Kỹ năng đặc thù của trẻ khuyết tật là gì

Dù còn nhiều tranh cãi ngay cả trong các khái niện về GDĐB, nhìn chung đến nay các nhà giáo dục phương Tây và phương Đông đều thống nhất sử dụng một khái niệm GDĐB cho trẻ CPTTT trong nghiên cứu, giảng dạy và học tập. GDĐB cho trẻ CPTTT có thể được định nghĩa là sự giảng dạy và hướng dẫn được thiết kế đặc biệt nhằm đáp ứng những nhu cầu và khả năng riêng biệt của nhóm trẻ này dù theo bất cứ cách tổ chức nào (chuyên biệt, hội nhập hay hoà nhập).

2. Mục tiêu giáo dục đặc biệt cho trẻ chậm phát triển trí tuệ

2.1. Quyền được giáo dục của trẻ chậm phát triển trí tuệ

Vấn đề giáo dục trẻ CPTTT liên quan chặc chẽ với quan điểm của xã hội về người CPTTT. Quan điểm này có ảnh hưởng trực tiếp đến tình cảm, tư tưởng và thái độ đối với người chậm CPTTT. Quan điểm của chính phủ Việt Nam về trẻ CPTTT được thể hiện trong các văn bản Pháp luật của Nhà nước cũng như qua việc phê chuẩn các công ước quốc tế. Một trong những công ước quan trọng nhất liên quan đến trẻ em là Công ước Liên hiệp quốc năm 1989 về quyền trẻ em. Chính phủ Việt Nam đã thông qua công ước này ngày 282-1990.

Công ước nêu rõ “…Trẻ khuyết tật có quyền được chăm sóc đặc biệt; được giáo dục và đào tạo để tự giúp bản thân; để sống một cuộc sống đầy đủ, phù hợp đạo đức; để đạt tới mức tối đa của sự tự chủ và hoà nhập xã hội” (Công ước Liên hiệp quốc về quyền trẻ em, điều 23)

Trẻ khuyết tật được mô tả là trẻ em có khuyết tật trí tuệ hoặc thể chất. Giáo dục là một quyền cơ bản của trẻ em nên cũng là một quyền cơ bản của trẻ khuyết tật, bao gồm cả trẻ CPTTT.

2.2. Mục tiêu thực tiễn của giáo dục cho trẻ chậm phát triển trí tuệ

Ngoài quyền cơ bản là được giáo dục, để việc thực hiện trở nên có tính thực tiễn, trẻ CPTTT cần được coi là có thể phát triển, có thể học tập và có thể giáo dục được.

Trẻ CPTTT cùng trải qua những giai đoạn phát triển tương tự như trẻ bình thường [xem bài “Sự phát triển của trẻ chậm phát triển trí tuệ”]. Điểm khác nhau là những giai đoạn này kéo dài hơn và quá trình phát triển dừng lại sớm hơn. Ngoài ra có những khuyết tật được xem là sự sai lệch chức năng bẩm sinh hoặc mắc phải và có thể ảnh hưởng đến sự phát triển bình thường của trẻ.

Mô hình phát triển xã hội – tình cảm của trẻ CPTTT khuyến khích việc thiết kế các chương trình giảng dạy và hướng dẫn dựa trên nguyên tắc trẻ CPTTT có thể giáo dục được nếu chúng ta quan niệm học tập như là những cách thể hiện hành vi mới hoặc là việc mở rộng những hành vi hiện tại.

2.3. Mục tiêu chung của giáo dục đặc biệt cho trẻ chậm phát triển trí tuệ

Cũng như giáo dục chính quy, mục tiêu chung của giáo dục đặc biệt là dạy những  kiến thức văn hoá và kỹ năng tương ứng nhằm giúp học sinh có được cơ hội tối đa để có thể sống độc lập và phát triển đến mức cao nhất, có thể đạt được một vị trí xứng đáng trong xã hội. Vì vậy giáo dục phải mang tính chức năng đối với trẻ, phải dựa trên khả năng riêng, môi trường sống và triển vọng tương lại của trẻ.

