Ngô tuấn là ai

Về Trang Chính

Lý Thường Kiệt tự nguyện tịnh thân để lập công danh


Trong lịch sử triều Lý, có lẽ Lý Thường Kiệt là một trong những cái tên nổi danh nhất khi ông phò Vua phá Tống bình Chiêm công danh hiển hách. Tuy nhiên, ít người biết ông vốn không thuộc hoàng tộc nhà Lý và lại càng ít người biết ông xuất thân từ quan thái giám.

Số phận trời định

Lý Thường Kiệt vốn tên Ngô Tuấn, là con trai của tướng Ngô An Ngữ với phu nhân họ Hàn. Ông sinh năm 1019 dưới triều vua Lý Thái Tổ. Tương truyền, từ khi sinh ra, số mệnh Lý Thường Kiệt đã được báo trước là sẽ công danh hiển hách song lại phiền là không có con nối dõi.

Ngô tuấn là ai

Tượng Lý Thường Kiệt tại Bảo tàng lịch sử quân sự.

Sách Kể chuyện các quan thái giám trong lịch sử Việt Nam

kể rằng, khi Hàn phu nhân đang mang thai Ngô Tuấn từng gặp 1 ông lão. Ông lão nói rằng: Đêm trước lão xem thiên văn thấy một ngôi phúc tinh sa xuống khu vực này nên định bụng sáng ra đi xem, nay gặp phu nhân lão đã hiểu rõ sự tình. Xin chúc mừng phu nhân. Phu nhân sắp có tin vui rồi. Nhìn sắc mặt, dáng vẻ và cốt cách của phu nhân, lão đoán chắc phu nhân sẽ sinh quý tử. Đây là 1 con người tuấn kiệt, uy danh lừng lẫy không chỉ mang lại vinh quang cho dòng họ Ngô mà còn là phúc tinh của nước Nam này nữa.


Đang nói chuyện vui bỗng ông lão ngập ngừng: “Duy chỉ có một điều…”. Hàn phu nhân gạn hỏi mãi ông lão mới bảo: “Duy có 1 điều e rằng lại không có con nối dõi”. Nói xong, sợ Hàn phu nhân buồn bã ông lão an ủi: “Nhưng dù chẳng có người nối dõi thì tiếng thơm muôn thuở cũng không dòng họ nào sánh kịp”. Hàn phu nhân còn đang ngẩn ngơ suy nghĩ những lời lạ lùng của ông lão thì ngoảnh đi ngoảnh lại ông đã biến đâu mất. Mọi người đều cho là thần nhân mách bảo.


Quả nhiên, một thời gian sau phu nhân phát hiện mình đã có mang. Hết hạn thai kỳ, Hàn phu nhân sinh ra 1 bé trai rất khôi ngô. Chỉ vài ngày sau khi sinh, đứa trẻ đã nhận biết được cha mẹ, ra chiều rất lanh lợi. Ngô tướng quân đặt tên con là Ngô Tuấn với ý nghĩa mong con sau này lớn lên trở thành 1 người tuấn kiệt tài ba.


Bước ngoặt trong đời


Năm Ngô Tuấn 13 tuổi thì cha mất trong một lần đi tuần tra ở biên giới ở châu Tượng. Ông được người chú rể là Tạ Đức đón về nuôi nấng dạy dỗ thay cha. Tạ Đức đã dạy Ngô Tuấn đủ cả văn võ. Ban ngày thì học cưỡi ngựa bắn cung, lập doanh bày trận. Đêm đến lại nghiên cứu các binh thư kim cổ cùng sách Nho sách Phật đủ cả. Yêu mến đứa cháu có chí hướng, Tạ Đức còn đem cô cháu gái tên là Thuần Khanh gả cho Ngô Tuấn.


Năm 17 tuổi, Ngô Tuấn lại mất mẹ. Khi mãn hạn chịu tang, theo lệ tập ấm, chàng được bổ nhiệm chức Kỵ mã hiệu úy – một chức quan nhỏ trong lực lượng kỵ binh của quân đội.


Mặc dù đã lấy Thuần Khanh song Ngô Tuấn chỉ ham mê nghiên cứu binh thư nên chuyện gia đình có phần xao nhãng. Bởi thế mà mấy năm vẫn chưa có con. Mọi chuyện đang bình thường thì năm 1041, một biến cố xảy ra làm thay đổi hẳn cuộc đời của Ngô Tuấn. 


