Luận điểm nào thể hiện rõ nhất sáng tạo lý luận của Hồ Chí Minh tại sao

Tìm hiểu về những sáng tạo lý luận của Chủ tịch Hồ Chí Minh

5 Tháng Mười, 202013 Tháng Mười, 2020

Tư tưởng Hồ Chí Minh thuộc phạm trù của chủ nghĩa Mác – Lênin, mang bản chất khoa học và cách mạng. Cũng như chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống mở, luôn luôn được phát triển theo dòng chảy của chung của trí tuệ và cách mạng thế giới. Hồ Chí Minh là nhân vật hiếm có trên thế giới hiểu biết sâu sắc và vận dụng nhuần nhuyễn các giá trị tư tưởng, lý luận, văn hóa, đạo đức của Phương Đông và Phương Tây. Thành công của Chủ tịch Hồ Chí Minh chính là sự kết hợp giữa giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tinh hoa văn hóa của nhân loại và chủ nghĩa Mác – Lênin thông qua những phẩm chất tốt đẹp của Người.
Trên con đường ra đi tìm đường cứu nước, đứng trước Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh là nhiệm vụ tập hợp được sức mạnh của toàn dân tộc để đấu tranh giành lại nền độc lập dân tộc do thực dân Pháp đã cướp mất từ cuối thể kỷ thứ XIX. Con đường đấu tranh giành lại nền độc lập dân tộc của các dân tộc thuộc địa lúc đó chưa có sẵn. Bởi vậy, sự tìm tòi con đường cứu nước của Hồ Chí Minh phải dựa trên sự sáng tạo từ thực tiễn của đất nước và thời đại. Toàn bộ tư tưởng Hồ Chí Minh – hệ thống các quan điểm cơ bản và toàn diện và sâu sắc của cách mạng Việt Nam là sự sáng tạo vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Những sáng tạo lý luận cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh, có thể khái quát trong 10 vấn đề với các quan điểm và luận điểm cụ thể như sau:1. Về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người


– Hồ Chí Minh đã vận dụng, phát triển sáng tạo tư tưởng giải phóng giai cấp, giải phóng con người của chủ nghĩa Mác – Lênin trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, kết hợp nhuần nguyễn và sáng tạo vấn đề giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người trong cách mạng Việt Nam.
Hoàn cảnh lịch sử cho sự kết hợp đó là chủ nghĩa tư bản chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, trên thế giới xuất hiện vấn đề dân tộc thuộc địa; độc lập, tự do của các dân tộc trở thành vấn đề thời đại, mà C.Mác, F.Ăngghen chưa có điều kiện lịch sử để đề cập đến. Từ thực tiễn của nước Nga Sa hoàng và thế giới sau Cách mạng Tháng Mười, V.I. Lênin đã đề cập đến sự kết hợp giữa cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng vô sản trong “Sơ thảo lần thứ nhất Luận cương về các vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa”. Tiếc rằng trong những năm sau đó, V.I. Lênin chưa có nhiều điều kiện để cụ thể hóa và tổ chức thực hiện. Người nắm lấy và vận dụng sáng tạo tư tưởng đó là Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh.
Bối cảnh của sự vận dụng tư tưởng của V.I. Lênin là những khảo nghiệm trước đó của Hồ Chí Minh. Trên đường tiếp cận chân lý cứu nước, Hồ Chí Minh đã tìm hiểu Tuyên ngôn độc lập 1776 của nước Mỹ, Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền 1791 của cách mạng Pháp, hiểu rõ chân lý bất di bất dịch về quyền cơ bản của các dân tộc: “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”. Vì vậy, khi tiếp cận Luận cương của Lênin lần đầu tiên trên Báo Nhân Đạo của Đảng xã hội Pháp, số tháng 7-2020, Hồ Chí Minh đã coi “đây là cái cần thiết cho chúng ta” và khẳng định “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác cách mạng vô sản”.
– Sáng tạo nổi bật của Hồ Chí Minh là đặt mục tiêu giải phóng dân tộc lên trên hết và trước hết. Ngay trong những văn kiện đầu tiên của Đảng, Hồ Chí Minh đã viết về sự cần thiết phải tiến hành “trước làm cách mạng quốc gia (hiểu là cách mạng giải phóng dân tộc) sau làm cách mạng thế giới (tức cách mạng xã hội chủ nghĩa). Từ trong thực tế chỉ đạo cách mạng, năm 1941, khi thành lập Mặt trận Việt Minh, Người chỉ rõ: trong lúc này, phải đem sức ta mà giải phóng cho ta. Độc lập dân tộc lúc này mà không giành lại được, thì quyền lợi giai cấp ngàn vạn năm cũng không đòi lại được. Năm 1946, Người ra lời kêu toàn quốc kháng chiến: “…Thà hi sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ!”. Tư tưởng về việc đặt lợi ích dân tộc lên trên, lên trước được thể hiện cụ thể trong lời kêu gọi chống Mỹ cứu nước năm 1966 bằng một khẩu hiệu, mang một chân chân lý bất hủ, có giá trị cho mọi thời đại: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”.
– Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc có sự sáng tạo lớn, khi Người khẳng định chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc là một động lực lớn của đất nước. Năm 1924, từ sự phân tích đặc điểm giai cấp, dân tộc ở các nước phương Đông, Hồ Chí Minh khẳng định: Đối với các dân tộc thuộc địa ở phương Đông, “chủ nghĩa dân tộc là một động lực lớn của đất nước”; “người ta sẽ không thể làm gì được cho người An Nam nếu không dựa trên cái động lực vĩ đại và duy nhất trong đời sống của họ”. Người kiến nghị về Cương lĩnh hành động của Quốc tế Cộng sản: “Phát động chủ nghĩa dân tộc nhân danh Quốc tế Cộng sản … Khi chủ nghĩa dân tộc của họ thắng lợi … nhất định chủ nghĩa dân tộc ấy sẽ biến thành chủ nghĩa quốc tế”.
– Sáng tạo trong tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh vừa mang tính dân tộc, vừa mang tính thời đại và được chứng minh bằng thực tế thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Từ quan điểm chung: cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con đường của cách mạng vô sản; Cách mạng giải phóng dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng cách mạng, Hồ Chí Minh đã khẳng định: Cách mạng giải phóng dân tộc là sự nghiệp đoàn kết của toàn dân; “cách mạng không phải là việc riêng của một số người…”; cách mạng giải phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động, sáng tạo và có khả năng giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc; cách mạng giải phóng dân tộc phải được thực hiện bằng sự kết hợp lực lượng chính trị của quần chúng với lực lượng vũ trang trong nhân dân; được tiến hành dưới hình thức tổng khởi nghĩa toàn dân… Thắng lợi vĩ đại có ý nghĩa lịch sử của Cách mạng Tháng Tám và việc thành lập Nhà nước cộng hòa dân chủ Việt Nam, Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á đã khẳng định sự sáng tạo trong tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc của Hồ Chí Minh.

Tìm hiểu về những sáng tạo lý luận của Chủ tịch Hồ Chí Minh

Ngày phát hành: 28/05/2020 Lượt xem 32995


Tư tưởng Hồ Chí Minh thuộc phạm trù của chủ nghĩa Mác – Lênin, mang bản chất khoa học và cách mạng. Cũng như chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống mở, luôn luôn được phát triển theo dòng chảy của chung của trí tuệ và cách mạng thế giới. Hồ Chí Minh là nhân vật hiếm có trên thế giới hiểu biết sâu sắc và vận dụng nhuần nhuyễn các giá trị tư tưởng, lý luận, văn hóa, đạo đức của Phương Đông và Phương Tây. Thành công của Chủ tịch Hồ Chí Minh chính là sự kết hợp giữa giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tinh hoa văn hóa của nhân loại và chủ nghĩa Mác - Lênin thông qua những phẩm chất tốt đẹp của Người.
Trên con đường ra đi tìm đường cứu nước, đứng trước Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh là nhiệm vụ tập hợp được sức mạnh của toàn dân tộc để đấu tranh giành lại nền độc lập dân tộc do thực dân Pháp đã cướp mất từ cuối thể kỷ thứ XIX. Con đường đấu tranh giành lại nền độc lập dân tộc của các dân tộc thuộc địa lúc đó chưa có sẵn. Bởi vậy, sự tìm tòi con đường cứu nước của Hồ Chí Minh phải dựa trên sự sáng tạo từ thực tiễn của đất nước và thời đại. Toàn bộ tư tưởng Hồ Chí Minh - hệ thống các quan điểm cơ bản và toàn diện và sâu sắc của cách mạng Việt Nam là sự sáng tạo vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Những sáng tạo lý luận cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh, có thể khái quát trong 10 vấn đề với các quan điểm và luận điểm cụ thể như sau:


1. Về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người


- Hồ Chí Minh đã vận dụng, phát triển sáng tạo tư tưởng giải phóng giai cấp, giải phóng con người của chủ nghĩa Mác - Lênin trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, kết hợp nhuần nguyễn và sáng tạo vấn đề giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người trong cách mạng Việt Nam.
Hoàn cảnh lịch sử cho sự kết hợp đó là chủ nghĩa tư bản chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, trên thế giới xuất hiện vấn đề dân tộc thuộc địa; độc lập, tự do của các dân tộc trở thành vấn đề thời đại, mà C.Mác, F.Ăngghen chưa có điều kiện lịch sử để đề cập đến. Từ thực tiễn của nước Nga Sa hoàng và thế giới sau Cách mạng Tháng Mười, V.I. Lênin đã đề cập đến sự kết hợp giữa cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng vô sản trong “Sơ thảo lần thứ nhất Luận cương về các vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa”. Tiếc rằng trong những năm sau đó, V.I. Lênin chưa có nhiều điều kiện để cụ thể hóa và tổ chức thực hiện. Người nắm lấy và vận dụng sáng tạo tư tưởng đó là Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh.
Bối cảnh của sự vận dụng tư tưởng của V.I. Lênin là những khảo nghiệm trước đó của Hồ Chí Minh. Trên đường tiếp cận chân lý cứu nước, Hồ Chí Minh đã tìm hiểu Tuyên ngôn độc lập 1776 của nước Mỹ, Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền 1791 của cách mạng Pháp, hiểu rõ chân lý bất di bất dịch về quyền cơ bản của các dân tộc: “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”. Vì vậy, khi tiếp cận Luận cương của Lênin lần đầu tiên trên Báo Nhân Đạo của Đảng xã hội Pháp, số tháng 7-2020, Hồ Chí Minh đã coi “đây là cái cần thiết cho chúng ta” và khẳng định “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác cách mạng vô sản”.
- Sáng tạo nổi bật của Hồ Chí Minh là đặt mục tiêu giải phóng dân tộc lên trên hết và trước hết. Ngay trong những văn kiện đầu tiên của Đảng, Hồ Chí Minh đã viết về sự cần thiết phải tiến hành "trước làm cách mạng quốc gia (hiểu là cách mạng giải phóng dân tộc) sau làm cách mạng thế giới (tức cách mạng xã hội chủ nghĩa). Từ trong thực tế chỉ đạo cách mạng, năm 1941, khi thành lập Mặt trận Việt Minh, Người chỉ rõ: trong lúc này, phải đem sức ta mà giải phóng cho ta. Độc lập dân tộc lúc này mà không giành lại được, thì quyền lợi giai cấp ngàn vạn năm cũng không đòi lại được. Năm 1946, Người ra lời kêu toàn quốc kháng chiến: “...Thà hi sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ!”. Tư tưởng về việc đặt lợi ích dân tộc lên trên, lên trước được thể hiện cụ thể trong lời kêu gọi chống Mỹ cứu nước năm 1966 bằng một khẩu hiệu, mang một chân chân lý bất hủ, có giá trị cho mọi thời đại: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”.
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc có sự sáng tạo lớn, khi Người khẳng định chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc là một động lực lớn của đất nước. Năm 1924, từ sự phân tích đặc điểm giai cấp, dân tộc ở các nước phương Đông, Hồ Chí Minh khẳng định: Đối với các dân tộc thuộc địa ở phương Đông, “chủ nghĩa dân tộc là một động lực lớn của đất nước”; “người ta sẽ không thể làm gì được cho người An Nam nếu không dựa trên cái động lực vĩ đại và duy nhất trong đời sống của họ”. Người kiến nghị về Cương lĩnh hành động của Quốc tế Cộng sản: “Phát động chủ nghĩa dân tộc nhân danh Quốc tế Cộng sản … Khi chủ nghĩa dân tộc của họ thắng lợi … nhất định chủ nghĩa dân tộc ấy sẽ biến thành chủ nghĩa quốc tế”.
- Sáng tạo trong tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh vừa mang tính dân tộc, vừa mang tính thời đại và được chứng minh bằng thực tế thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Từ quan điểm chung: cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con đường của cách mạng vô sản; Cách mạng giải phóng dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng cách mạng, Hồ Chí Minh đã khẳng định: Cách mạng giải phóng dân tộc là sự nghiệp đoàn kết của toàn dân; “cách mạng không phải là việc riêng của một số người…”; cách mạng giải phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động, sáng tạo và có khả năng giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc; cách mạng giải phóng dân tộc phải được thực hiện bằng sự kết hợp lực lượng chính trị của quần chúng với lực lượng vũ trang trong nhân dân; được tiến hành dưới hình thức tổng khởi nghĩa toàn dân… Thắng lợi vĩ đại có ý nghĩa lịch sử của Cách mạng Tháng Tám và việc thành lập Nhà nước cộng hòa dân chủ Việt Nam, Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á đã khẳng định sự sáng tạo trong tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc của Hồ Chí Minh.