Trọng tâm của giáo dục đặc biệt phải là những chương trình học thích hợp và có ý nghĩa mà trẻ có thể theo được và có thể áp dụng vào trong cuộc sống hiện tại và tương lai của trẻ. Chương trình học không chỉ hướng về các vấn đề học thuật mà nên tập trung vào phát triển các kỹ năng xã hội và kỹ năng chuyển đổi nhằm thức đẩy sự hoà nhập của trẻ vào xã hội.

Vì mục tiêu cuối cùng nhằm đến cho trẻ là cuộc sống cộng đồng hoặc cuộc sống hoà nhập nên câu hỏi quan trọng nhất để đánh giá chương trình là “nó đã mang lại hiệu quả gì cho trẻ?”. Thách thức đối với các chương trình giáo dục hiện tại cho trẻ CPTTT chính là việc phải đảm bảo chuẩn bị được cho trẻ bước vào tương lai.

2.4. Giáo dục đặc biệt cho trẻ chậm phát triển trí tuệ – một chương trình giảng dạy kỹ năng cuộc sống

Bằng cách nhấn mạnh tính chức năng, giáo dục đặc biệt cho trẻ chậm CPTTT cần kết hợp mô hình phát triển với mô hình sinh thái.

Theo mô hình phát triển, các kỹ năng hiện tại của trẻ đã được đánh giá bằng cách thực hiện một hoặc nhiều bài kiểm tra liên quan tới những quy tắc thông thường hoặc những bảng đánh giá về “sự phát triển của trẻ” đã được chuẩn hoá. Các bảng đánh giá giúp xác định trẻ thiếu những mốc và những kỹ năng phát triển cụ thể nào. Dựa trên các đánh giá này, một kế hoạch hướng dẫn trẻ sẽ được xây dựng, bắt đầu từ những kỹ năng mà trẻ không thực hiện được.

Theo mô hình sinh thái, các chuyên gia hoặc giáo viên tiến hành kiểm tra những môi trường, nơi trẻ phải thể hiện chức năng, qua đó xác định những kỹ năng cụ thể trẻ cần có thể tham gia được vào các môi trường này. Đây chính là những kỹ năng làm cơ sở cho việc đánh giá.

Chương trình giảng dạy kỹ năng cuộc sống sẽ là chương trình thể hiện những đặc điểm của môi trường trẻ sẽ sống, làm việc và vui chơi sau khi rời trường. Cốt lõi của giáo dục là hướng dẫn trẻ vào việc tự chăm sóc mình, quan hệ với những người khác và môi trường.

Chương trình giảng dạy kỹ năng cuộc sống là chương trình dạy những kỳ năng để chuẩn bị cho trẻ thực hiện chức năng một cách thành công trong các môi trường hoạt động của trẻ.

Vì khả năng của mỗi trẻ là khác nhau và môi trường ở đó mỗi trẻ thực hiện các chức năng cũng khác nhau, nên chương trình dạy kỹ năng cuộc sống cho mỗi trẻ cũng phải khác nhau. Giáo dục theo hướng cá nhân hoá nên được thể hiện bằng một kế hoạch giáo dục cá nhân.

Theo hiệp hội CPTTT Mỹ, những kỹ năng cần thiết đối với trẻ là:

Giao tiếp: Những kỹ năng bao gồm cả việc nghe hiểu và diễn đạt thông tin bằng những hành vi có tính biểu tượng (ví dụ như lời nói, chữ viết, các ký hiệu, ngôn ngữ ký hiệu…) hoặc những hành vi biểu tượng (ví dụ như nét mặt, cử động của cơ thể, sự động chạm, cử chỉ…)

Tự chăm sóc: Những kỹ năng liên quan tới việc đại và tiểu tiện, ăn, mặc, vệ sinh và tắm rửa

Sống tại nhà: Những kỹ năng liên quan tới việc thực hiện các chức năng tại nhà bao gồm cả việc chăm sóc quần áo, giữ gìn nhà cửa, bảo dưỡng đồ đạc, chuẩn bị và nấu ăn, đặt kế hoạch và tính toán việc chi tiêu mua bán, giữ an toàn nhà cửa, lên lịch công việc/hoạt động động hàng ngày

Xã hội: Những kỹ năng liên quan tới việc trao đổi với các cá nhân khác.

