Ngành Công tác xã hội thực tập ở đâu

CTXH là một nghề, một hoạt động chuyên nghiệp nhằm trợ giúp các cá nhân, gia đình và cộng đồng nâng cao năng lực, đáp ứng nhu cầu và tăng cường chức năng xã hội, đồng thời thúc đẩy môi trường xã hội về chính sách, nguồn lực và dịch vụ nhằm giúp cá nhân, gia đình và cộng đồng giải quyết và phòng ngừa các vấn đề xã hội, góp phần đảm bảo an sinh xã hội. Trong bối cảnh hiện nay, để có thể cạnh tranh và có một vị trí việc làm phù hợp, có thể cống hiến nhiều nhất cho xã hội, cho sự công bằng và bình đẳng của con người đòi hỏi mỗi sinh viên CTXH phải không ngừng học tập và nâng cao các kỹ năng nghề nghiệp của mình. Để hoạt động nghề nghiệp sau này của sinh viên có thể đáp ứng nhu cầu xã hội thì công tác thực hành thực tập chuyên môn của sinh viên khi đang còn ngôi trên ghế nhà trường có vai trò quyết định. Bởi hoạt động thực hành CTXH giúp sinh viên có khả năng tổng hợp, đánh giá giữa lý thuyết CTXH với thực tiễn, từ thực tiễn giúp sinh viên phân tích và vận dụng phù hợp những lý thuyết đã học để thực hành.

2.1. Những thành tố của thực hành công tác xã hội

          *Cơ sở thực hành: Là nơi sinh viên nghiên cứu, tìm hiểu về chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan, tổ chức làm trong lĩnh vực CTXH; đồng thời cũng là nơi sinh viên được vận dụng những kiến thức đã học vào quá trình thực hành trực tiếp với thân chủ.

Cơ sở thực hành ở đây có thể chia theo các nhóm sau: Hệ thống các cơ quan, tổ chức của Chính phủ thuộc lĩnh vực làm công tác xã hội: Bộ Lao động – Thương binh và xã hội; Bộ y tế; Bộ giáo dục và đào tạo; Bộ tư pháp; Bộ công an…; Các tổ chức Chính trị - xã hội, các Hội: Đoàn Thanh niên; Hội Phụ nữ; Công đoàn; Hội nông dân; Hội cựu chiến binh…; Các tổ chức quốc tế tại Việt Nam: UNICEF, WHO..; Các tổ chức tư nhân; các hiệp hội nghề nghiệp.  

          Cơ sở thực hành có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc giúp sinh viên áp dụng lý thuyết vào thực tiễn. Thông qua thực hành tại cơ sở, sinh viên bước đầu sử dụng kiến thức đã được học để giải quyết các công việc cụ thể, hình thành kỹ năng cần thiết sau khi ra trường.

          *Kiểm huấn viên: Có thể là những giảng viên trực tiếp làm công tác giảng dạy, hoặc những cán bộ làm việc tại các cơ sở xã hội, các trung tâm thực hành… Họ là những người vững về chuyên môn có thể cầm tay chỉ việc giúp sinh viên làm tốt những công việc tại cơ sở.

Với vai trò là  người cung cấp các kiến thức giúp xây dựng và phát triển các kỹ năng dựa trên vốn sống và kinh nghiệm làm việc trước đó của sinh viên, giúp sinh viên phát triển năng lực trong các lĩnh vực chuyên môn mới; Kiểm huấn có trách nhiệm quản lý, giám sát, hướng dẫn, đánh giá và có những điều chỉnh và định hướng kịp thời cho sinh viên về mặt chuyên môn trong quá trình thực hành. Là người có kinh nghiệm thực tế với những trường hợp cụ thể tại cơ sở, họ sẽ trực tiếp hỗ trợ sinh viên trong việc giải quyết các vấn đề tại cơ sở. Bên cạnh đó, họ còn là người giúp sinh viên tháo gỡ những vướng mắc, khó khăn khi thực hành trong quá trình thực hành để sinh viên đạt kết quả cao nhất.

*Giảng viên hướng dẫn: Là người phối hợp cùng với kiểm huấn viên để hỗ trợ sinh viên trong suốt quá trình thực hành.