2. Về sức mạnh của nhân dân, của khối đại đoàn kết toàn dân tộc


- Thấm nhuần các giá trị truyền thống của dân tộc, tiếp thu có chọn lọc các quan điểm tư tưởng trong lịch sử và hiện đại trên thế giới, Hồ Chí Minh có quan niệm đầy đủ và rõ ràng về sức mạnh của nhân dân. Người khẳng định: Nhân dân là nguồn gốc của mọi sức mạnh; có dân là có tất cả; "dễ mười lần không dân cũng chịu, Khó trăm lần dân liệu cũng xong". Người coi tập hợp được toàn thể nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng là nguyên nhân chính của mọi thắng lợi của cách mạng. Sức mạnh của dân tộc được tập hợp trong mặt trận dân tộc thống nhất và trong thời đại mới, sự đoàn kết toàn dân tộc gắn với mối quan hệ với đoàn kết quốc tế.
- Từ quan điểm về sức mạnh của nhân dân, Hồ Chí Minh nhấn mạnh quan điểm đoàn kết toàn dân. Người nhấn mạnh:“ Đoàn kết làm ra sức mạnh”; “Đoàn kết là là thắng lợi”; “Đoàn kết là then chốt của thành công”; "Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết, Thành công, thành công, đại thành công". Trong tổ chức thực hiện, Người dạy: “Đoàn kết” là điểm mẹ. Điểm này mà thực hiện tốt thì đẻ ra con cháu đều tốt ”. Đại đoàn kết toàn dân trong tư tưởng Hồ Chí Minh trở thành mục đích của Đảng. Phát biểu trong buổi ra hoạt động công khai của Đảng, Người nói: Mục đích của Đảng Lao động Việt Nam gồm 8 chữ là “đoàn kết toàn dân, phụng sự Tổ quốc”. Đó là sự thể hiện tập trung nhất của tư tưởng: “¬¬¬¬¬¬¬¬¬Ta đoàn kết để đấu tranh cho thống nhất và độc lập của Tổ quốc; ta còn đoàn kết để xây dựng nước nhà. Ai có tài, có đức, có sức, có lòng phụng sự Tổ quốc và phục vụ nhân dân thì ta đoàn kết với họ”.
- Tư tưởng về xây dựng Mặt trận dân tộc thống nhất để đại đoàn kết toàn dân tộc là một sự sáng tạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Người chủ trương: Mặt trận hoạt động theo nguyên tắc hiệp thương dân chủ, lấy việc thống nhất lợi ích tối cao của dân tộc với lợi ích của các tầng lớp nhân dân làm cơ sở để củng cố và không ngừng mở rộng. Đoàn kết trong Mặt trận là "Đoàn kết lâu dài, chặt chẽ, đoàn kết thật sự, chân thành, thân ái giúp đỡ nhau cùng tiến bộ". Phương châm đoàn kết các giai cấp, tầng lớp khác nhau của Hồ Chí Minh là “cầu đồng tồn dị”. Đảng là bộ phận của Mặt trận, vừa là lực lượng lãnh đạo Mặt trận, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân ngày càng vững chắc. Và "muốn quy tụ được cả dân tộc, “Đảng Cộng sản phải tiêu biểu cho trí tuệ, danh dự, lương tâm của dân tộc và thời đại”; “ Đảng phải thực sự đoàn kết nhất trí”; “được nhân dân thừa nhận”. “Công tác Mặt trận là một công tác rất quan trọng trong toàn bộ công tác cách mạng”.
- Sáng tạo của Hồ Chí Minh trong đại đoàn kết toàn dân được mở rộng trong sự kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Trong thời đại đế quốc chủ nghĩa, sự bóc lột và thống trị của chủ nghĩa đến quốc đã làm cho cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng vô sản trên thế giới gắn kết với nhau, để “chặt đứt cả hai cái vòi của chủ nghĩa đế quốc”…Vì vậy, giải quyết vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp phải kết hợp chặt chẽ chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế vô sản. Mỗi dân tộc đều phải giữ vững độc lập tự chủ, dựa vào sức mình là chính, tranh thủ sự giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa, sự ủng hộ của nhân loại tiến bộ, đồng thời không quên nghĩa vụ quốc tế cao cả của mình. Trong đoàn kết quốc tế, cần phân biệt chính quyền và nhân dân các nước đế quốc, để đoàn kết với nhân dân thế giới vì hòa bình, tiến bộ và mở rộng tối đa quan hệ hữu nghị, hợp tác, sẵn sàng làm bạn với tất cả các nước dân chủ trên thế giới.


3. Về xây dựng Nhà nước thật sự của dân, do dân, vì dân


- Quan điểm xây dựng Nhà nước cộng hòa dân chủ Việt Nam là một sáng tạo lớn trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Nghiên cứu lịch sử xây dựng nhà nước độc lập dân tộc từ khi đức vua Ngô Quyền giành lại được nền độc lập, Hồ Chí Minh đã tiếp thu và khẳng định đặc trưng độc lập, tự chủ của Nhà nước Việt Nam. Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã trực tiếp, đến tận nơi nghiên cứu các kiểu nhà nước dân chủ tư sản ở Mỹ và Pháp, nhà nước Xô viết của Liên Xô và lựa chọn hình thức Nhà nước cộng hòa, dân chủ, nhân dân ở Việt Nam. Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước thống nhất với mục tiêu của cách mạng do Đảng lãnh đạo. Năm 1945 là Nhà nước: "Dân chủ, cộng hòa, độc lập, tự do, hạnh phúc". Tại Đại hội II năm 1951, mục tiêu đấu tranh của Đảng là xây dựng một nước Việt Nam "độc lập, hòa bình, dân chủ, phú cường". Trong Di chúc, được Người viết từ năm 1965 đến năm 1969, mục tiêu đấu tranh được thể hiện trong "mong muốn cuối cùng" của Người là: xây dựng một nước Việt Nam "Hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh". Mục tiêu cụ thể của ba thời điểm nêu trên có khác nhau do từng hoàn cảnh, nhưng các đặc trưng: độc lập, dân chủ, hạnh phúc (phú cường, giàu mạnh) đều được nhắc đến.
- Về bản chất của Nhà nước, sáng tạo của Hồ Chí Minh tập trung trong bản chất nhân dân của nhà nước. Sau Cách mạng Tháng Tám thành công, nhà nước cách mạng ra đời, Hồ Chí Minh khẳng định: “Nước ta là nước dân chủ. Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân.. . chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương đều do dân cử ra. Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”. Bản chất nhân dân của Nhà nước không mâu thuẫn với bản chất giai cấp và tính dân tộc. Hồ Chí Minh khẳng định: “Tính chất nhà nước là vấn đề cơ bản của Hiến pháp. Nhà nước của ta là nhà nước dân chủ nhân dân, dựa trên nền tảng liên minh công nông, do giai cấp công nhân lãnh đạo". Giải thích về bản chất giai cấp công nhân và sự thống nhất, hài hoà giữa bản chất giai cấp công nhân với tính nhân dân, tính dân tộc của Nhà nước, Người viết: (1). Giai cấp công nhân không có lợi ích nào khác ngoài lợi ích của dân tộc và chỉ có giải phóng dân tộc mới giải phóng được giai cấp công nhân một cách triệt để. (2). Nhà nước dân chủ mới của ta ra đời là kết quả của cuộc đấu tranh lâu dài, gian khổ với sự hy sinh gương mẫu của bao thế hệ cách mạng trong toàn dân tộc. (3). Nhà nước ta bảo vệ lợi ích của nhân dân, lấy lợi ích của dân tộc làm nền tảng. Chính phủ do Hồ Chí Minh đứng đầu luôn luôn là Chính phủ đại đoàn kết dân tộc. (4). Nhà nước ta vừa ra đời đã phải đảm nhiệm nhiệm vụ lịch sử là tổ chức cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện của dân tộc để bảo vệ thành quả của cách mạng…
- Tư tưởng xây dựng một nhà nước pháp quyền có hiệu lực pháp lý mạnh mẽ của Hồ Chí Minh được thể hiện rất rõ, ngay từ năm 1919, trong Yêu sách tám điểm gửi Hội nghị Véc-xai (bản yêu sách này sau đó được Người dịch ra tiếng Việt theo thể thơ lục bát, chuyển về phổ biến rộng rãi với đồng bào trong nước dưới nhan đề “Việt Nam yêu cầu ca” trong đó có có hai câu thơ:“Bảy xin Hiến pháp ban hành/Trăm điều phải có thần linh pháp quyền”. Sau cách mạng Tháng Tám, người chủ trương xây dựng một nhà nước có hiệu lực pháp lý mạnh mẽ, trước hết phải là một nhà nước hợp hiến, Người chủ trương bầu cử Quốc hội theo hình thức phổ thông đầu phiếu “càng sớm càng tốt".
Trong quản lý xã hội, Nhà nước phải tiến hành quyền lực quản lý đất nước bằng pháp luật và phải làm cho pháp luật có hiệu lực trong thực tế. Dân chủ và pháp luật phải luôn luôn đi đôi với nhau. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước pháp quyền mạnh mẽ, có hiệu lực, phải nhanh chóng đào tạo, bồi dưỡng nhằm hình thành một đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước có trình độ văn hoá, am hiểu pháp luật, thành thạo nghiệp vụ hành chính và nhất là phải có đạo đức cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư “phụng công, thủ pháp”. Phải tăng cường pháp luật đi đôi với đẩy mạnh giáo dục đạo đức; kiên quyết chống ba thứ "giặc nội xâm" là tham ô, lãng phí, quan liêu.


