Làm thế nào để nâng cao năng lực cạnh tranh của điểm đến du lịch

Năm 2021, với sự hỗ trợ của TAB và Ban IV, các chuyên gia của dự án do Liên minh châu Âu (EU) tài trợ đã nghiên cứu và đánh giá kỹ lưỡng năng lực cạnh tranh về du lịch của 15 tỉnh, thành phố của Việt Nam dựa trên những tiêu chí khác nhau. Đó là các tỉnh: Đà Nẵng, Quảng Ninh, Khánh Hòa, Quảng Nam, Thừa Thiên Huế, Hà Nội, Quảng Bình, Thành phố Hồ Chí Minh, Kiên Giang, Ninh Bình, Bình Định, Lâm Đồng, Lào Cai, Bình Thuận, Cần Thơ.

Mục đích của dự án VTCI là xếp hạng năng lực cạnh tranh điểm đến du lịch Việt Nam nhằm xây dựng định hướng cho phát triển du lịch Việt Nam trong tương lai. Đây là công cụ để điểm đến du lịch nâng cao năng lực cạnh tranh một cách có mục tiêu, kiểm soát việc đạt được các mục tiêu đó và hoạch định các biện pháp hữu hiệu nhằm phát triển du lịch mạnh mẽ hơn.

Các địa phương đạt chỉ số cạnh tranh cao bao gồm: Đà Nẵng, Quảng Ninh, Khánh Hòa, Quảng Nam và Thừa Thiên Huế.

Phát biểu tại hội nghị, Bộ trưởng Văn hóa, Thể thao và Du lịch Nguyễn Văn Hùng khẳng định: 15 địa phương được đưa vào dự án VTCI 2021 là những cánh chim đầu đàn của ngành du lịch. Các địa phương cần nhìn lại mình qua Bộ chỉ số đánh giá rất khách quan đã được các chuyên gia xây dựng để biết đâu là điểm mạnh vượt trội, đâu là điểm yếu để có những giải pháp căn cơ, bài bản nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của địa phương, từ đó nâng cao hình ảnh điểm đến của du lịch Việt Nam.

Việc công bố kết quả Bộ chỉ số năng lực cạnh tranh điểm đến du lịch cấp tỉnh Việt Nam là bước chuẩn bị cho nước ta thúc đẩy phục hồi du lịch trong thời gian tới, giúp Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch làm tốt vai trò tham mưu, quản lý nhà nước về du lịch.

Tại hội nghị, các chuyên gia của Dự án EU đã trình bày tóm tắt về dự án và giới thiệu Bộ chỉ số Năng lực cạnh tranh du lịch Việt Nam. Bộ chỉ số được xây dựng dựa trên hệ thống gồm hơn 70 chỉ số đánh giá các khía cạnh khác nhau liên quan tới năng lực cạnh tranh du lịch.

Phương pháp tiếp cận của hệ thống dựa trên các chỉ số Năng lực cạnh tranh du lịch và lữ hành (TTCI) của Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF).

Theo đó, hệ thống được điều chỉnh và bổ sung các chỉ số lựa chọn phù hợp với đặc thù của Việt Nam, tạo cơ sở cho việc so sánh năng lực cạnh tranh du lịch giữa các tỉnh.

Các nhóm chỉ số để phân tích và đánh giá bao gồm: môi trường kinh doanh, y tế và vệ sinh, nguồn nhân lực và thị trường lao động, mức độ ưu tiên cho lữ hành và du lịch, môi trường bền vững, cơ sở hạ tầng phục vụ du lịch, tài nguyên thiên nhiên và văn hóa.

Ông Trần Trọng Kiên, Chủ tịch TAB, cho rằng đây chính là thời điểm cần thiết để phân tích và đánh giá chỉ số năng lực cạnh tranh các điểm đến du lịch, đặc biệt là khi ngành du lịch đang phải trải qua những thách thức chưa có tiền lệ, điều quan trọng là phải đặt ra hướng đi phù hợp cho tương lai.