Giáo viên hướng dẫn thực hành có trách nhiệm hỗ trợ sinh viên trong việc xác định mục tiêu cần đạt được từ đợt thực hành; cùng với kiểm huấn viên tổ chức các buổi họp kiểm huấn; tạo điều kiện cho sinh viên học tập bằng cách cung cấp các hướng dẫn và các nguồn thông tin khi cần thiết; hỗ trợ sinh viên vận dụng lý thuyết CTXH trong quá trình thực tập thông qua các buổi họp kiểm huấn; giải đáp các thắc mắc của sinh viên về các công cụ đánh giá kết quả thực hành; trao đổi với kiểm huấn viên để đánh giá những tiến bộ của sinh viên; trao đổi, thống nhất với kiểm huấn viên để đưa ra kết quả đánh giá cuối cùng cho sinh viên thực hành.

*Sinh viên: Là người trực tiếp tham gia và quyết định kết quả của thực hành, thực tập chuyên môn. Họ phải là người tham gia từ khâu xây dựng kế hoạch, thực hiện kế hoạch, đến lựa chọn cơ sở thực hành và hoàn thiện các báo cáo; chấp hành tốt các nội quy và quy chế thực hành, các nội quy và điều lệ của cơ sở thực hành; làm việc dưới sự giám sát và hướng dẫn chuyên môn của giáo viên hướng dẫn và kiểm huấn viên tại cơ sở thực hành. Trong quá trình thực hành, nhóm sinh viên phải ghi nhật ký thực hành hằng ngày nhằm phản ảnh đầy đủ các hoạt động thực hành của nhóm. Kết thúc đợt thực hành, mỗi nhóm sinh viên phải nộp một báo cáo thực hành cá nhân và nhóm phải hoàn thành một báo cáo thực hành của cả nhóm.

Tuy nhiên, trên thực tế trong công tác thực hành, thực tập CTXH còn tồn tại một số hạn chế làm giảm hiệu quả thực hành của sinh viên.

2.2. Thực trạng công tác thực hành thực tập công tác xã hội

* Cơ sở thực hành

 Hiện nay, hệ thống các cơ sở thực hành, thực tập cho sinh viên còn thiếu đặc biệt những cơ sở cung cấp các dịch vụ có tính chuyên nghiệp. Mặc khác không phải cơ sở nào cũng chấp nhận cho sinh viên thực hành. Không chỉ thế, thông tin về các cơ sở thực hành cho sinh viên chưa được rõ ràng và phổ biến. Điều này xảy ra một phần là bởi công tác phát triển mạng lưới CTXH ở Việt Nam vẫn chưa chính thức hóa. Mạng lưới các dịch vụ CTXH sinh viên có thể thực hành vẫn đang trong quá trình xây dựng, do đó, mỗi khi tổ chức thực hành CTXH cho sinh viên, các giảng viên thường mất nhiều thời gian tìm các cơ sở sẵn sàng tiếp nhận sinh viên.

Nhận thức của các cơ sở thực hành, thực tập dành cho sinh viên đa phần còn hạn chế nên khi sinh viên đến thực hành, họ khó có thể tham gia trực tiếp vào các hoạt động của cơ sở. Mặc dù hoạt động trong lĩnh vực CTXH nhưng nhiều trung tâm bảo trợ xã hội, nhiều tổ chức hỗ trợ người yếu thế chưa nhận thức đúng đắn, khoa học về công tác xã hội. Do đó, khi tiếp nhận sinh viên thực tập, họ gặp khó khăn, bỡ ngỡ trong hướng dẫn, kiểm huấn cho sinh viên.

Mối quan hệ cộng tác giữa trường đại học và các cơ sở thực hành thiếu chuyên nghiệp, thiếu cơ sở pháp lý cụ thể là rào cản để các cơ sở xã hội từ chối tiếp nhận sinh viên thực hành, hoặc có tiếp nhận cũng không hỗ trợ cho sinh viên như mong muốn của nhà trường. Lý do được đưa ra thường là: không có người hướng dẫn, không có thời gian, không được phép của người quản lý hoặc sinh viên phải trả tiền để được hướng dẫn. Họ cho rằng, sự có mặt của sinh viên đã gây cản trở và gia tăng khối lượng công việc cho nhân viên các cơ sở xã hội.