4. Về xây dựng lực lượng cách mạng


- Điểm nổi bật thể hiện sự sáng tạo trong tư tưởng Hồ Chí Minh là xây dựng lực lượng cách mạng trong toàn dân tộc. Trong quan niệm của C. Mác, F. Angghen, lực lượng cách mạng trong cách mạng vô sản là công nhân; từ sau Công xã Paris là công nhân và nông dân. Với V. I. Lênin, trong Cách mạng Tháng Mười Nga là công nhân, nông dân và binh lính, trong chủ trương thành lập xô viết trong công nhân, nông dân và binh lính. Với Hồ Chí Minh, từ sự phân tích xã hội Việt Nam, khi độc lập dân tộc bị cướp mất, thì cả dân tộc Việt Nam, bao gồm tất cả các giai cấp, tầng lớp đều là người nô lệ, "vong quốc nô”. Trừ một số phản động, tay sai cho ngoại bang, tất cả mọi người dân Việt Nam đều có mâu thuẫn đối với sự cai trị của thực dân Pháp. Từ niềm tin về "hễ là người Việt Nam thì ai ai cũng ít nhiều đều có lòng yêu nước”, Người chủ trương xây dựng lực lượng cách mạng trong toàn dân tộc. Trong lực lượng cách mạng toàn dân tộc, Hồ Chí Minh khẳng định nòng cốt, chủ lực là công - nông và lao động trí óc (trí thức). Theo Người đó là những lực lượng trung kiên nhất của cách mạng, gan góc đấu tranh, không sợ hy sinh gian khổ. Từ lực lượng chủ lực, nòng cốt của cách mạng lôi cuốn toàn dân tộc tham gia cuộc đấu tranh giải phóng. Đó là sự phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin của Chủ tịch Hồ Chí Minh về lực lượng cách mạng ở Việt Nam.
Trong xây dựng lực lượng cách mạng, sáng tạo của Hồ Chí Minh thể hiện rõ trong sự quan tâm xây dựng lực lượng chính trị của quần chúng và lực lượng vũ trang nhân dân. Đó là hai hai lực lượng chủ yếu tiến hành khởi nghĩa và chiến tranh cách mạng. Sự phối hợp chặt chẽ và bổ sung cho nhau của hai lực lượng đó tạo nên sức mạnh tổng hợp của khởi nghĩa giành chính quyền và chiến tranh cách mạng bảo vệ nền độc lập.


5. Về tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh
- Sáng tạo nổi bật trong tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh là về xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng. Phân tích sự cai trị của thực dân Pháp ở Đông Dương được thực hiện bằng bạo lực, đàn áp đẫm máu những người yêu nước, phản kháng lại sự cai trị đó, Hồ Chí Minh đi đến khẳng định: cần dùng bạo lực cách mạng để chống lại bạo lực phản cách mạng dưới hình thức cuộc khởi nghĩa toàn dân giành chính quyền. Lực lượng thực hiện cuộc khởi nghĩa đó là lực lượng chính trị của quần chúng kết hợp với lực lượng vũ trang được xây dựng trong các phong trào của quần chúng. Trong cao trào cách mạng giải phóng dân tộc 1941-1945, đầu tiên, Hồ Chí Minh lựa chọn những du kích tham gia khởi nghĩa Bắc Sơn lập ra đội tự vệ. Năm 1944 Người chỉ đạo thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, xác định nhiệm vụ chủ yếu là tuyên truyền, vận động quần chúng, làm chỗ dựa cho quần chúng đấu tranh cùng với nhiệm vụ chiến đấu, bảo vệ cách mạng. Thực tiễn Cách mạng Tháng Tám năm 1945, trong 12 ngày với sức mạnh áp đảo của quần chúng kết hợp với lực lượng vũ trang hỗ trợ, chúng ta đã giành được chính quyền trong cả nước và hầu như không phải sử dụng đến vũ khí, không đổ máu, chết người...
- Sau Cách mạng Tháng Tám, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời, tư tưởng quân sự trong xây dựng quân đội quốc gia Việt Nam của Hồ Chí Minh là kết hợp giữa chính trị và quân sự. Người khẳng định: "Quân sự mà không có chính trị như cây không có gốc, vô dụng, lại có hại". Người đặc biệt quan tâm đến xây dựng sức mạnh tinh thần, giác ngộ của quân đội với quan điểm “người trước, súng sau”. Quân đội nhân dân Việt Nam ra đời từ Đội Việt Nam tuyên truyền, giải phóng quân, kết hợp nhiệm vụ tuyên truyền và nhiệm vụ chiến đấu, gắn bó chặt chẽ với nhân dân, thực sự là đội quân “từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu”…
- Sáng tạo trong tư tưởng quân sự nổi bật của Hồ Chí Minh thể hiện trong quan điểm xây dựng căn cứ địa, xây dựng hậu phương, chiến tranh nhân dân và xây nền quốc phòng toàn dân. Điểm nổi bật trong tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng căn cứ địa cách mạng là "trận địa lòng dân", "có dân là có tất cả", nơi ở "gần dân không gần đường". Trong quá trình đấu tranh giành chính quyền, từ bản Cốc Pó, căn cứ địa của cách mạng đã không ngừng được mở rộng, trở thành vùng rộng lớn Cao - Bắc - Lạng, Thái - Hà - Tuyên, cùng với các "an toàn khu" ngay sát các đô thị lớn, làm cơ sở cho tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Với tầm nhìn xa rộng, sau Cách mạng Tháng Tám, các cơ quan đảng, chính phủ, đoàn thể chuyển về Hà Nội, Người đã cử đồng chí Phạm Văn Đồng ở lại Tuyên Quang để xây dựng căn cứ địa "nhờ đồng bào một lần nữa" trong cuộc kháng chiến chống Pháp 1946-1954. Trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Đại hội III của Đảng, tháng 9 năm 1960 đã xác định xây dựng miền Bắc xã hội chủ nghĩa làm hậu phương lớn cho tiền tuyến lớn miền Nam đấu tranh cho sự nghiệp thống nhất nước nhà.
- Sáng tạo trong tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh còn thể hiện rõ trong tư tưởng chỉ đạo “dám đánh, quyết đánh, biết đánh”. Đứng trước sức mạnh quân sự hùng hậu của thực dân Pháp vào năm 1946 hay sự hung hăng, tàn bạo của đế quốc Mỹ năm 1966, Hồ Chí Minh không hề nao núng, khẳng định quyết tâm chiến thắng cuộc chiến tranh phi nghĩa, xâm lược của chúng với tinh thần “thà hy sinh tất cả chứ không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ”; “…Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố xí nghiệp có thể bị tàn phá. Song nhân dân Việt Nam quyết không sợ, Không có gì quý hơn độc lập tự do”… Đó là tư tưởng sáng tạo của chiến tranh nhân dân “trường kỳ kháng chiến”, “vừa kháng chiến, vừa kiến quốc”; "lấy yếu đánh mạnh", "lấy ít đánh nhiều", "lấy nhỏ đánh lớn"; “càng đánh càng mạnh, càng đánh càng thắng”. Trong đánh địch, với truyền thống lấy đại nghĩa thắng hung tàn của dân tộc, Người không cho rằng trận thắng mà để chết nhiều người (cả ta và địch) là trận thắng hay; đề cao công tác địch vận, “đánh mà chiếm được đồn là giỏi, nhưng không đánh mà chiếm được đồn thì còn giỏi hơn…”
- Sáng tạo trong tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh còn thể hiện trong khởi đầu, kết thúc chiến tranh và con đương đi đến thắng lợi. Biểu hiện đầy đủ nhất của tư tưởng này là các câu thơ trong bài thơ chúc tết năm 1969: Vì độc lập, vì tự do, Đánh cho Mỹ cút, đánh cho Ngụy nhào. Tiến lên chiến sỹ đồng bào, Bắc Nam sum họp Xuân nào vui hơn. Thực tế giai đoạn cuối của cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước dã diễn ra đúng như thế.


6. Về phát triển kinh tế trong thời kỳ quá độ


- Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định vai trò quan trọng của phát triển kinh tế ngay sau Cách mạng Tháng Tám qua câu nói: “Độc lập mà dân vẫn đói khổ thì độc lập cũng chẳng để làm gì”. Đó là sự diễn đạt mới về mục đích, nhiệm vụ phát triển kinh tế là đảm bảo và không ngừng cải thiện, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân. Xuất phát từ đặc điểm của thời quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, khi mức sống của nhân dân còn rất thấp và con người là lực lượng sản xuất chủ yếu nhất, Người chủ trương: “Phát triển kinh tế đến đâu, cải thiện đời sống nhân dân đến đấy”.
- Trong bối cảnh cơ chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung đang được đề cao và thực hiện phổ biến, đồng loạt ở Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa khác, Hồ Chí Minh đã khẳng định sự tồn tại của các thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ. Người viết: “Nền kinh tế Việt Nam tồn tại bốn hình thức sở hữu chính: Sở hữu của Nhà nước tức là của toàn dân; sở hữu của hợp tác xã tức là sở hữu tập thể của nhân dân lao động; sở hữu của người lao động riêng lẻ; tư liệu sản xuất thuộc sở hữu của nhà tư bản”. “Trong chế độ dân chủ mới, có năm loại kinh tế khác nhau: A- Kinh tế quốc doanh (thuộc chủ nghĩa xã hội, vì nó là của chung của nhân dân). B- Các hợp tác xã (nó là nửa chủ nghĩa xã hội, và sẽ tiến đến chủ nghĩa xã hội). C- Kinh tế của cá nhân, nông dân và thủ công nghiệp (có thể tiến dần vào hợp tác xã, tức là nửa chủ nghĩa xã hội). D- Tư bản của tư nhân. E- Tư bản của Nhà nước (như Nhà nước hùn vốn với tư bản tư nhân để kinh doanh). Nói về nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ, Người đã sớm nhấn mạnh vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước và định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế quá độ, khi viết: “Trong năm loại ấy, loại A là kinh tế lãnh đạo và phát triển mau hơn cả. Cho nên kinh tế ta sẽ phát triển theo hướng chủ nghĩa xã hội chứ không theo hướng chủ nghĩa tư bản”.
- Điểm sáng tạo trong tư tưởng kinh tế Hồ Chí Minh là sự nhấn mạnh về tiết kiệm trong sản xuất và tiêu dùng, tăng gia sản xuất phải đi đôi với thực hành tiết kiệm. Người coi “Tăng gia sản xuất và thực hành tiết kiệm là con đường đi đến xây dựng thắng lợi chủ nghĩa xã hội, xây dựng hạnh phúc cho nhân dân. Tăng gia là tay phải của hạnh phúc, tiết kiệm là tay trái của hạnh phúc”. Điểm nổi bật là tư tưởng của Người về chống tham ô, lãng phí, quan liêu trong nền kinh tế, coi đó là những “giặc nội xâm”, đồng minh với giặc ngoại xâm.