Sử dụng các phương tiện công cộng: Những kỹ năng liên quan tới việc thích hợp những dịch vụ công cộng, bao gồm cả việc đi lại trong cộng đồng.

Tự định hướng: Những kỹ năng liên quan tới sự lựa chọn, liên quan tới khả năng các cá nhân có thể sống theo cách mà họ mong muốn, nhất quán trong cách đánh giá và lựa chọn điều mình thích theo khả năng riêng.

Sức khoẻ an toàn: Những kỹ năng liên quan tới việc duy trì sức khoẻ bằng ăn uống, xác định bệnh tật, phòng và trị bệnh, tìm kiếm trợ giúp cơ bản nhất, vấn đề về giới tính, sự khoẻ mạnh thể chất và những vấn đề về an toàn.

Học đường chức năng: Những khả năng và kỹ năng nhận thức liên quan tới việc học ở trường sẽ được áp dụng trực tiếp vào cuộc sống sau này của cá nhân. Học đường chức năng là môn học dạy những kỹ năng cần thiết, áp dụng trực tiếp vào trong môi trường sống hàng ngày của trẻ, đặc biệt là những kỹ năng mà trẻ sẽ cần sau khi rời trường.

Giải trí: Hình thành những sở thích giải trí (tự giải trí và giải trí qua tương tác) trong đó phản ánh những ưu tiên, lựa chọn và quan niệm về độ tuổi, về văn hoá nếu như hoạt động được tiến hành ở nơi công cộng.

Lao động: Những kỹ năng liên quan tới quá trình làm một công việc cả ngày hoặc nữa ngày trong cộng đồng, với những kỹ năng nghề đặc thù, những hành vi xã hội và những kỹ năng lao động phù hợp.

3. Biện pháp khắc phục những hạn chế cho trẻ chậm phát triển trí tuệ

3.1. Những hạn chế của trẻ chậm phát triển trí tuệ

a) Sự hạn chế về khả năng trí tuệ

Chức năng trí tuệ dưới mức trung bình là một trong những hạn chế lớn nhất của người CPTTT nói chung và trẻ em bị CPTTT nói riêng. Sự  hạn chế về chức năng trí tuệ phụ thuộc vào mức độ CPTTT của trẻ, mức độ CPTTT càng nặng thì sự hạn chế về khả năng trí tuệ của trẻ càng lớn. Chính sự hạn chế về khả năng trí tuệ đã dẫn đến những hạn chế trong hoạt động nhận thức của trẻ như: cảm giác, tri giác, tư duy, trí nhớ…

b) Sự hạn chế về khả năng chú ý

Phần lớn các trẻ CPTTT gặp khó khăn khi phải tập trung và duy trì sự chú ý vào một công việc nào đó trong một thời gian dài. Trẻ rất khó khăn lựa chọn những thông tin cần thiết, tập trung chú ý vào những thông tin đó và bỏ qua những kích thích không có liên quan.

Đôi khi các trẻ CPTTT phán đoán sai do chúng không xác định được những thông tin chính, trẻ thường chú ý đến những thông tin phụ. Ví dụ: Khi cho trẻ quan sát bức tranh “em đi học”, sau đó hỏi trẻ “ai trong bức tranh” trẻ có thể trả lời hoặc chỉ vào con bướm, cây cối trong tranh mà không trả lời đó là “bạn học sinh”.

c) Sự hạn chế về các kỹ năng giác động

Kĩ năng giác động là những kĩ năng liên quan đến cảm giác và vận động da toàn thân. Kĩ năng cảm giác thuộc về cách mà đứa trẻ ghi nhận, xử lí và giải thích thông tin tiếp nhận qua các giác quan (nghe, nhìn, ngửi, nếm, sờ, chạm). Kĩ năng vận động bao gồm các kĩ năng vận động thô và vận động tinh – hai kĩ năng này có liên quan mật thiết với nhau.

Nhiều hoạt động yêu cầu có sự phối hợp nhịp nhàng giữa 2 nhóm kĩ năng trên (ví dụ như phối hợp tay – mắt). Trẻ CPTTT thường bị hạn chế trong vực phối hợp trên nên khi thực hiện một hoạt động, nhiệm vụ nào đó sẽ gặp khó khăn, ví dụ như xâu hạt, viết…

d) Sự hạn chế về kỹ năng xã hội.