* Kiểm huấn viên

Tại Việt Nam, chức danh kiểm huấn vẫn chưa được công nhận. Nhiều nhân viên tại các cơ sở xã hội đóng vai trò là kiểm huấn cho sinh viên nhưng phần lớn trong số họ chưa qua đào tạo về CTXH cũng như đào tạo về kiểm huấn nên những người được gọi kiểm huấn viên chỉ có thể thực hiện vai trò giám sát hoặc tượng trưng trong quá trình hỗ trợ sinh viên tại cơ sở.

Kinh phí chi trả cho đội ngũ kiểm huấn viên không có hoặc rất hạn chế, điều này khiến cho công việc của các giảng viên thực hành khó khăn hơn vì trong quá trình triển khai thực hành cho sinh viên, các giảng viên cần cộng tác, tương tác thường xuyên với các cán bộ của các cơ sở này, tuy nhiên sự hỗ trợ của các kiểm huấn viên tại cơ sở hiện nay mang tính chất ban ơn, nếu thích thì họ giúp đỡ sinh viên. Hoặc các kiểm huấn viên quá bận với nhiệm vụ của mình và không có thời gian hướng dẫn sinh viên. Trong điều kiện đó, sinh viên rất khó khăn để học hỏi hay thực hành công tác xã hội đúng nghĩa.

* Giảng viên hướng dẫn

Hiện nay các giảng viên hướng dẫn thực hành phải đối mặt với một khó khăn lớn là sức ép về khối lượng công việc và áp lực thời gian. Trách nhiệm và nhiệm vụ của các giảng viên thực hành rất nặng nề, từ xây dựng chương trình, liên hệ cơ sở đến hướng dẫn, giám sát, đánh giá sinh viên,… Trong khi đó, số lượng giảng viên công tác xã hội tại các trường đào tạo chính quy hiện nay còn thiếu rất nhiều. Mỗi giảng viên CTXH (kể cả giảng viên thực hành) thường đảm nhận nhiều môn học. Ngoài việc hướng dẫn sinh viên thực hành, thực tập, các giảng viên phải đảm bảo thời lượng giảng dạy các môn học khác cho các lớp khác nhau, thậm chí sinh viên có thể thực hành thực tập tại nhiều địa phương khác nhau. Yêu cầu đến kiểm tra lại từng cơ sở như trao đổi, thảo luận với từng kiểm huấn viên, sinh viên là quá khả năng của các giảng viên.

*Sinh viên

 Một thực tế thường thấy là việc liên hệ địa bàn thực hành thực tập của sinh viên thường mang tính chất tự phát và thông qua sự tự liên hệ cá nhân. Sinh viên thường thực hành tại một số cơ sở quen thuộc trong thành phố mình theo học nên số lượng sinh viên thực tập tại một cơ sở cũng khá đông dẫn đến hiệu quả của hoạt động thực hành thực tập chuyên môn chưa cao. Các lượt sinh viên thực tập hàng năm cũng khá nhiều. Chính vì vậy, sinh viên khó tìm được thân chủ cũng như làm việc hiệu quả với thân chủ khi mà thân chủ đã được nhiều sinh viên trước đó khai thác.

Tại một số cơ sở thực hành, sinh viên không được giao những công việc liên quan đến ngành nghề đang học, thậm chí phải làm nhiều công việc như lau dọn, nấu ăn, rót nước, pha trà,… Trong điều kiện đó, sinh viên cũng sẽ không dễ dàng được học hỏi hay tham gia trực tiếp những hoạt động liên quan đến chuyên môn khi đến cơ sở thực tập.

Đó là chưa kể vẫn còn một bộ phận sinh viên chưa có ý thức tự giác nâng cao trình độ chuyên môn và thiếu kỷ luật trong quá trình thực hành  thực tập. Một bộ phân sinh viên cho rằng, thời gian thực tập là thời gian được ra xã hội nghỉ ngơi, thư giản sau những tháng ngày miệt mài trên giảng đường.

Tất cả những thực tế trên đã tạo ra bất cập và gây trở ngại lớn đối với quá trình chuyên nghiệp hóa thực hành thực tập nói riêng, chuyên nghiệp hóa đào tạo CTXH nói chung. Đòi hỏi cần phải có những giải pháp cụ thể trong ngắn hạn và dài hạn nhằm hoàn thiện công tác thực hành, thực tập phục vụ đào tạo CTXH chuyên nghiệp.