7. Sáng tạo trong tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa
- Là “nhà văn hóa lớn kiệt xuất trên thế giới”, qua nghiên cứu, tích lũy trong cuộc đời bôn ba khắp 4 phương trời, ngay từ năm 1943, trong những trang cuối của cuốn Nhật ký trong tù, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có một định nghĩa đầy đủ về văn hóa. Người viết: "Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra những ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hoá. Văn hoá là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng với nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn". Điều thú vị là định nghĩa văn hóa của UNESCO mãi sau này mới có, có nội dung cơ bản giống như định nghĩa văn hóa do Hồ Chí Minh nêu ra từ năm 1943. Trong những bài viết trước cách mạng Tháng Tám, Người đã chỉ ra những đặc trưng cơ bản nhất của nền văn hóa Việt Nam là “dân tộc, khoa học, đại chúng”, bao quát cả truyền thống và cách mạng của nền văn hóa mới.
- Khi trở thành lãnh tụ, lãnh đạo đất nước, Người nhấn mạnh: Văn hóa là một trong 4 lĩnh vực luôn luôn phải quan tâm thực hiện: chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội”; Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội; “Văn hóa soi đường quốc dân đi”. Yêu nước là nấc thang giá trị cao nhất của dân tộc Việt Nam và của nền văn hoá Việt Nam. Với các lĩnh vực hoạt động của văn hóa, Người coi "văn hoá, nghệ thuật cũng như mọi hoạt động khác không thể đứng ngoài, mà phải ở trong kinh tế và chính trị"; “văn hóa là một mặt trận và anh chị em văn nghệ sỹ là chiến sỹ trên mặt trận ấy”.


8. Về đạo đức cách mạng cần kiệm, liêm chính, chí công, vô tư trong tư tưởng Hồ Chí Minh
- Vận dụng các tư tưởng đạo đức tốt đẹp của dân tộc và nhân loại là sáng tạo nổi bật của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong tư tưởng về đạo đức. Khẳng định vai trò quan trọng hàng đầu của đạo đức, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ các bậc vĩ nhân trong lịch sử nhân loại, như Đức Phật Thích ca, Chúa Gie-su, Khổng tử, Lênin, Găng-đi, Tôn Dật tiên…đều là những con người mẫu mực về đạo đức, cống hiến cuộc sống của mình cho loài người. Vận dụng những giá trị đạo đức truyền thống của nhân loại, kết hợp với đạo đức cộng sản, Người khẳng định vai trò quan trong hàng đầu của đạo đức: Đạo đức là gốc, “như gốc của cây, ngọn nguồn của sông suối”; đạo đức là chỗ dựa của con người chân chính, khi có đạo đức thì “giàu sang không quyến rũ, nghèo khó không chuyển lay, uy vũ không khuất phục”. Ngược lại, “người không có đạo đức thì không làm nổi việc gì”...
- Kết hợp những giá trị đạo đức truyền thống với đạo đức cộng sản Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đúc kết nên những phẩm chất đạo đức cơ bản của con người Việt Nam thời đại mới. Từ quan niệm đạo đức của Nho giáo “trung quân ái quốc, hiếu đễ với cha mẹ”, Người nêu giá trị đạo đức mới là: Trung với nước, hiếu với dân. Từ truyền thống “bầu ơi thương lấy bí cùng” của dân tộc, Người khẳng định phẩm chất đạo đức “Yêu thương con người, sống có nghĩa có tình” của người cách mạng. Kế thừa giá trị đạo đức trong Nho giáo về “tu thân”, Người khẳng định, trong quan hệ đối với mình, ai ai cũng phải “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”. Trong điều kiện của thời đại mới, người cách mạng phải có tinh thần quốc tế quốc tế trong sáng… Những phẩm chất đạo đức mới do Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu lên trên đây thể hiện sự vận dụng sáng tạo những tư tưởng đạo đức truyền thống và hiện tại, làm khuôn mẫu ứng xử trong quan hệ với mình, với người, với việc của mỗi con người.
- Không chỉ nêu những tư tưởng về phẩm chất đạo đức, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn chỉ rõ những nguyên tắc xây dựng đạo đức mới. Đó là “Nói đi đôi với làm”; “Phải nêu gương về đạo đức”; “Xây đi đối với chống” và “Phải tu dưỡng đạo đức suốt đời”. Về sự cần thiết phải tu dưỡng đạo đức suốt đời, Người viết: “Một đảng, một dân tộc và mỗi con người ngày hôm qua là vĩ đại được mọi người yêu mến và ca ngợi không có nghĩa là hôm nay vẫn được yêu mến và ca ngợi nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”.


9. Về giáo dục, chăm lo bồi dưỡng các thế hệ cách mạng cho đời sau


- Thấm nhuần truyền thống dân tộc và được giáo dục trong môi trường gia đình, cả ông ngoại và cha đẻ cùng làm nghề dạy học, Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định rất rõ vị trí, vai trò của giáo dục. Khi lãnh nhiệm vụ Chủ tịch nước, Người đặt việc “chống giặc dốt” cũng cần như chống giặc đói và giặc ngoại xâm, khi khẳng định “một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”. Người coi nâng cao dân trí và bồi dưỡng nhân tài là một trong những công việc phải thực hiện cấp tốc trong lúc đó vì "Nước nhà cần phải kiến thiết. Kiến thiết cần phải có nhân tài"; “Không có giáo dục, không có cán bộ thì cũng không nói gì đến kinh tế văn hoá. Trong việc đào tạo cán bộ, giáo dục là bước đầu"... Ở mức độ cao hơn, nói về vai trò của giáo dục trong sự chấn hưng dân tộc, trong thư Người gửi học sinh nhân ngày khai trường đầu tiên của nước Việt Nam mới, tháng 9-1945, có đoạn: “Non sông Việt Nam có trở nên vẻ vang hay không, dân tộc Việt Nam có bước lên đài vinh quang sánh vai với cường quốc năm châu hay không, điều đó phần lớn phụ thuộc vào công học tập của các em”.
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của thế hệ trẻ với cách mạng và sự phát triển của dân tộc thể hiện sự sáng tạo mới. Người cho rằng thế hệ trẻ là lực lượng quyết định sự phát triển của cách mạng, của dân tộc, khi ví: “một năm bắt đầu từ mùa xuân, một đời người bắt đầu từ tuổi trẻ. Tuổi trẻ là mùa xuân của dân tộc”. Người yêu cầu thế hệ trẻ phải vươn mình lên để hoàn thành trọng trách lịch sử đó đồng thời Đảng phải có trách nhiệm bồi dưỡng thế hệ trẻ của Đảng.
Điểm đáng chú ý trong tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục, bắt nguồn từ thực tiễn kinh nghiệm của Người để quan tâm đến đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cho Đảng, cho cách mạng, cử học sinh đi ra nước ngoài học tập. Trong giai đoạn 1927-1941, tranh thủ sự hỗ trợ của Quốc tế Cộng sản, Người đã gửi được một số thanh niên ưu tú sang học trường Đại học Phương Đông ở Liên Xô. Sau chiến dịch Biên giới năm 1950 và thiết lập quan hệ ngoại giao với các nước xã hội chủ nghĩa, trong những năm cuối của cuộc kháng chiến chống Pháp, Người đã gửi nhiều học sinh đi du học ở các nước xã hội chủ nghĩa, nhất là ở Trung Quốc và Liên Xô. Trong kháng chiến chống Mỹ, một số đông học sinh được gửi sang học tại các nước xã hội chủ nghĩa, trở thành lực lượng cán bộ khoa học, kỹ thuật nòng cốt trong xây dựng đất nước sau chiến tranh và làm cầu nối hữu nghị với các nước thuộc Liên Xô cũ, Đông Âu, dù cho chế độ xã hội ở các nước này đã thay đổi. Những năm 60 của thế kỷ trước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ đạo thành lập nhiều trường học sinh miền Nam trên miền Bắc, đưa nhiều con em các cán bộ lãnh đạo đang chiến đấu ở miền Nam ra miền Bắc đào tạo. Đây là lực lượng cán bộ rất quý báu xây dựng miền Nam sau ngày giải phóng 30.4.1975.
- Biểu hiện tập trung nhất trong tư tưởng Hồ Chí Minh về đào tạo, bồi dưỡng các thế hệ cách mạng cho đời sau là lời dặn của Người trong bản Di chúc nổi tiếng: “ĐOÀN VIÊN VÀ THANH NIÊN ta nói chung là tốt, mọi việc đều hăng hái xung phong, không ngại khó khăn, có chí tiến thủ. Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng” vừa “chuyên”. Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết”.


10. Sáng tạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đảng cộng sản và công tác xây dựng Đảng
- Nhờ có sự sáng tạo của Hồ Chí Minh về điều kiện ra đời của đảng cộng sản ở các nước thuộc địa như Việt Nam đã dẫn đến sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1930. Luận điểm chung của chủ nghĩa Mác - Lênin là: đảng cộng sản ra đời là sự kết hợp giữa phong trào công nhân và chủ nghĩa Mác - Lênin. Trong điều kiện Việt Nam, giai cấp công nhân còn nhỏ bé, phong trào yêu nước đang tập hợp được tất cả các giai cấp, tầng lớp nhân dân tham gia chống Pháp, để thành lập được đảng cộng sản phải bắt đầu từ sự truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào phong trào yêu nước, vào giai cấp công nhân, giác ngộ họ, hình thành các tổ chức cộng sản. Sau này, Người tổng kết: Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là “sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin, phong trào công nhân và phong trào yêu nước”.
- Từ đặc điểm, hoàn cảnh ra đời và nhiệm vụ hàng đầu đặt ra đối với Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặt tên Đảng là Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng Lao động Việt Nam, khẳng định là “Đảng của giai cấp công nhân, đồng thời là đảng của dân tộc Việt Nam”; “Đảng ta là con nòi của dân tộc”. Mục đích của Đảng được Người khẳng định gồm 8 chữ là: “Đoàn kết toàn dân, phụng sự Tổ quốc”.
- Tư tưởng về các nguyên tắc xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam của Hồ Chí Minh là sự vận dụng sáng tạo các nguyên tắc xây dựng đảng kiểu mới của của V.I. Lênin. Người nêu rõ 5 nguyên tắc xây dựng Đảng là: (1) Tập trung dân chủ. (2) Tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. (3) Tự phê bình và phê bình. (4) Kỷ luật nghiêm minh và tự giác. (5) Đoàn kết thống nhất trong Đảng. Đặc biệt, Người rất đề cao xây dựng Đảng về đạo đức, xác định mục tiêu xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức, để Đảng thực sự “là đạo đức, là văn minh”.
- Luận điểm về tự chỉnh đốn, tự đổi mới của Đảng là một điểm sáng tạo mới, thống nhất trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Xuất phát từ điều kiện của một xã hội quá độ từ sản xuất nhỏ, lạc hậu đi lên, Người chỉ rõ: Đảng ta như cơ thể sống, tồn tại trong xã hội, không thể không chịu ảnh hưởng của xã hội, nhất là những hạn chế, thói hư tật xấu trong xã hội. Đảng phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, Đảng phải “là đạo đức, là văn minh” mới lãnh đạo được nhân dân. Tư tưởng Hồ Chí Minh về dựa vào dân để xây dựng Đảng khẳng định mối quan hệ “máu thịt” giữa Đảng với nhân dân, với dân tộc và niềm tin của Người vào nhân dân trong xây dựng Đảng.
***
Chủ nghĩa Mác - Lênin là hệ thống mở, mang bản chất khoa học và cách mạng, phải không ngừng được đổi mới và phát triển. Sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, các giá trị tư tưởng, đạo đức, văn hóa của dân tộc và nhân loại vào thực tiễn Việt Nam trong thế kỷ XX của Hồ Chí Minh đã hình thành nên tư tưởng vĩ đại mang tên Người: tư tưởng Hồ Chí Minh.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống các quan điểm toàn diện và sâu sắc của cách mạng Việt Nam, nên những thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong lịch sử gắn liền với việc học tập và làm theo tư tưởng của Người. Mở đầu, trong giai đoạn 1925-1945, học tập và làm theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong cuốn “Đường Kách mệnh” đã mang lại thắng lợi trong Cách mạng Tháng Tám 1945. Từ 1945, khi Đảng trở thành Đảng cầm quyền, việc quán triệt và thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh trong cuốn “Sửa đổi lối làm việc” đã góp phần mang lại thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Tương tự như vậy, học tập và làm theo Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, thực hiện khẩu hiệu “Sống, chiến đấu, lao động và học tập theo gương Bác Hồ vĩ đại”, toàn Đảng, toàn dân ta đã đi tới thắng lợi vĩ đại trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. Thực tế lịch sử cũng cho thấy, khi chúng ta thực hiện và làm theo tư tưởng Hồ Chí Minh một cách đúng đắn, sáng tạo thì cách mạng giành được thắng lợi, thành công hoặc làm sai, không đầy đủ, giáo điều… thì cách mạng gặp khó khăn, thất bại.
Cũng như chủ nghĩa Mác - Lênin, cái quý nhất trong tư tưởng Hồ Chí Minh là phương pháp luận khoa học, xuất phát từ thực tiễn, nhất là thực tiễn Việt Nam để vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin. Học tập và làm theo tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng và phát triển tư tưởng của Người trong mỗi giai đoạn cách mạng là công việc hết sức cần thiết. Dựa trên những nguyên lý lý luận, quan điểm cơ bản, cốt lõi, phương pháp luận khoa học Hồ Chí Minh để vận dụng, phát triển một cách sáng tạo trong giải quyết các vấn đề đặt ra của mỗi giai đoạn cách mạng, không đơn giản, giáo điều, máy móc hay chủ quan, duy ý chí, vô nguyên tắc là điều kiện của thành công trong học tập và làm theo tư tưởng Hồ Chí Minh hiện nay./.