Bộ chỉ số Năng lực cạnh tranh điểm đến du lịch cấp tỉnh Việt Nam chính là công cụ quan trọng trong lộ trình phát triển.

NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA ĐIỂM ĐẾN DU LỊCH VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ

Đỗ Văn Tính-Khoa QTKD

Năng lực cạnh tranh của điểm đến là tập hợp các yếu tố nguồn lực như tài nguyên tự nhiên, tài nguyên nhân văn, cơ sở vật chất kỹ thuật, tài chính , các chính sách, thể chế và con người của một điểm đến tạo ra một hình ảnh về sự phát triển du lịch bền vững, có hiệu quả, hình thành nên khả năng hấp dẫn thu hút khách du lịch và đáp ứng làm thỏa mãn  nhu cầu của họ một cách tốt nhất.

Các chỉ số đánh giá năng lực cạnh tranh của điểm đến du lịch

Crouch và Ritchie  đánh giá toàn bộ kết quả hoạt động của điểm đến bằng 4 chỉ tiêu: i) Kết quả hoạt động kinh tế; ii) Tính bền vững; iii) Sự hài lòng của khách du lịch; iv) Hoạt động quản lý và sử dụng một số chỉ số dựa trên bốn yếu tố này để xác định khả năng cạnh tranh của điểm du lịch. Ví dụ, một số chỉ tiêu như tổng chi tiêu của khách du lịch, tỷ lệ thù lao cho một người lao động trong lĩnh vực du lịch đối với toàn bộ thù lao cho người lao động, sự dễ dàng thành lập doanh nghiệp kinh doanh liên quan đến du lịch, GDP từ lữ hành và du lịch so với tổng GDP có thể được sử dụng để chỉ ra kết quả hoạt động kinh tế của khu vực này. Tương tự như vậy, bảo tồn sự nguyên vẹn của môi trường sinh thái, khả năng dân cư có thể sử dụng hạ tầng du lịch, mức độ hỗ trợ chính trị đối với các nỗ lực của ngành du lịch, các khoản thuế thu được từ chi tiêu du lịch có thể được sử dụng để đo sự bền vững. Sự hài lòng của khách du lịch có thể được đánh giá bằng sự hài lòng đối với tất cả chất lượng dịch vụ tại điểm đến. Hoạt động quản lý được chỉ ra bằng chất lượng của việc tham gia vào chương trình phát triển nguồn nhân lực và hỗ trợ, sự hài lòng với các hướng dẫn về điểm đến giúp khách lập kế hoạch chuyến đi, số lượng các sự kiện đặc biệt có chất lượng.

Số liệu để đánh giá 4 chỉ số này sẽ được dựa trên dữ liệu thứ cấp và các dữ liệu điều tra. Khó khăn lớn nhất khi nghiên cứu đánh giá khả năng cạnh tranh, chính là cần có một tập hợp dữ liệu chuẩn để có thể so sánh được giữa các nước. Việc tiến hành điều tra để thu thập một bộ dữ liệu hoàn chỉnh về vấn đề này là không thể thực hiện được với phạm vi của nghiên cứu này. Do đó, tác giả chỉ  dựa vào những số liệu thứ cấp đã được sử dụng chủ yếu bởi các nghiên cứu quốc tế và các tổ chức phát triển khác. Tùy thuộc vào mục tiêu nghiên cứu, khả năng cạnh tranh có thể được xem xét ở ba cấp độ cạnh tranh khác nhau (cấp doanh nghiệp, cấp ngành quốc gia, và cấp nền kinh tế quốc gia). Trong nghiên cứu này, tác giả chỉ đề cập cạnh tranh ở cấp ngành quốc gia và điểm đến quốc gia.