2.3. Một số giải pháp nâng cao chất lượng thực hành thực tập

- Xây dựng mạng lưới cơ sở thực tập có chất lượng và phong phú về lĩnh vực hoạt động

Mạng lưới các cơ sở thực hành cần được bao phủ rộng khắp bao gồm các Trung tâm, các Trường, Hệ thống Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam từ Trung ương đến cơ sở, các cơ quan, tổ chức trong và ngoài nước.

Tuy nhiên, để mạng lưới các cơ sở, trung tâm và cộng đồng là môi trường chuyên nghiệp cho sinh viên có thể thực hành môn học tốt nhất, các cơ sở đào tạo cần phải xây dựng mối quan hệ với các cơ sở thực hành để mời họ cộng tác với nhà trường trong việc đào tạo nhân viên xã hội tương lai. Mở rộng hợp tác với các tổ chức phi chính phủ, các trường đại học trên thế giới và các cơ quan, tổ chức làm việc trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ CTXH để triển khai các chương trình thực hành môn học tại các cơ sở thực hành tạo một mạng lưới rộng khắp và đa dạng để sinh viên có thể thực hành, thực tập một cách hiệu quả.

Nhà trường cũng có thể phối hợp với cơ sở tạo cơ hội cho sinh viên thực hành phương pháp nghiên cứu, kết quả của những nghiên cứu ứng dụng này có thể là một khởi đầu cho sự hợp tác lâu dài giũa nhà trường và cơ sở, từ đó cũng có thể hình thành những dự án cụ thể nho nhỏ để sinh viên công tác xã hội có thể thực tập mà không quá tốn kém. Cần phải chủ động liên hệ, mở rộng mạng lưới các cơ sở thực hành trên tinh thần hợp tác hai bên cùng có lợi. Xây dựng cam kết hợp tác trong đào tạo giữa cơ sở xã hội và trường đại học bằng văn bản có tính pháp lý trên cơ sở tính toán thù lao hợp lý cho đội ngũ kiểm huấn viên tại cơ sở.

Mặt khác, có thể vận dụng các chương trình xã hội như xoá đói giảm nghèo, chương trình tín dụng, chương trình chăm sóc sức khoẻ tại cộng đồng hay các chương trình mùa hè xanh của địa phương để gởi sinh viên thực tập, việc này đòi hỏi sự cộng tác và điều phối nhịp nhàng giữa các bên, cần phải đầu tư nhiều thời gian.

- Đào tạo và xây dựng đội ngũ kiểm huấn viên

Thực tế hiện nay về đào tạo CTXH, chúng ta có những  kiểm huấn viên tại cơ sở có kinh nghiệm nhưng lại thiếu kiến thức lý thuyết; ngược lại có giảng viên nắm vững lý thuyết lại thiếu kiến thức thực hành. Vì vậy, để công tác thực hành, thực tập tốt nhất thì chúng ta chấp nhận cách vừa làm vừa học cùng với sinh viên trong một giai đoạn nhất định. Cơ sở đào tạo cần tổ chức hội thảo nhằm xây dựng quy trình thực hành Công tác xã hội cũng như đổi mới phương pháp giảng dạy, kinh phí đào tạo… Tăng cường sự kết hợp giám sát, kiểm tra giữa kiểm huấn viên cơ sở và kiểm huấn viên tại trường. Cũng cần tổ chức thêm các lớp tập huấn miễn phí cho các cán bộ tại các cơ sở xã hội cũng như các cán bộ nòng cốt tại cộng đồng, nơi đang tiếp nhận sinh viên về thực hành.

Bên cạnh việc tập huấn, thì có những buổi định hướng cho kiểm huấn viên trước khi có đợt thực tập để chuẩn bị cho họ biết những mục đích, yêu cầu của đợt thực tập sắp tới, thông tin về chương trình học, những tài liệu cần thiết có liên quan để họ chuẩn bị cho cơ sở và cho chính mình để sẵn sàng tiếp nhận và định hướng cho sinh viên khi đến thực tập.

