước đây sử dụng nguyên liệu sắt, thép nay chuyển sang sử dụng vật liệu chất dẻo có tính năng tác dụng cao hơn làm cho công nghiệp sắt thép bị suy thoái.

Hai là, trước chiến tranh, hầu hết các nước lạc hậu là thị trường cung cấp nguyên vật liệu cho các nước tư bản phát triển, sau chiến tranh các nước này đều giành được độc lập ở những mức độ khác nhau, các nước đều muốn tìm cách thoát ra khỏi sự phụ thuộc vào các nước tư bản bằng nhiều biện pháp khác nhau, mà một trong những biện pháp họ hay sử dụng là giảm quy mô khai thác, giảm sản lượng cung ứng trên thị trường thế giới. Điều đó đã tạo ra những cú sốc cho những nước trước đây vẫn thường xuyên nhập khẩu nguyên, nhiên, vật liệu của họ.

Ba là, sự tăng cường vai trò điều tiết của nhà nước tư bản độc quyền đối với các quá trình kinh tế. Chính sách tài chính, tiền tệ thường là công cụ để nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Nhưng nhiều khi việc lạm dụng những công cụ này cũng dễ dẫn tới các cuộc khủng hoảng trong lĩnh vực tài chính - tiền tệ (lượng cung tiền tệ được điều chỉnh quá mạnh trong một thời gian ngắn sẽ tạo ra những biến động trong quan hệ cung - cầu về tiền tệ và để dẫn tới nguy cơ khủng hoảng tiền tệ).

- Thứ tư, dấu hiệu để nhận biết tiêu điều và phồn thịnh không rõ ràng.

Đây cũng là kết quả tất yếu của sự xuất hiện các cuộc khủng hoảng trung gian, khủng hoảng cơ cấu. Các cuộc khủng hoảng này đã làm giảm biên độ dao động của chu kỳ tái sản xuất, vì vậy rất khó phân định ranh giới giữa tiêu điều và phục hồi cũng như ranh giới giữa phồn thịnh và khủng hoảng. Có khi nền kinh tế chỉ xuất hiện sự suy thoái nhẹ sau đó lại thoát ra rất nhanh và kinh tế lại tăng trưởng trở lại.