Phân tích khả năng cạnh tranh ở các cấp độ cạnh tranh khác nhau

Cấp doanh nghiệp

(Năm lực lượng cạnh tranh của Porter)

Cạnh tranh ngành quốc gia

(Mô hình Kim cương của Porter)

Nền kinh tế quốc gia

(WEF-GCR, IMD-GCY)

- Các đối thủ cạnh tranh hiện tại

- Các đối thủ cạnh tranh tiềm năng

- Các nhà cung cấp thay thế

- Quyền mặc cả của nhà cung cấp

- Quyền mặc cả người mua

- Chiến lược công ty, cấu trúc ngành  và đối thủ cạnh tranh

- Các điều kiện cạnh tranh

- Các điều kiện cầu

- Các ngành bổ trợ và có liên quan

- Quy mô kinh tế

- Nguồn nhân lực

- Nguồn vốn

- Nguồn công nghệ

- Cơ sở hạ tầng

- Cạnh tranh và Mở cửa

- Quản lý chính phủ

- Quản trị doanh nghiệp

Trong khuôn khổ phân tích của mô hình cạnh tranh ngành quốc gia của Porter về các yếu tố có ảnh hưởng tới khả năng cạnh tranh của một ngành, các điều kiện về nguồn lực sẵn có là một trong bốn yếu tố xác định khả năng cạnh tranh của một ngành. Trong Bảng trên chúng ta có thể thấy 7 chỉ tiêu để đánh giá lợi thế cạnh tranh của ngành du lịch. Trong phần này, chúng ta sẽ đánh giá các nguồn lực có khả năng ảnh hưởng tới sức cạnh tranh của ngành du lịch VN trên cơ sở so sánh với một số đối thủ cạnh tranh chính của VN trong khu vực như Malaysia, Singapore và Thái Lan. Số liệu sơ cấp thu được thông qua điều tra sẽ giúp chúng ta hiểu được đánh giá của khách du lịch, dân cư, và các doanh nghiệp về khả năng cạnh tranh của ngành du lịch VN. Số liệu sơ cấp sẽ xem xét liệu đánh giá của khách du lịch, dân cư, và các doanh nghiệp có được minh chứng bằng những con số cụ thể hay không.

Số liệu thu được từ bảng theo dõi khả năng cạnh tranh do Hội đồng Du lịch và Lữ hành Thế giới thực hiện có thể được sử dụng để đánh giá lợi thế so sánh của VN so với các nước trong khu vực. WTTC đã ghi lại số liệu về 8 tiêu chí bao gồm i) Chỉ số nhân lực du lịch, ii) Chỉ số cạnh tranh giá, iii) Chỉ số phát triển cơ sở hạ tầng, iv) Chỉ số môi trường, v) Chỉ số về tiến bộ công nghệ, vi) Chỉ số về nguồn nhân lực, vii) Chỉ số về tính mở và viii) Chỉ số về phát triển xã hội. Trừ các chỉ số về cạnh tranh giá, và chỉ số môi trường sẽ được sử dụng trong phần đánh giá về khả năng sử dụng nguồn lực, sáu chỉ số còn lại có thể được sử dụng để đánh giá lợi thế so sánh ngành du lịch của các nước trong khu vực. Nhưng có lẽ chúng ta sẽ sử dụng kết quả nghiên cứu về khả năng cạnh tranh về lữ hành và du lịch của WEF cuối năm 2011 để phân tích khả năng cạnh tranh của điểm đến du lịch VN vì báo cáo này được cộng đồng quốc tế quan tâm và hưởng ứng nhiều nhất. Báo cáo về năng lực cạnh tranh lữ hành và du lịch của WEF (The Travel and Tourism Competitiveness Report- TTCR) đã xác định lữ hành và du lịch là một trong những ngành kinh tế lớn nhất của thế giới chiếm 10,3 % GDP của thế giới cung cấp 234 triệu việc làm chiếm 8,2 % tổng số việc làm của thế giới. Tại các nước đang phát triển tầm quan trọng của ngành du lịch ngày càng được đề cao và mở rộng phát triển về nông thôn tạo công ăn việc làm cho người lao động. Báo cáo TTCR đã xem xét ngành kinh tế du lịch của 124 nước với ba phạm trù lớn bao gồm : khung pháp lý (chính sách và luật pháp, các quy định về an ninh ,an toàn, ưu tiên của chính phủ về phát triển du lịch); môi trường kinh doanh và cơ sở hạ tầng (giao thông đường không, giao thông mặt đất, cơ sở hạ tầng du lịch, cơ sở hạ tầng thông tin và khả năng cạnh tranh về giá; nguồn lực về con người, văn hóa và nguồn lực tự nhiên (nguồn nhân lực, cảm nhận và nhận thức về du lịch quốc gia, nguồn lực tự nhiên và văn hóa) được thể hiện trong các bảng sau đây:

Trước mắt, mối đe dọa xuất phát từ khả năng cạnh tranh khốc liệt của các doanh nghiệp du lịch lớn trong khu vực do tận dụng tính kinh tế nhờ quy mô được giảm nhẹ phần nào vì VN vẫn có khả năng cạnh tranh về giá cả. Khả năng cạnh tranh về giá của VN chủ yếu dựa trên cơ sở nền sản xuất nhỏ có giá cả thấp, thường là đặc trưng của các nước có thu nhập thấp. Ở VN, khách du lịch sẽ cần một lượng USD thấp hơn để mua cùng một giỏ hàng hóa hoặc dịch vụ. Tuy nhiên, đối với các khoản chi phí chính liên quan tới du lịch, như phòng ngủ và vé máy bay, một khoản chi tiêu lớn nhất của khách du lịch, thì hai đối thủ cạnh tranh chính của VN là Malaysia và Thái Lan vẫn có mức giá cạnh tranh hơn VN. Mức độ cạnh tranh về giá phòng ngủ được xác định trên cơ sở chỉ số giá khách sạn. Thái Lan là nước cạnh tranh nhất về giá khách sạn trong khu vực. Một điểm đáng lưu ý là Thái Lan là nước hấp dẫn du lịch nhất trong khu vực, với thị phần lớn nhất. Mặc dù VN có mặt bằng giá cả chung thấp hơn Thái Lan, VN không cạnh tranh được về giá so với Thái Lan, xét trên phương diện giá của các loại chi phí du lịch chính.

Đánh giá và nhận xét chung về năng lực cạnh tranh điểm đến:

Qua phân tích thực trạng năng lực cạnh tranh điểm đến và phân tích điểm mạnh, yếu, cơ hội và những thách thức của du lịch VN trong sự so sánh với 3 nước trong khối ASEAN bao gồm Singapore, Malaysia, Thái Lan là những đối thủ cạnh tranh trực tiếp của du lịch VN chúng ta thấy rằng năng lực cạnh tranh chung của VN còn ở mức thấp 87/124 nước trong khi đó Singapore là 8/124, Malaysia là 31/124 và Thái Lan là 43/124. Và trong các tiêu chí mà chúng ta có thứ hạng cao hơn và là những thế mạnh của chúng ta là an ninh an toàn đạt vị trí 51/124 ; nguồn lực tự nhiên và văn hóa đạt 84/124 về tiêu chí này chúng ta đạt cao hơn Malaysia với vị trí 101/124 và chúng ta gần tương đương với Thái Lan 75/124. Tiếp theo chúng ta còn có thứ hạng cao đó là khả năng cạnh tranh về giá đạt vị trí 10/124 và  nhận thức về du lịch quốc gia đạt 76/124 nước. Còn năng lực cạnh tranh kém nhất của du lịch VN là quy định và chính sách 101/124, y tế và vệ sinh 94/124 và hạ tầng chung về du lịch xếp 121/124 nước có nghĩa là về hạ tầng du lịch chúng ta còn thiếu và yếu được xếp  ở cuối bảng xếp hạng.

Định hướng nâng cao năng lực cạnh tranh điểm đến du lịch VN

Đổi mới và không ngừng hoàn thiện khung pháp lý và các chính sách liên quan đến du lịch như chính sách tiền tệ, chính sách đầu tư, xuất nhập cảnh, hải quan theo hướng tạo mọi thuận lợi cho du khách.