Sau đợt thực tập cũng cần phải có buổi họp lượng giá giũa các kiểm huấn viên, cơ sở, nhà trường và sinh viên thực tập để xem lại công tác kiểm huấn. Qua đó rút ra những khó khăn – thuận lợi trong quá trình kiểm huấn sinh viên cũa kiểm huấn viên, cơ sở, để giúp nhà trường, ban thực tập, kiểm huấn viên và cơ sở làm tốt hơn nũa các chức năng của mình nhằm mang lại hiệu quả cho việc thực tập của sinh viên. Quyền lợi đối với kiểm huấn viên có thể có tùy vào nguồn lực của nhà trường như: quyền được ưu tiên sử dụng thư viện, tham dự các hội thảo, tập huấn về chuyên môn, các buổi toạ đàm, giao lưu chia sẻ kinh nghiệm về lý thuyết và thực tiễn, các buổi thư giãn, ứng phó với stress… Nếu là Kiểm huấn viên tại cơ sở thì có chế độ bồi dưỡng tùy khả năng và thỏa thuận của trường và cơ sở

Liên kết đào tạo đội ngũ kiểm huấn viên cơ sở thông qua các hình thức như tập huấn, đào tạo và chia sẻ kinh nghiệm. Tổ chức các cuộc thi kiểm huấn viên cơ sở giỏi nhằm thu hút và kết nối mạng lưới kiểm huấn viên có kinh nghiệm, kỹ năng chuyên môn. 

- Nâng cao chất lượng đào tạo và năng lực giảng viên

Trước hết các cơ sở đào tạo CTXH cần đẩy mạnh công tác xây dựng, hoàn thiện chương trình, nội dung đào tạo và dạy nghề công tác xã hội, nâng cao năng lực đội ngũ giảng viên ngành CTXH để giải quyết bài toán nhân lực giảng dạy về công tác xã hội cho các trường cao đẳng và đại học khác trong cả nước. Để điều đó trở nên hiệu quả, cần phải có những quy định cụ thể về chuẩn đầu ra cho sinh viên ngành CTXH ở các cấp bậc học khác nhau (cao đẳng nghề, cử nhân đại học, thạc sĩ). Chuẩn đầu ra cần bao gồm nhiều khía cạnh khác nhau, từ thái độ, đạo đức, trách nhiệm nghề nghiệp cho kiến thức chuyên môn và kỹ năng thực hành.

Cần loại bỏ tư tưởng đầu tư hời hợt, đổi mới và nâng cao chất lượng đào tạo một cách thiếu bền vững, để chuyển sang phương thức đào tạo gắn chặt với các hoạt động thực tiễn của doanh nghiệp, cơ sở thực hành và từ đòi hỏi của xã hội. Để làm được điều đó, ngoài các chính sách hỗ trợ nội sinh thì các trường cũng cần phải biết huy động tốt các kênh đầu tư, kết hợp bên ngoài nhà trường (xã hội hóa). Trong đó, giảng viên giữ vai trò trung tâm trong việc kết nối với doanh nghiệp; nâng cao, thay đổi năng lực bản thân thích ứng với các bài học từ thực tế nhằm đẩy nhanh qua trình gắn đào tạo theo nhu cầu xã hội… Đặc biệt, các trường cần phải xác định việc nâng cao chất lượng đào tạo bắt nguồn từ chính sự đổi mới tư duy, đổi mới phương pháp dạy của giảng viên.

Các trường cần phải thực hiện nhiều chính sách nhằm nâng cao đãi ngộ cho giảng viên hướng dẫn thực hành. Giải thoát “sức ỳ” từ chính đội ngũ giảng viên bằng các chính sách khuyến khích, hỗ trợ đầu tư “tay nghề”, giúp giảng viên có điều kiện tiếp thu, lĩnh hội kỹ năng thực hành và những thành tựu mới đang cập nhật mỗi ngày, làm thế nào để chính họ thật sự cảm thấy hữu ích, hứng thú, muốn dành tất cả thời gian của mình để nâng cao nghiệp vụ.

- Nâng cao phương pháp quản lý và hỗ trợ sinh viên trong quá trình thực hành thực tập

          Việc xây dựng quy trình lượng giá sinh viên một cách chặt chẽ và khoa học là hết sức cần thiết và quan trọng. Bởi quá trình thực hành thực tập chỉ thực sự có kết quả tốt nếu sinh viên nắm rõ được những yêu cầu cần phải đạt được trong quá trình thực tập, những nội dung gì sẽ được lượng giá. Quy trình lượng giá sinh viên cần có sự tham gia của các bên khác nhau để đảm bảo tính minh bạch và toàn diện. Ví dụ: bao gồm việc tự đánh giá sinh viên, đánh giá từ người phụ trách thực tập tại cơ sở  thực hành hoặc là kiểm huấn viên, đành giá từ người phụ trách thực tập tại cơ sở đào tạo. Các nội dung lượng giá cần dựa theo tiêu chuẩn đầu ra của ngành, hoặc tham khảo thêm những nội dung đánh giá từ các chương trình thực tập CTXH tại các nước phát triển.