PGS, TS Ngô Văn Thạo
Hội đồng Lý luận Trung ương



Những luận điểm sáng tạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và thuộc địa

(ĐCSVN) -Ngày 5/6/1911, Hồ Chí Minh rời Bến cảng Nhà Rồng ra đi tìm đường cứu nước. Gần 30 năm sau, vào ngày 28/1/1941, Người mới có điều kiện trở về Tổ quốc để trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Nhìn lại chặng đường 30 năm ấy, Người đã mất gần 10 năm để tìm lời giải cho bài toán khó lúc bấy giờ là làm thế nào để giải phóng Tổ quốc và nhân dân thoát ách nô lệ của thực dân Pháp, nước nhà được độc lập, nhân dân được tự do hạnh phúc.

Ở thời điểm ấy, những người yêu nước Việt Nam như các cụ: Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, Phan Châu Trinh, Phan Bội Châu v.v.. đều đã ra sức tìm chủ thuyết và con đường giải phóng dân tộc nhưng đều bế tắc và thất bại. Sau nhiều năm bôn ba nhiều nước ở châu Âu, châu Mỹ, châu Phi, Nguyễn Tất Thành đã phần nào thấy được bản chất của chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa thực dân. Chính vì vậy, khi gặp Luận cương của Lênin về các vấn đề dân tộc và thuộc địa đăng trên báo L’Humanité, người càng tâm đắc và khẳng định thêm nhận thức của mình về con đường cứu nước và giải phóng dân tộc. Sự kiện Nguyễn Ái Quốc gặp Luận cương của Lênin có thể coi là một dấu ấn, một mốc quan trọng trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Người. Chính vì vậy, năm 1960, trong bài "Con đường dẫn tôi đến chủ nghĩa Lênin", viết nhân dịp kỷ niệm 90 năm ngày sinh Lênin, Người đã thổ lộ: “Luận cương của Lênin làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao! Tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng mà tôi nói to lên, như đang nói trước quần chúng đông đảo: “Hỡi đồng bào bị đọa đày đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta!”[1].

Nguyễn Ái Quốc tại Đại hội lần thứ XVIII của
Đảng Xã hội Pháp ở Tua, tháng 12/1920(ảnh tư liệu)

Đúng như lời Người nói sau này rằng, trong Luận cương có những chữ chính trị khó hiểu nhưng đọc đi đọc lại nhiều lần cuối cùng cũng hiểu được ý chính.

Điều tâm đắc đầu tiên khi Người đọc Luận cương của Lênin chính là đã tìm thấy lời giải đáp về khẩu hiệu TỰ DO - BÌNH ĐẲNG - BÁC ÁI.

Qua nhiều tài liệu, chúng ta đều biết rằng “Từ độ tuổi 13, lần đầu tiên Nguyễn Tất Thành nghe ba chữ Pháp TỰ DO - BÌNH ĐẲNG - BÁC ÁI”. Và từ thuở ấy, tôi rất muốn làm quen với nền văn minh Pháp, muốn tìm xem những gì ẩn giấu đằng sau những chữ ấy…”[2].

Từ ngày rời Tổ quốc, Nguyễn Tất Thành đã đi qua Pháp, nhiều nước châu Phi ven biển Đại Tây Dương, Ấn Độ Dương, đã từng sống ở Mỹ, ở Anh. Người đã chứng kiến tình hình thực tế của xã hội tư bản:

“Ở Pháp cũng có người nghèo như bên ta!”

“Mỹ tuy rằng cách mệnh thành công đã hơn 150 năm nay, nhưng công nông vẫn cứ cực khổ”.

Đọc Luận cương của Lênin, NguyễnÁi Quốccàng hiểu sâu hơn “những gì ẩn giấu đằng sau những từ ấy”. Lênin viết:

“Chế độ dân chủ tư sản, do bản chất của nó, vốn có cái lối đặt vấn đề một cách trừu tượng hoặc hình thức về quyền bình đẳng nói chung, trong đó bao gồm cả quyền dân tộc bình đẳng. Nấp dưới quyền bình đẳng của cá nhân nói chung, chế độ dân chủ tư sản tuyên bố quyền bình đẳng hình thức hoặc quyền bình đẳng trên pháp luật giữa kẻ hữu sản và người vô sản, giữa kẻ bóc lột và người bị bóc lột; do đó làm cho những giai cấp bị áp bức bị lừa dối một cách ghê gớm”[3].

Đúng là một khẩu hiệu mỹ miều nhưng đằng sau đó ẩn giấu một sự lừa bịp, xã hội tư bản đâu đã là tốt đẹp.

Điều tâm đắc thứ hai Người tìm thấy từ các tác phẩm của Lênin chính là tầm quan trọng của cách mạng thuộc địa, mối quan hệ giữa cách mạng chính quốc với các nước thuộc địa. Lênin cho rằng nếu không có sự giúp đỡ của quần chúng nhân dân và các dân tộc thuộc địa, trước hết là của các dân tộc phương Đông thì giai cấp vô sản ở các nước tiên tiến trên thế giới khó giành thắng lợi. Trên phạm vi toàn cầu chủ nghĩa tư bản chỉ sụp đổ khi nào cuộc tấn công cách mạng của hàng trăm triệu người bị áp bức ở thuộc địa hòa với cuộc tấn công của công nhân bị bóc lột ở những nước đó.

Tiếp thu tư tưởng này của Lênin về mối quan hệ giữa cách mạng chính quốc và cách mạng thuộc địa, trong tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp, Nguyễn Ái Quốc đã viết:

“Chủ nghĩa tư bản là một con đỉa có một cái vòi bám vào giai cấp vô sản ở chính quốc và một cái vòi khác bám vào giai cấp vô sản ở thuộc địa. Nếu muốn giết con vật ấy, người ta phải đồng thời cắt cả hai vòi”[4].

Người chỉ rõ “Làm cho các dân tộc thuộc địa, từ trước đến nay vẫn cách biệt nhau, hiểu biết nhau hơn và đoàn kết lại để đặt cơ sở cho một Liên minh phương Đông tương lai, khối liên minh này sẽ là một trong những cái cánh của cách mạng vô sản”[5].

Trên cơ sở của tư tưởng đó, ngay từ khi hoạt động trên đất Pháp, Người đã cùng một số nhân vật đại biểu cho các thuộc địa của Pháp thành lập Hội Liên hiệp thuộc địa, một hình thức mặt trận liên kết các dân tộc bị chủ nghĩa thực dân Pháp thống trị nhằm liên minh với giai cấp vô sản chính quốc cùng đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân.

Điều tâm đắc thứ ba chính là hướng đi của cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa mà Luận cương của Lênin đã vạch ra đó là đi theo con đường xã hội chủ nghĩa. Lênin viết:

“Cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa sẽ không phải chỉ là và chủ yếu là một cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản ở từng nước chống lại giai cấp tư sản ở nước mình; không phải thế, đó sẽ còn là cuộc đấu tranh của tất cả các nước thuộc địa và tất cả những nước bị chủ nghĩa đế quốc áp bức, của tất cả các nước phụ thuộc chống lại chủ nghĩa đế quốc quốc tế”.

Từ đó Người kêu gọi: “Vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại!”.

Từ tư tưởng đó Lênin kêu gọi các đảng cộng sản các nước phải tiếp tục ủng hộ phong trào cách mạng của các nước thuộc địa và các dân tộc phụ thuộc, sự ủng hộ đó là “điều kiện đặc biệt quan trọng” để cuộc đấu tranh của các thuộc địa chống áp bức giành thắng lợi. Đồng thời, Lênin cũng khuyên các dân tộc ở phương Đông phải liên hệ trực tiếp với cuộc đấu tranh của nước Cộng hòa Xô viết Nga chống chủ nghĩa đế quốc quốc tế thì mới phát triển thành công, mới giành được thắng lợi.

Sự lựa chọn của Nguyễn Ái Quốc đi theo con đường của Lênin - con đường giải phóng chúng ta đã được thực tiễn chứng minh là đúng đắn nhưng không đơn giản. Bởi lẽ ở thời điểm ấy, bên cạnh những tư tưởng đúng còn tồn tại một số luận điểm… của Roi, của Prêôbraginxki, của Marinh hơi trái với những luận điểm của Lênin. Roi không tán thành luận điểm các Đảng cộng sản phải giúp đỡ phong trào giải phóng dân tộc tư sản ở phương Đông; Prêôbraginxki coi thường vai trò cách mạng của các nước thuộc địa: “Việc phóng đại ý nghĩa cách mạng của các khởi nghĩa các nước thuộc địa là không đúng”. V.v..

Chí ít, sự tiếp thu của Nguyễn Ái Quốc về các luận điểm quan trọng trên đây đã phác thảo con đường giải phóng dân tộc của đất nước ta!

Song, cuộc đấu tranh giải phóng các dân tộc thuộc địa thoát khỏi ách áp bức bóc lột của chủ nghĩa thực dân diễn ra như thế nào vẫn còn là dấu hỏi lớn, một bài toán đòi hỏi các nhà cách mạng giải đáp. Vấn đề này, ngay các nhà kinh điển Mácxít cũng trả lời rất thận trọng.