Rà soát lại toàn bộ hệ thống quy phạm pháp luật để phát hiện những bộ luật nào chồng chéo, mâu thuẫn thì hủy bỏ, đổi mới và không ngừng hoàn thiện môi trường pháp lý và các chính sách liên quan đến du lịch như tỷ giá hối đoái, chính sách đầu tư, từng bước nới lỏng chính sách thị thực một cách hợp lý phù hợp với những cam kết của VN khi gia nhập WTO và luật Đạo đức du lịch thế giới của UNWTO theo hướng tạo điều kiện thuận lợi nhất cho du khách.

Xây dựng chiến lược cạnh tranh điểm đến cả trung và dài hạn để nâng cao năng lực cạnh tranh của VN như một điểm đến mới đầy hấp dẫn của khu vực và thế giới.

Trên cơ sở phân tích điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức của du lịch VN tiến hành xây dựng chiến lược marketing du lịch cho du lịch VN đến năm 2015 và tầm nhìn đến năm 2020; trong đó phải xác định được những thị trường du lịch trọng điểm, với thế mạnh về đa dạng sinh học, địa hình, bản sắc văn hóa và truyền thống lịch sử oai hùng xây dựng chiến lược sản phẩm du lịch theo hướng du lịch biển, du lịch sinh thái kết hợp với du lịch văn hóa, lịch sử để tạo ra những sản phẩm du lịch độc đáo hấp dẫn du khách của những thị trường trọng điểm này.

Đầu tư phát triển nguồn nhân lực du lịch để nâng cao tính chuyên nghiệp và nâng cao chất lượng dịch vụ.Có thể nói rằng, nguồn lực con người là yếu tố quan trọng nhất mang tính quyết định để nâng cao năng lực cạnh tranh, nâng cao chất lượng sản phẩm và chất lượng dịch vụ du lịch. Đó là đội ngũ lao động đủ về số lượng, cơ cấu hợp lý, cân đối, được đào tạo bài bản về chuyên môn, nghiệp vụ, có  tính chuyên nghiệp cao, có phẩm chất đạo đức tốt, yêu nghề.Muốn vậy Nhà nước phải tăng cường sự quản lý về công tác đào tạo, bồi dưỡng nhân lực du lịch, từng bước chuẩn hóa đội ngũ lao động trong ngành du lịch trong tất cả các lĩnh vực và ngành nghề du lịch theo yêu cầu thực tế ở trong nước, phù hợp với hệ thống tiêu chuẩn quốc tế trước hết là bộ tiêu chuẩn nghề của hiệp hội du lịch ASEAN để tạo điều kiện hội nhập quốc tế của đội ngũ lao động du lịch. Do vậy phải phát triển mạng lưới cơ sở đào tạo, bồi dưỡng với cơ sở vật chất tốt để đào tạo, bồi dưỡng đảm bảo sự cân đối giữa các cấp, bậc đào tạo, ngành nghề đào tạo và có sự phân bố hợp lý giữa các vùng miền; tăng cường huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn lực trong và ngoài nước nhất là dự án phát triển nguồn nhân lực du lịch VN do Ủy ban châu Âu tài trợ.

Đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng đặc biệt là cơ sở vật chất kỹ thuật của ngành du lịch với nhiều hình thức huy động vốn khác nhau. Qua đánh giá năng lực cạnh tranh ở phần trên chúng ta thấy rằng cơ sở hạ tầng du lịch còn thiếu và kém chất lượng nhất là thiếu trầm trọng các khách sạn cao cấp, các trung tâm hội nghị lớn, các trung tâm mua sắm, trung tâm vui chơi giải trí phục vụ khách du lịch MICE; còn thiếu nhiều đường bay thẳng đến với các nước đã làm cho phí máy bay cao hơn so với các nước trong khu vực. Do vậy Nhà nước phải có nhiều cơ chế, chính sách để khuyến khích và thu hút vốn đầu tư khác nhau từ các thành phần kinh tế để xây dựng cơ sở hạ tầng du lịch.