          Để chuyên nghiêp hóa quan hệ cộng tác giữa cơ sở đào tạo và cơ sở thực hành, thực tập cho sinh viên, kinh phí là yếu tố không thể thiếu. Sự công tác sẽ bền chặt hơn nếu có sự chia sẻ về quyền lợi. Vì vậy, rất cần sự tăng cường hỗ trợ về kinh phí cho sinh viên trong quá trình thực hành tại cơ sở. Bởi bản thân sinh viên khi tham gia hoạt động này đã phải tự lo liệu rất nhiều vấn đề từ đi lại, ăn ở đến tổ chức các hoạt động chuyên môn. Sự đầu tư kinh phí cao hơn sẽ khiến cho việc tổ chức các hoạt động thực hành thực tập phong phú đa dạng và mới lạ hơn, tránh được tình trạng trùng lặp, nhàm chán; tạo nên hứng thú và niềm say mê nhất định của sinh viên đối với nghề.

          Bản thân mỗi sinh viên CTXH cần nâng cao ý thức kỷ luật và nhận thức rõ vai trò và trách nhiệm của mình trong quá trình thực hành thực tập. Tránh tình trạng ỉ lại, thờ ơ và tâm lý “xả hơi” khi tham gia hoạt động thực hành thực tập tại cơ sở. Mỗi sinh viên CTXH phải xem hoạt động thực hành thực tập tại cơ sở là cơ hội thể hiện năng lực nghề nghiệp của bản thân.

          Có thể nói, quá trình thực hành thực tập tại cơ sở là khoảng thời gian giúp sinh viên trải nghiệm môi trường làm việc một cách thực tế, tạo cơ hội cho sinh viên ứng dụng những kiến thức và kỹ năng được trang bị tại trường học vào các đối tượng, lĩnh vực và tình huống cụ thể khác nhau. Đây cũng là khoảng thời gian để sinh viên phát triển khả năng phân tích đánh giá giữa lý thuyết và thực tế, đồng thời suy nghĩ về việc phát triển kiến thức và kỹ năng chuyên sâu trong tương lai. Vì vậy chương trình thực hành thực tập tại các cơ sở thực hành do các cơ sở đào tạo thiết kế phải phù hợp và có sự thống nhất cao từ quá trình chuẩn bị, tiến hành thực tập và lượng giá kết thúc. Cần có những giải pháp cụ thể để xây dựng hệ thống các cơ sở thực hành có chất lượng và mạng lưới kiểm huấn viên/giáo viên hướng dẫn thực hành đủ năng lực. Bên cạnh đó cũng cần phải xây dựng và hoàn thiện quy trình quản lý, đánh giá sinh viên  một cách chặt chẽ và khoa học, đảm bảo tính khách quan và toàn diện. Có như vậy hiệu quả công tác đào tạo CTXH nói chung, chất lượng thực hành thực tập chuyên môn cho sinh viên ngành CTXH sẽ được nâng cao từng bước./.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Báo điện tử Đảng cộng sản Việt Nam, (2015), Đổi mới phương pháp dạy và học ngành Công tác xã hội, http://cn.cpv.org.vn, truy cập ngày 20/05/2016
  2. Mai Tuyết Hanh. “Một số kinh nghiệm triển khai thực hành CTXH tại trường Đại học KHXH&NV”, Kỷ yếu hội thảo xây dựng mạng lưới thực hành công tác xã hội các trường đại học tại Việt Nam, 2010, Đại học Lao động xã hội
  3. Pham, T.H, (2015), Mô hình thực tập CTXH ở Việt Nam – Kết quả phân tích sơ lược, Sweep
  4. PGS.TS Nguyễn Thị Hoàng Yến, Tạ Hải Giang, (2009), Công tác thực hành trong đào tạo Công tác xã hội, Kỷ yếu Hội thảo quốc gia phát triển nghề CTXH, Đại học Sư phạm Hà Nội

[*] Trường Đại học Văn hóa, Thể thao và Du lịch Thanh Hóa