Tháng 9 năm 1882, trả lời Caoxki về cuộc cách mạng giải phóng dân tộc của một số nước đang bị nước ngoài chiếm đoạt, Ăngghen nói:

“Theo ý kiến tôi, đích thực là các thuộc địa, tức là những đất đai mà dân châu Âu chiếm đoạt - Canađa, tỉnh Cap, Ôxtơralya, tất cả sẽ được độc lập; trái lại chỉ những đất đai phụ thuộc do người bản địa chiếm giữ, Ấn Độ, Angiêri, các đất của Hà Lan, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha chiếm đoạt, giai cấp vô sản phải học lấy một thời gian và hết sức nhanh chóng tiến tới độc lập. Quá trình này triển khai chính như thế nào, thật khó nói!”[6].

Tháng 11 năm 1921, trong buổi Lênin tiếp Đoàn đại biểu Mông Cổ tại Điện Kremli, khi Xukhêbatô hỏi Người rằng “Cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc liệu có sẽ giành được thắng lợi không?” thì Lênin trả lời rằng:

“Bản than tôi đã tham gia phong trào cách mạng 30 năm và qua kinh nghiệm bản thân, tôi biết rõ rằng đối với bất cứ dân tộc nào thì việc giải phóng mình khỏi những kẻ nô dịch trong nước và ngoài nước cũng là một công việc khó khăn”[7].

Người cũng dự đoán rằng những cuộc cách mạng sau này trong những nước phương Đông chắc chắn là sẽ “có nhiều điểm độc đáo hơn cuộc cách mạng Nga”.

* * *

Tiếp thu và quán triệt tư tưởng của Lênin, Nguyễn Ái Quốc đã sớm xác định hướng đi cho cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa. Ngay từ Đại hội Tours của Đảng Xã hội Pháp, họp vào cuối năm 1920, Người đã nói: “Đảng phải tuyên truyền chủ nghĩa xã hội trong các nước thuộc địa”.

Câu nói ấy không phải là một lời kêu gọi chung chung, mà là dựa trên sự phân tích hoàn cảnh chính trị xã hội của các nước thuộc địa. Sau Đại hội Tours không lâu, tháng 5 năm 1921, trong bài nhan đề Đông Dương đăng trên La Revue Communiste, Nguyễn Ái Quốc đã đặt ra câu hỏi: Chế độ cộng sản có áp dụng được ở châu Á nói chung và ở Đông Dương nói riêng không? Qua sự phân tích về điều kiện địa lý và lịch sử, Người nhận định rằng: “Chủ nghĩa cộng sản thâm nhập vào châu Á dễ dàng hơn là ở châu Âu”.

Việc định hướng cho một cuộc cách mạng là rất quan trọng. Đó là kết quả của cả một quá trình nghiên cứu lý luận và quan sát thực tế từ các cuộc cách mạng Pháp, Mỹ, Anh, Thổ Nhĩ Kỳ v.v.. Nhưng phương hướng ấy có trở thành hiện thực hay không đã đặt ra những vấn đề mới để Nguyễn Ái Quốc và các nhà cách mạng ở các nước thuộc địa tiếp tục giải quyết. Nói cách khác, phải có những tìm tòi mới bổ sung cho những vấn đề lý luận mà Ăngghen và Lênin chưa đề cập tới.

Trước đây, Mác, Ăngghen, Lênin cũng đã từng giải quyết vấn đề điều kiện thành công của cách mạng vô sản. Mác cho rằng một trong những điều kiện để cách mạng vô sản thắng lợi là cuộc cách mạng đó phải nổ ra cùng một lúc ở nhiều nước. Lênin trong hoàn cảnh và điều kiện lịch sử mới, đã phân tích sự phát triển không đều của chủ nghĩa đế quốc và khẳng định rằng cách mạng vô sản có thể bùng nổ và thành công trong một nước, nước đó là khâu yếu nhất của chủ nghĩa đế quốc.

Đối với cách mạng giải phóng nhân dân Việt Nam khỏi ách thực dân, Nguyễn Ái Quốc cũng phải làm tròn nhiệm vụ của một nhà tư tưởng, nhà lý luận, tức là phải “đi trước phong trào tự phát và chỉ đường cho nó” như Lênin đã xác định.

Thấm nhuần quan điểm của Lênin về mối quan hệ gắn bó giữa cách mạng giải phóng thuộc địa với cách mạng vô sản ở chính quốc, nhưng phải chăng đó là mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau, chính quốc thắng thì thuộc địa mới thắng, lúc bấy giờ một số nhà lãnh đạo Đảng ở một số nước chính quốc nghĩ như thế.

Nguyễn Ái Quốc cho rằng, cách mạng giải phóng thuộc địa có thể thành công trước cách mạng vô sản ở chính quốc. Từ năm 1921, Người đã viết:

“Ngày mà hàng trăm triệu nhân dân châu Á bị tàn sát và áp bức thức tỉnh để gạt bỏ sự bóc lột đê tiện của một bọn thực dân lòng tham không đáy, họ sẽ hình thành một lực lượng khổng lồ và qua việc thủ tiêu một trong những điều kiện tồn tại của chủ nghĩa tư bản là chủ nghĩa đế quốc, sẽ có thể giúp cho những người anh em của họ ở phương Tây trong nhiệm vụ giải phóng hoàn toàn”[8].

Người còn nêu rõ: Những người cách mạng ở thuộc địa cần chủ động tạo ra thời cơ: “Bộ phận ưu tú có nhiệm vụ phải thúc đẩy cho thời cơ đó mau đến!”[9].

Luận điểm đó của Người xác định rõ sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam không thể ngồi chờ, không ỷ lại vào cách mạng ở “chính quốc”.

Luận điểm này đến năm 1924 được nâng lên một tầm mới: đó là cách mạng ở thuộc địa cần phải tiến hành trước cách mạng giải phóng giai cấp ở chính quốc. Luận điểm đó được Người phát biểu tại Đại hội lần thứ V Quốc tế Cộng sản:

“Vận mệnh của giai cấp vô sản thế giới phụ thuộc phần lớn vào các thuộc địa, nơi cung cấp lương thực và binh lính cho các nước lớn đế quốc chủ nghĩa. Nếu chúng ta muốn đánh bại các nước này thì trước hết phải tước hết thuộc địa của chúng đi”[10].

Tại Đại hội lần thứ V Quốc tế Cộng sản khi nghe một số ý kiến coi trọng cách mạng vô sản ở chính quốc hơn thuộc địa, Nguyễn Ái Quốc đã thẳng thắn nêu ý kiến của mình:

“Các đồng chí thứ lỗi về sự mạnh bạo của tôi, nhưng tôi không thể không nói với các đồng chí rằng, sau khi nghe những lời phát biểu của các đồng chí ở chính quốc, tôi có cảm tưởng là các đồng chí ấy muốn đánh chết rắn đằng đuôi. Tất cả các đồng chí đều biết rằng hiện nay nọc độc và sức sống của con rắn độc tư bản chủ nghĩa đang tập trung ở các thuộc địa hơn là ở chính quốc. Các thuộc địa cung cấp nguyên liệu cho các nhà máy; các thuộc địa cung cấp binh lính cho quân đội của chủ nghĩa đế quốc. Các thuộc địa trở thành nền tảng của lực lượng phản cách mạng. Thế mà các đồng chí khi nói về cách mạng các đồng chí lại khinh thường thuộc địa”[11].

Những luận điểm trên đây của Nguyễn Ái Quốc nói lên tính chủ động, tích cực của phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa. Luận điểm đó rõ ràng là khác với quan điểm của một số đông lúc bấy giờ cho rằng cách mạng ở thuộc địa chỉ được giải quyết sau khi giai cấp vô sản ở “chính quốc” giành được chính quyền.

* * *

Một vấn đề lớn trong lý luận về cách mạng giải phóng thuộc địa là vấn đề động lực cách mạng, tức là vấn đề dựa vào lực lượng nào để tiến hành cách mạng.

Về điểm này trong Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa, Lênin nhấn mạnh sự ủng hộ trực tiếp của tất cả các đảng cộng sản:

“Nếu không có điều kiện đặc biệt quan trọng là sự ủng hộ trực tiếp của tất cả các đảng cộng sản thì cuộc đấu tranh của dân tộc phụ thuộc và của các thuộc địa chống áp bức, cũng như việc thừa nhận quyền phân lập của họ, chỉ là những chiêu bài dối trá như vẫn thường thấy trong các Đảng của Quốc tế 2”[12].

Nguyễn Ái Quốc lại nhấn mạnh động lực cách mạng chính là phải dựa vào sức minh để giải phóng mình.

Trong Tuyên ngôn của Hội Liên hiệp thuộc địa do Nguyễn Ái Quốc dự thảo đã nêu rõ:

“Anh em phải làm thế nào để được giải phóng?

Vận dụng công thức của Các Mác, chúng tôi xin nói với anh em rằng, công cuộc giải phóng anh em chỉ có thể thực hiện được bằng sự nỗ lực của bản thân anh em”[13].

Thực tiễn giúp chúng ta nhận rõ rằng Cách mạng Tháng Mười Nga đã giúp đỡ các dân tộc khác thoát khỏi ách thống trị của Nga hoàng là chứng minh cho những điều Lênin đã nói về sự giúp đỡ của giai cấp vô sản “chính quốc” có vai trò quan trọng đối với nhân dân thuộc địa; thì Cách mạng tháng Tám ở Việt Nam chứng minh luận điểm sáng tạo của Nguyễn Ái Quốc là đúng, Việt Nam làm cách mạng trước nước Pháp “chính quốc”, hoàn toàn dựa vào sức mình và đã thành công.

Cũng cần nói thêm rằng, Nguyễn Ái Quốc nhìn rõ tiềm năng cách mạng to lớn của nhân dân các nước thuộc địa, cụ thể là Đông Dương nhưng Người không đánh giá quá cao và chủ quan một chiều về năng lực ấy. Người đã phê phán, cảnh báo về những sai lầm trong đánh giá đó:

“Nói rằng Đông Dương gồm 20 triệu người bị bóc lột hiện nay đã chín muồi cho một cuộc cách mạng là sai; nhưng nói rằng Đông Dương không muốn cách mạng và bằng lòng với chế độ bây giờ như các ông chủ của chúng ta vẫn thường nghĩ, như thế lại càng sai hơn nữa”[14].

Cách mạng giải phóng thuộc địa phải dựa vào sức mình là chính nhưng đương nhiên phải có những điều kiện khác nữa như tổ chức hạt nhân lãnh đạo cách mạng, quân đội cách mạng, các tổ chức quần chúng, thời cơ thuận lợi và chắc thắng cho cách mạng, vấn đề đoàn kết quốc tế…

Những luận điểm của Nguyễn Ái Quốc trên đây rõ ràng có vai trò rất to lớn trong tổ chức và chỉ đạo phong trào giải phóng dân tộc Việt Nam.

Thực tiễn đã chứng minh những luận điểm đó là hoàn toàn đúng đắn.

[1] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, t.10, tr.127.

[2] Hồ Chí Minh: Toàn tập, xuất bản lần thứ 3, t.1, tr.461.

[3] Lênin Toàn tập, Bản tiếng Việt, Nxb. Tiến bộ, M, t.4, tr.198.

[4] Hồ Chí Minh: Toàn tập, xuất bản lần thứ 3, t.2, tr.130.

[5] Hồ Chí Minh: Toàn tập, xuất bản lần thứ 3, t.2, tr.134.

[6] Thư gửi Caoxki, 12-9-1892.

[7] Lênin Toàn tập, Bản tiếng Việt, Nxb. Tiến bộ, M, t.5, tr.288-288.