Những trẻ CPTTT, thường yếu kém về kĩ năng xã hội. Các trẻ này thường khó khăn trong các tình huống như:

– Chơi cùng nhau, làm cùng nhau.

– Lắng nghe người khác nói, luân phiên chờ đến lượt mình.

– Rất khó để hiểu rằng có rất nhiều cách nhìn nhận người khác khác với cách nhìn nhận của mình.

– Rất khó biểu hiện được thái độ đúng mực và phù hợp với ai đó hay với mọi người trong những tình huống nào đó.

– Khó nhận biết thái độ, ý định của người khác qua những biểu hiện trên nét mặt hay tư thế.

e) Sự hạn chế về ngôn ngữ

Ở người bình thường, để có thể giao tiếp có hiệu quả cần phải có kĩ năng diễn đạt ngôn ngữ (diễn đạt ý nghĩ thành ngôn từ) và kĩ năng tiếp nhận ngôn ngữ (hiểu những gì người khác nói). Trẻ CPTTT có sự hạn chế về cả hai kỹ năng này, đặc biệt là kỹ năng ngôn ngữ. Sự phát triển ngôn ngữ của trẻ CPTTT không mất nhiều thời gian hơn và trình độ ngôn ngữ của trẻ thấp hơn so với trẻ bình thường hai tuổi. Cụ thể là:

• Vốn từ của trẻ ít và nghèo nàn

• Nhớ từ mới lâu và chậm

• Trong khi nói trẻ ít dùng câu phức tạp, ít dùng liên từ mà thường sử dụng câu ngắn, câu đơn, câu cụt

• Lỗi phát âm: Nói ngọng, nói lắp và nói khó

• Nói lại rập khuôn những gì người khác đang nói nhưng không hiểu ý nghĩ của lời nói đó

• Không thể hiện rõ nhu cầu giao tiếp với người khác. Ví dụ: trẻ không chủ động thiết lập mối quan hệ với người khác, không đặt câu hỏi, hay chủ động trong trao đổi với người khác về một vấn đề nào đó hoặc trẻ từ chối giao tiếp với người khác.

f) Những vấn đề khái quá hoá kiến thức

Trẻ CPTTT gặp khó khăn trong việc vận dụng kiến thức và các kỹ năng của mình trong những trường hợp khác nhau với tình huống mà trẻ đã từng gặp. Tuy có những tình huống gần giống với tình huống quen thuộc nhưng trẻ vẫn lúng túng và thực hiện sai. Ví dụ, trẻ CPTTT biết con vịt bơi dưới nước, thuyền buồm chạy dưới nước, khi học bài “làm quen phương tiện giao thông”, cô hỏi “phương tiện gì chạy dưới nước”? trẻ trả lời là “con vịt”.

g) Hành vi không mong muốn

Do sự hạn chế về chức năng trí tuệ, ngôn ngữ, khả năng chú ý, những khó khăn về thể chất và tâm thần… nên trẻ CPTTT thường có những hành vi không mong muốn như:

– Trẻ đi lại tự do trong giờ học

– Trẻ không ngồi yên, vận động chân tay liên tục

– Đánh bạn

– Đập phá, ném đồ chơi trong khi đang chơi

– Từ  chối sự chăm sóc vỗ về của người khác bằng cách lẩn tránh

– Không thực hiện hoạt động hay nhiệm vụ

– Trẻ ngồi uể oải, buồn chán, im lặng

– Không phản ứng với những nỗ lực giao tiếp của người khác, thậm chí ngay cả khi bị trêu trọc

– Nói tự do, nói một mình trong giờ học

– La hét, gào thét không rõ nguyên nhân

– Hành vi tự xâm kích: đập đầu, dứt tóc, cắn tay

h) Động cơ kém hăng hái, sợ thất bại

Đứa trẻ thường không hoàn thành nhiệm vụ nào đó hoặc qua nhiều lần thất bại sẽ dẫn đến trẻ CPTTT dễ nản trí. Do vậy trẻ kém hăng hái, không muốn học những cái mới hoặc đối mặt với tình huống mới, trẻ hay ỷ lại và trông đợi sự giúp đỡ của người khác. Có trẻ có thể làm được nhưng lại thiếu tự tin nên không đủ quyết tâm để thực hiện.