Xây dựng và phát triển hệ thống sản phẩm du lịch đa dạng và độc đáo mang đậm bản sắc văn hóa VN, đảm bảo phát triển du lịch bền vững.Tài nguyên du lịch VN rất đa dạng cả về tài nguyên thiên nhiên cũng như tài nguyên nhân văn nhưng do phát triển thiếu quy hoạch và định hướng do đó chúng  ta đã làm ảnh hưởng đến môi trường và phá vỡ tính gắn kết giữa tài nguyên nhân văn và tài nguyên thiên nhiên, chính điều này chúng ta làm mất đi những sản phẩmđộc đáo và mang đậm bản sắc văn hóa VN mà mới chỉ đạt ở mức độ khai thác những gì sẵn có, cho nên sản phẩm du lịch VN còn đơn điệu làm du khách quốc tế cảm nhận nhàm chán, điều này giải thích vì sao tỉ lệ du khách quốc tế trở lại lần thứ hai là rất thấp.Do vậy xây dựng sản phẩm du lịch đa dạng và độc đáo đảm bảo phát triển bền vững là nhân tố quan trọng để năng cao năng lực cạnh tranh của du lịch VN.

Đẩy mạnh công tác nghiên cứu thị trường, xây dựng thương hiệu điểm đến và hoạt động xúc tiến du lịch trên thị trường du lịch thế giới. Việc này đòi hỏi phải thực hiện một cách hệ thống đồng bộ từ nghiên cứu thị trường, xây dựng sản phẩm, chương trình du lịch, xây dựng thương hiệu cho đến quảng bá sản phẩm. Việc này cần phải thực hiện trên cơ sở phối hợp, hợp tác chặt chẽ giữa Tổng cục Du lịch, các sở văn hóa, thể thao và du lịch, các doanh nghiệp lữ hành, khách sạn nói riêng và các Bộ ban ngành khác nói chung thì công tác xúc tiến và quảng bá du lịch mới có hiệu quả.

Tham khảo:

[1] Diễn đàn kinh tế thế giới, Báo cáo cạnh tranh toàn cầu 2006.

[2] Viện nghiên cứu phát triển quản lý (IMD), Niên giám cạnh tranh thế giới 2005.

[3] Chỉ số cạnh tranh giá du lịch (TPCI) cho biết chỉ số giá du lịch của các quốc gia, trong đó giá trị chỉ số = 0 dành cho quốc gia ít có khả năng cạnh tranh nhất trong khi 100 là quốc gia có khả năng cạnh tranh mạnh nhất. Chỉ số này được tính bằng cách tổng hợp hai chỉ số là chỉ số giá khách sạn và chỉ số sức mua tương đương.

[4] Chỉ số giá khách sạn năm 2004. '0' đối với quốc gia rẻ nhất và '100' cho quốc gia đắt nhất.

[5] Chỉ số sức mua tương đương cho biết số Đô la Mỹ cần thiết để mua cùng một lượng hàng hoá dịch vụ ở thị trường trong nước tương đương với 1 Đô la Mỹ mua ở thị trường Mỹ năm 1991. Nguồn: Ngân hàng thế giới (2004), Các chỉ số phát triển thế giới.

[6] Chỉ số giá du lịch cho biết giá cả du lịch tại các quốc gia khác nhau. Nó cũng được tính toán dựa trên chỉ số gia khách sạn và chỉ số sức mua tương đương. '0' đối với quốc gia rẻ nhất và '100' cho quốc gia đắt nhất.

[7] Chỉ số cạnh tranh giá du lịch cho biết khả năng cạnh tranh về giá tương đối giữa các quốc gia. Chỉ số này được tính toán sử dụng chỉ số giá khách sạn và chỉ số ngang giá sức mua. Đó đơn giản là phép nghịch đảo của chỉ số giá du lịch với '0' là kém khả năng cạnh tranh về giá nhất và 100 là có khả năng cạnh tranh giá cao nhất.