[8] Hồ Chí Minh: Toàn tập, xuất bản lần thứ 3, t.1, tr.48.

[9] Hồ Chí Minh: Toàn tập, xuất bản lần thứ 3, t.1, tr.40.

[10] Tạp chí La Correspondance internationnale, số 41, 1924.

[11] Hồ Chí Minh: Toàn tập, xuất bản lần thứ 3, t.1, tr.295-296.

[12] Trích Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa.

[13] Hồ Chí Minh: Toàn tập, xuất bản lần thứ 3, t.2, tr.138.

[14] Hồ Chí Minh: Toàn tập, xuất bản lần thứ 3, t.1, tr.39.

Những sáng tạo lý luận của Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc và giá trị thời đại

Ngày đăng: 27/08/2020 03:07
Mặc định Cỡ chữ
Chủ tịch Hồ Chí Minh - Anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới đã cống hiến trọn cuộc đời cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, đem lại cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân Việt Nam. Sự nghiệp cách mạng phong phú, sôi động của Hồ Chí Minh đã để lại cho dân tộc ta nhiều “Di sản” quý báu, trong đó, những sáng tạo lý luận của Người về cách mạng giải phóng dân tộc là một dấu ấn nổi bật, góp phần tạo nên những thắng lợi vĩ đại của cách mạng Việt Nam, đồng thời có giá trị thời đại sâu sắc.

1. Những sáng tạo lý luận của Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc

Thứ nhất, cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con đường cách mạng vô sản

Yêu nước và kiên quyết chống giặc ngoại xâm, bảo vệ chủ quyền và nền độc lập là truyền thống quý báu của dân tộc Việt Nam. Phát huy truyền thống đánh giặc giữ nước của dân tộc, tận mắt chứng kiến cảnh nước mất nhà tan, nhân dân đói khổ lầm than, ngày 5-6-1911, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành ra đi tìm con đường cứu nước mới cho dân tộc. Mang trong mình khát vọng giải phóng dân tộc, qua nhiều năm bôn ba ở nước ngoài, Nguyễn Ái Quốc đã đến với chủ nghĩa Mác - Lênin và tìm ra con đường cách mạng đúng đắn - con đường cách mạng vô sản. Người khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”(1). Nguyễn Ái Quốc lựa chọn con đường cách mạng giải phóng dân tộc theo con đường Cách mạng Tháng Mười Nga (1917), bởi theo Người: “Trong thế giới bây giờ chỉ có cách mệnh Nga là đã thành công, và thành công đến nơi, nghĩa là dân chúng được hưởng cái hạnh phúc tự do, bình đẳng thật”(2). Con đường giải phóng dân tộc theo khuynh hướng cách mạng vô sản, là cuộc cách mạng toàn diện, sâu sắc và triệt để. Cuộc cách mạng đó không chỉ giải phóng giai cấp, mà gắn liền với nó là giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội.

Trong quá trình vận dụng lý luận cách mạng vô sản vào Việt Nam, Hồ Chí Minh đã kiên trì khắc phục những trở ngại của khuynh hướng giáo điều, nhấn mạnh một chiều đấu tranh giai cấp trong nửa sau những năm 20 và nửa đầu những năm 30 của thế kỷ XX, làm cho lý luận cách mạng giải phóng dân tộc theo khuynh hướng vô sản có sức sống mạnh mẽ, thâm nhập trong đông đảo quần chúng nhân dân. Đi theo con đường cách mạng vô sản, Hồ Chí Minh sớm xác định phương hướng chiến lược của cách mạng Việt Nam là “làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”(3). Sau khi giành độc lập, phải tiến lên xây dựng CNXH. Bên cạnh đó, Người dành nhiều tâm trí vào sự nghiệp cách mạng XHCN và xây dựng CNXH ở Việt Nam, hình thành nên những quan điểm hết sức cơ bản về CNXH và con đường đi lên CNXH từ một nước thuộc địa, với những tàn tích phong kiến nặng nề; xác định những đặc trưng bản chất của CNXH, mục tiêu và bước đi để đạt tới CNXH. Đó là một quá trình cải biến cách mạng lâu dài, gian khổ, phải trải qua nhiều chặng đường khác nhau, tất cả vì sự nghiệp giải phóng con người, làm cho con người phát triển toàn diện, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc.

Cách mạng giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản, tức là độc lập dân tộc đi tới CNXH. Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết, là tiền đề đi tới CNXH. Không giành được độc lập dân tộc sẽ không có gì hết. Độc lập dân tộc thể hiện ở chỗ giành và giữ chính quyền dân chủ nhân dân, chuẩn bị tiền đề đi lên CNXH. Nhưng nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì. CNXH là hạnh phúc, tự do. Vì vậy, phải xây dựng CNXH như là sự phát triển tất yếu của độc lập dân tộc, để bảo vệ độc lập dân tộc và tạo ra bước phát triển mới với một trình độ cao hơn của toàn bộ tiến trình cách mạng. Đây chính là sự phát triển sáng tạo luận điểm của V.I.Lênin về cách mạng không ngừng - cách mạng dân tộc dân chủ và cách mạng XHCN, giữa hai giai đoạn đó không có một bức tường thành nào ngăn cách cả.

Thực tiễn đó cho thấy, cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con đường của cách mạng vô sản là một trong những sáng tạo nổi bật về mặt lý luận của Hồ Chí Minh. Chính theo con đường cách mạng vô sản, nhân dân Việt Nam đã làm nên cuộc Cách mạng Tháng Tám 1945 “long trời lở đất”, dẫn tới sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (2-9-1945). Trong Tuyên ngôn độc lập đọc trước quốc dân đồng bào vào ngày 2-9-1945, Hồ Chí Minh trịnh trọng tuyên bố: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do độc lập”(4). Với Tuyên ngôn độc lập, Hồ Chí Minh đã tuyên bố với toàn thế giới về quyền độc lập dân tộc, thống nhất đất nước, toàn vẹn lãnh thổ và quyền dân tộc tự quyết của dân tộc Việt Nam. Trong đó, độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ vừa là tiền đề, vừa là điều kiện tiên quyết của chế độ dân chủ, cho việc xác lập và bảo vệ quyền con người.

Cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945, do Đảng và Hồ Chí Minh lãnh đạo đã mở ra một thời đại mới cho dân tộc Việt Nam - thời đại độc lập dân tộc gắn liền với CNXH. Kiên trì với con đường đã lựa chọn, trải qua 30 năm trường kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, với tinh thần “thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”, “không có gì quý hơn độc lập, tự do”; trên cơ sở đường lối đúng đắn, sáng tạo của Đảng, với sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, quân và dân ta đã lần lượt đánh bại các chiến lược chiến tranh của thực dân, đế quốc, giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Trong cuộc đấu tranh trường kỳ này, tất cả người dân Việt Nam đã kiên cường đấu tranh cho độc lập dân tộc và tự do cho nhân dân. Quyền vốn dĩ tự nhiên đó của con người Việt Nam, của dân tộc Việt Nam được cộng đồng quốc tế đón nhận như là một trong những tư tưởng lớn của thời đại.

Thứ hai, cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải do Đảng Cộng sản lãnh đạo

Đây là một sáng tạo của Hồ Chí Minh về lý luận cách mạng giải phóng dân tộc. Hồ Chí Minh cho rằng, “Cách mệnh trước hết phải có đảng cách mệnh... Đảng có vững cách mệnh mới thành công...”(5). Đảng đó phải được xây dựng theo nguyên tắc đảng kiểu mới của V.I.Lênin, được vũ trang bằng chủ nghĩa Mác - Lênin. Nhiệm vụ lãnh đạo của Đảng Cộng sản là: Xác định mục tiêu của cách mạng, xây dựng đường lối cách mạng giải phóng dân tộc; thông qua cương lĩnh, tổ chức vận động, tập hợp các lực lượng cách mạng, xây dựng Mặt trận Dân tộc thống nhất. Đối với cách mạng Việt Nam, Đảng Cộng sản phải thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ: chống đế quốc và chống phong kiến, giành độc lập dân tộc, đem lại tự do và hạnh phúc cho nhân dân. Cương lĩnh Chính trị đầu tiên được thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo đã khẳng định: “Đảng là đội tiên phong của vô sản giai cấp”(6). Điều đáng chú ý là, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, Đảng không chỉ là của riêng giai cấp công nhân, mà của toàn dân tộc. Tại Đại hội lần thứ II của Đảng (tháng 02/1951), Hồ Chí Minh phân tích: “Trong giai đoạn hiện nay, quyền lợi của giai cấp công nhân và nhân dân lao động và của dân tộc là một. Chính vì Đảng Lao động Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, cho nên phải là Đảng của dân tộc Việt Nam”(7). Năm 1961, khi nhân dân miền Bắc đang thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, Hồ Chí Minh một lần nữa khẳng định: “Đảng ta là Đảng của giai cấp, đồng thời cũng là của dân tộc, không thiên tư, thiên vị”(8).

Đó là một Đảng đạo đức và văn minh, được võ trang bằng lý luận Mác - Lênin; có bản lĩnh chính trị vững vàng; đội ngũ cán bộ, đảng viên có phẩm chất đạo đức trong sáng, năng lực trí tuệ dồi dào, biết giải quyết mọi vấn đề xuất phát từ thực tiễn Việt Nam và theo kịp bước tiến của thời đại. Đảng đó phải xây dựng được một Mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi, vững chắc, lâu dài, chân thành, đoàn kết; trong đó, lực lượng của Đảng là cả dân tộc, mọi con dân nước Việt, con Lạc cháu Hồng. Đảng đó còn biết tập hợp các lực lượng cách mạng và tiến bộ trên thế giới đấu tranh chống kẻ thù chung là chủ nghĩa thực dân, vì mục tiêu chung của nhân loại tiến bộ là: hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.

Thực tiễn phong phú cách mạng Việt Nam chứng minh rằng, sự lãnh đạo đúng đắn và sáng suốt của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Đồng thời, chính trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng đã được tôi luyện, thử thách và không ngừng trưởng thành, dày dạn kinh nghiệm để ngày càng xứng đáng với vai trò và sứ mệnh lãnh đạo cách mạng, xứng đáng với sự tin cậy của nhân dân; qua đó, khẳng định một chân lý, “ở Việt Nam không có một lực lượng chính trị nào khác, ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam có đủ bản lĩnh, trí tuệ, kinh nghiệm, uy tín và khả năng lãnh đạo đất nước vượt qua mọi khó khăn, thử thách cam go để đưa dân tộc đến bến bờ vinh quang, hạnh phúc”(9).

Thứ ba, cách mạng giải phóng dân tộc là sự nghiệp đoàn kết của toàn dân trên cơ sở liên minh công nông

Sinh thời, Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Cách mạng giải phóng dân tộc là sự nghiệp đoàn kết toàn dân, trên cơ sở liên minh công nông làm nòng cốt”... Trong đó, “thực hiện cho được liên minh công nông vì đó là sự bảo đảm chắc chắn nhất những thắng lợi của cách mạng”(10).