3.2. Biện pháp khắc phục những hạn chế cho trẻ chậm phát triển trí tuệ

a) Một số biện pháp khắc phục sự hạn chế về khả năng trí tuệ.

– Giao cho trẻ làm những việc phù hợp với khả năng.

– Những công việc được chia làm nhiều bước nhỏ.

– Hãy hướng dẫn trẻ cụ thể trong các hoạt động, thao tác, tình huống

– Giảng dạy rõ ràng bằng các cấu trúc về không gian, thời gian hoạt động, con người nhằm trả lời cho các câu hỏi: “ở đâu?”; “khi nào và bao lâu”; “bằng cách nào?”; “ai và các qui tắc như thế nào?”.

– Dành nhiều thời gian cho thực hành.

b) Một số biện pháp khắc phục sự hạn chế về khả năng chú ý

– Giảm thiểu những yếu tố kích thích gây sao nhãng, mất tập trung như: hạn chế bớt âm thanh, hình ảnh, người qua lại

– Tạo nhiều hành vi phản hồi

– Thu hút sự chú ý của trẻ bằng những đồ chơi, đồ dùng dạy học hấp dẫn như đồ chơi có phát ra âm thanh, kiểu dáng đẹp và màu sắc tươi tắn

– Cung cấp thông tin bằng hình ảnh nhằm mục đích giúp trẻ có thời gian tiếp cận thông tin lâu hơn.

c) Một số biện pháp khắc phục sự hạn chế về khả năng giác động

– Huấn luyện kỹ năng giác động

– Tạo phương tiện thay thế, hỗ trợ thêm

d) Một số biện pháp khắc phục sự hạn chế về kỹ năng xã hội

– Khuyến khích các hoạt động xã hội

– Luyện cho trẻ các kĩ năng xã hội trong các tình huống có thể và tự nhiên

e) Một số biện pháp khắc phục sự hạn chế về  ngôn ngữ cho trẻ

– Sử dụng câu ngắn, rõ ràng, đơn giản

– Không đưa ra dồn dập nhiều quá thông tin trong cùng một thời điểm

– Sử dụng các phương thức giao tiếp thay thế và tăng cường. Ví dụ như sử dụng lời

nói kết hợp với ngôn ngữ cử chỉ điệu bộ hay ngôn ngữ kí hiệu.

– Sử dụng các loại phương tiện hỗ trợ giao tiếp như vật thật, mô hình, các loại tranh ảnh… nhằm hình ảnh hoá thông tin

– Cung cấp vốn từ mới cho trẻ

– Khuyến khích trẻ tự phát biểu bằng cách gợi mở, đặt ra những câu hỏi để trẻ trả lời, luôn động viên khen thưởng trẻ mỗi khi trẻ phát biểu ý kiến

f) Các vấn đề về khái quát hoá kiến thức

Thực hành kĩ năng và kiến thức trong nhiều tình huống khác nhau, với những người khác nhau, ở những nơi khác nhau và với những vật liệu khác nhau.

g) Biện pháp giảm thiểu những hành vi không mong muốn cho trẻ

Để giảm thiểu hành vi không mong muốn cho trẻ CPTTT, giáo viên cần phải tìm hiểu những nguyên nhân và điều kiện hiện tại đang duy trì hành vi không mong muốn; xác định đặc điểm, mức độ và tần suất xuất hiện hành vi không mong muốn trên cơ sở đó đề xuất biện pháp xử lý phù hợp khi trẻ thể hiện hành vi không mong muốn.

h) Vấn đề động cơ kém hăng hái và sợ thất bại

– Tạo cho trẻ có nhiều cơ hội thành công.

– Bộc lộ những kì vọng tích cực với trẻ.

– Khuyến khích: Bằng vật chất và tinh thần cũng như bằng các hoạt động mang lại hứng thú cho trẻ.

– Nhấn mạnh các sự  kiện tốt đẹp

 Theo “Đại cương về giáo dục trẻ CPTTT” của tiến sĩ Huỳnh Thị Thu Hằng