Từ thực tiễn Việt Nam, với tuyệt đại đa số dân số là nông dân, Hồ Chí Minh cho rằng, nông dân là những người chịu nhiều tầng áp bức, bị bần cùng hóa nên họ luôn có ý thức phản kháng, sẵn sàng tham gia cách mạng. Do đó, cách mạng giải phóng dân tộc phải có sự tham gia của giai cấp nông dân và là sự nghiệp của toàn dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: Nông dân là một lực lượng rất to lớn của dân tộc, một đồng minh rất trung thành của giai cấp công nhân. Muốn kháng chiến kiến quốc thành công, muốn độc lập, thống nhất thật sự, ắt phải dựa vào lực lượng của nông dân. Đồng bào nông dân sẵn có lực lượng to lớn, sẵn có lòng nồng nàn yêu nước, sẵn có chí khí kiên quyết đấu tranh và hy sinh. Do vậy, vấn đề giải phóng dân tộc ở Việt Nam, thực chất là vấn đề nông dân. Nông dân vừa là động lực, vừa là lực lượng đông đảo, nòng cốt, và cũng là đối tượng vận động của cách mạng.

Đánh giá cao vai trò, sứ mệnh của giai cấp nông dân, nhưng Hồ Chí Minh luôn khẳng định, giai cấp công nhân là giai cấp lãnh đạo cách mạng và Đảng phải lãnh đạo xây dựng khối liên minh công - nông làm nòng cốt cho Mặt trận Dân tộc thống nhất. Hồ Chí Minh chủ trương vận động, tập hợp rộng rãi các tầng lớp nhân dân Việt Nam, những người dân mất nước, đang phải chịu thân phận nô lệ, tham gia vào Mặt trận Dân tộc thống nhất, nhằm huy động sức mạnh của toàn dân tộc vào cuộc đấu tranh giành độc lập, tự do. Đây là luận điểm rất mới, có giá trị lý luận và thực tiễn to lớn đối với cách mạng thế giới, đặc biệt là phong trào giải phóng dân tộc. Đó là sự bổ sung kịp thời vào kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin. Có thể nói, đối với cách mạng Việt Nam, luận điểm của Hồ Chí Minh về vấn đề xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc trên cơ sở liên minh công - nông đã được vận dụng một cách chủ động, sáng tạo trong tiến trình tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc.

Thứ tư, cách mạng giải phóng dân tộc phải được tiến hành bằng con đường cách mạng bạo lực, kết hợp đấu tranh chính trị của quần chúng với đấu tranh vũ trang; thực hiện khởi nghĩa từng phần tiến tới tổng khởi nghĩa giành thắng lợi hoàn toàn

Vượt lên tư tưởng của các nhà lãnh đạo cách mạng tiền bối, Hồ Chí Minh xác định phương pháp đấu tranh giải phóng dân tộc ở Việt Nam phải được tiến hành bằng con đường cách mạng bạo lực, kết hợp đấu tranh chính trị của quần chúng với đấu tranh vũ trang; thực hiện khởi nghĩa từng phần tiến tới tổng khởi nghĩa giành thắng lợi hoàn toàn.

Trên cơ sở nắm vững những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã nhận thức sâu sắc bản chất của chế độ thực dân: “Chế độ thực dân, tự bản thân nó, đã là một hành động bạo lực của kẻ mạnh đối với kẻ yếu rồi”(11),“lũ giặc cướp nước, chết thì chết, nết không chừa. Càng gần thất bại thì chúng càng hung ác”(12). Người khẳng định: “Độc lập tự do không thể cầu xin mà có được”. Vì vậy, để thực hiện cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, cũng như cuộc đấu tranh để bảo vệ độc lập dân tộc, bảo vệ CNXH, tất yếu phải “Dùng bạo lực cách mạng chống lại bạo lực phản cách mạng, giành lấy chính quyền và bảo vệ chính quyền”(13).

Quan điểm bạo lực cách mạng của Hồ Chí Minh không hề đối lập với tinh thần yêu chuộng hòa bình và chủ nghĩa nhân đạo của dân tộc Việt Nam mà là sự tiếp nối truyền thống nhân nghĩa của cha ông ta. Đối với Hồ Chí Minh, trong cuộc đấu tranh chính nghĩa để giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, việc sử dụng bạo lực cũng nhằm mục đích hòa bình: “Dụng việc binh là việc nhân nghĩa, muốn cứu dân, cứu nước”(14). Theo Người, hòa bình phải là nền hòa bình thật sự, gắn liền với độc lập, chủ quyền của Tổ quốc và tự do, dân chủ của nhân dân. Nếu mục tiêu đó không được đáp ứng, phương thức tiến hành chiến tranh tất yếu là bạo lực cách mạng. Đó chính là nghệ thuật khéo léo dùng bạo lực cách mạng chống lại bạo lực phản cách mạng của Người.

Tuy đề cao vai trò của bạo lực cách mạng nhưng Hồ Chí Minh không tuyệt đối hóa vai trò của bạo lực, của đấu tranh vũ trang trong chiến tranh cách mạng. Với Người, đấu tranh vũ trang chỉ là một trong những phương pháp để thực hiện mục tiêu chính trị của cách mạng. Với tinh thần ấy, sau khi về nước chuẩn bị giành chính quyền, tháng 12-1944, trên cơ sở nghiên cứu kỹ tình hình cách mạng trong nước và trên thế giới, Hồ Chí Minh ra Chỉ thị thành lập đội “Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân”. Người căn dặn: “Chính trị trọng hơn quân sự”(15), “tuyên truyền trọng hơn tác chiến”, “người trước, súng sau”. Chỉ thị nêu rõ nguyên tắc xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng, phương châm xây dựng ba thứ quân, phương thức hoạt động là kết hợp quân sự với chính trị.

Trong quá trình lãnh đạo đấu tranh giành chính quyền, Hồ Chí Minh và Đảng đã chỉ đạo tích cực xây dựng và phát triển lực lượng, để khi có thời cơ sẽ phát động khởi nghĩa vũ trang. Trước hết là xây dựng các căn cứ địa, đồng thời mở các lớp đào tạo, huấn luyện cán bộ, xây dựng các tổ chức chính trị của quần chúng... Với sự chủ động, tích cực chuẩn bị đón chờ thời cơ khởi nghĩa, tháng Tám năm 1945, khi thời cơ đến, lệnh “Tổng khởi nghĩa” được ban ra, chỉ trong chưa đầy nửa tháng, cả nước đã đứng lên giành chính quyền về tay nhân dân.

Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, kế thừa và phát huy nghệ thuật lãnh đạo Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Hồ Chí Minh và Đảng Lao động Việt Nam đã tập trung lãnh đạo xây dựng lực lượng vũ trang lớn mạnh, với ba thứ quân và không ngừng nâng cao trình độ kỹ thuật, chiến thuật của quân đội để đánh bại các chiến lược quân sự của kẻ thù; đồng thời, kết hợp với xây dựng lực lượng chính trị mạnh mẽ của quần chúng để khi thời cơ đến tiến hành tổng tiến công, giành thắng lợi quyết định trong sự nghiệp giải phóng dân tộc.

2. Giá trị thời đại

Những sáng tạo lý luận của Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc phản ánh nguyện vọng được sống trong độc lập, tự do và công bằng, bình đẳng của không chỉ dân tộc Việt Nam mà còn là ý chí, nguyện vọng của mọi dân tộc bị áp bức, bóc lột trên thế giới, như Hồ Chí Minh đã khẳng định: “tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”(16). Có thể nói, giải phóng dân tộc là nguyện vọng cháy bỏng hơn bất cứ yêu cầu nào khác. Nó là điều kiện tiên quyết cho mọi quyền tự do, dân chủ của con người.

Điều đặc biệt cần lưu ý, sáng tạo của Hồ Chí Minh không chỉ là người xây dựng cơ sở lý luận cho sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc của Việt Nam mà còn là người tổ chức và lãnh đạo sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc. Trong quá trình tổ chức và lãnh đạo sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam, Hồ Chí Minh đã thể hiện trách nhiệm của người đứng đầu. Người tổ chức vừa kháng chiến, vừa kiến quốc với tinh thần “các vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”. Kháng chiến đi đôi với kiến quốc, đấu tranh đi đôi với xây dựng, cùng một lúc thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược là nét độc đáo của cách mạng Việt Nam mang dấu ấn Hồ Chí Minh. Người xác định, kháng chiến trường kỳ gian khổ, phức tạp, khó khăn, nhưng nhất định thắng lợi. Lý luận của Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc vốn đã sáng tạo nhưng lại ngày càng sáng tạo hơn vì đã đi vào thực tiễn, được làm phong phú bởi thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 cũng như thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược của nhân dân Việt Nam.

Thực tiễn lãnh đạo toàn dân tộc đấu tranh giành độc lập và kháng chiến chống chiến tranh xâm lược đã làm phong phú thêm lý luận của Người về cách mạng và chiến tranh giải phóng. Từ đó, có thể khẳng định, những cống hiến sáng tạo của Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc, cả thực tiễn và lý luận đã bổ sung cho kho tàng lý luận cách mạng thế giới, kho tàng lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin cũng như truyền thống dựng nước và giữ nước đầy tự hào của dân tộc Việt Nam.

Những sáng tạo lý luận của Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc mang tính thời đại thể hiện đậm nét ở chỗ, nó đã tác động sâu sắc đến phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới. Nếu như thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã thức tỉnh các dân tộc trên thế giới về quyền tự do, độc lập của mỗi dân tộc, thì thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, với đỉnh cao là chiến thắng Điện Biên Phủ đã làm “chấn động địa cầu”, thức tỉnh các dân tộc ở châu Á, châu Phi và châu Mỹ - Latinh vùng lên đánh đuổi thực dân, đế quốc, giành độc lập dân tộc.

Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng đã kiên định con đường cách mạng mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn là: độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, kiên trì mục tiêu: “Độc lập - Tự do - Hạnh phúc”. Hiện nay, tư tưởng của Người vẫn soi sáng con đường đi lên của cách mạng Việt Nam. Để thực hiện mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, vấn đề quan trọng nhất được Đảng Cộng sản Việt Nam xác định là: Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với CNXH.

Để đạt được điều đó, hơn lúc nào hết, chúng ta cần phải nắm chắc hạt nhân tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng dân tộc, giải phóng con người, nắm vững phương thức giải quyết mối quan hệ dân tộc - con người trên cơ sở nhận thức chính xác đặc điểm của dân tộc và sự vận động, phát triển của thời đại. Chỉ có như vậy, chúng ta mới thành công trong nhiệm vụ đưa tư tưởng Hồ Chí Minh vào cuộc sống để giải quyết những vấn đề do thực tiễn đặt ra. Đó cũng là một trong những điều kiện quan trọng nhất bảo đảm cho thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong hiện tại và tương lai.

-------------------------------------

Ghi chú:

(1) Hồ Chí Minh, Toàn tập, t.11, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.30.

(2), (5) Hồ Chí Minh, Toàn tập, t.2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.304, 289.

(3), (6), (15) Hồ Chí Minh, Toàn tập, t.3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.1, 3, 539.

(4), (16) Hồ Chí Minh, Toàn tập, t.4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr.4, 1.

(7), (12) Hồ Chí Minh, Toàn tập, t.7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.41, 254.

(8) Hồ Chí Minh, Toàn tập, t.13, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.275.

(9) Diễn văn của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng tại Lễ kỷ niệm 90 năm thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (3/2/1930-3/2/2020).

(10), (13) Hồ Chí Minh, Toàn tập, t.15, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.391, 391.

(11) Hồ Chí Minh, Toàn tập, t.1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.114.

(14) Hồ Chí Minh, Toàn tập, t.4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.286.

PGS, TS Nguyễn Danh Tiên - Viện Lịch sử Đảng, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

Theo: lyluanchinhtri.vn

Về trang trước
Gửi email In trang

Video liên quan

Chủ đề