Năm ấy, Lý Thái Tông trong khi đi săn đã nhìn thấy một viên kỵ mã mặt mũi khôi ngô. Rất vừa lòng, nhà vua cho gọi lại phán bảo: “Ta thấy ngươi hình dung tài mạo tuyệt vời lại cưỡi ngựa bắn cung giỏi, ta rất muốn bổ ngươi vào ngạch thị vệ để luôn hầu cận bên ta. Nhưng muốn vào cung ngươi phải tự yếm. Ta sẽ cho ngươi tiền để làm việc này. Tuy nhiên ta biết ngươi đã có gia đình. Vậy ngươi hãy tự quyết chứ ta không ép”.


Vốn là người có chí hướng lập công danh nên khi Ngô Tuấn coi việc vào cung là một cơ hội để thi thố tài năng và bằng lòng ngay. Có điều chàng vẫn canh cánh về người vợ Thuần Khanh.


Cuối cùng Ngô Tuấn cũng bộc lộ nỗi lòng mình với vợ và quyết ý để nàng đi tìm hạnh phúc khác còn mình thì vào cung. Biết tin, Tạ Đức rất tức giận nhưng sau đó, nghĩ đến lệnh vua khó chối, lại có câu chuyện thần nhân xưa kia đã nhắc khiến ông cũng nguôi ngoai và rồi chính ông lại giúp đỡ Ngô Tuấn giải quyết việc của Thuần Khanh. Vậy là từ đây cuộc đời Ngô Tuấn trở thành 1 thái giám trong cung đình.

Lưu danh sử sách


Vào cung chẳng bao lâu, Ngô Tuấn đã chứng tỏ được tài năng của mình nên nhanh chóng nổi danh trong triều đình. Từ một thái giám chỉ lo việc vặt trong cung, năm 1054, Ngô Tuấn đã được thăng lên chức Bổng hành quân hiệu úy – một chức võ quan cao cấp của triều đình. 


Tuy nhiên sử sách và người đời chỉ biết đến Ngô Tuấn dưới cái tên Lý Thường Kiệt. Theo các sử liệu, Thường Kiệt là tên tự của Ngô Tuấn còn việc ghép họ Lý vào là vì Ngô Tuấn có công lao nên được ban quốc tính (họ của Vua). Rất tiếc sử sách không chép rõ việc này xảy ra năm nào.

Ngô tuấn là ai

Đền thờ Lý Thường Kiệt tại làng phố Nguyễn Huy Tự - Hai Bà Trưng – Hà Nội. Ảnh: Tạp chí Tuyên Giáo.


Từ đây, tên tuổi Lý Thường Kiệt nổi như cồn, trở thành 1 nhân vật lớn trong thời đại nhà Lý. Năm 1064, ở phương Nam, nước Chiêm Thành sang cống nạp nhà Tống và xin mua ngựa. Trong nước thì vua Chế Củ (tức Rudravarman III ) tăng cường xây dựng, rèn luyện quân đội nhằm mục đích chuẩn bị liên minh với nhà Tống tấn công Đại Việt. Để phá thế liên minh Tống – Chiêm, Vua Lý Thánh Tông quyết định tấn công Chiêm Thành trước. 


Tháng 2/1069, trong đạo quân đi đánh Chiêm Thành do vua Lý Thánh Tông làm soái, Lý Thường Kiệt được vua chọn làm tướng tiên phong. Ông đã dẫn quân đánh tan quân phòng thủ của Chiêm trong trận Tu Mao khiến vua Chiêm phải nửa đêm bỏ trốn khỏi kinh thành. Rồi chính đội quân truy kích của ông lại bắt được vua Chiêm, buộc ông vua này phải cắt 3 châu cho Đại Việt để được tha về. Nhờ công lao trong cuộc chiến này, Lý Thường Kiệt được phong Phụ quốc thượng tướng quân tước Khai quốc công. Không lâu sau lại được thăng lên Thái úy, nắm binh quyền cả nước.


Trang sử vẻ vang nhất trong cuộc đời Lý Thường Kiệt và cũng là trong triều đại nhà Lý là cuộc kháng chiến chống Tống năm 1075-1077. Như bao triều đại trước, triều Tống luôn dòm ngó Đại Việt. Sau khi quân Chiêm Thành bị nhà Lý đánh tan tác, nhà Tống mất liên minh nhưng vẫn âm thầm chuẩn bị đưa quân sang đánh nước ta.


Không ngồi yên đợi giặc, Lý Thường Kiệt tâu với Vua cho dẫn quân đánh trước để phá cuộc chuẩn bị của chúng. Năm 1075, Cánh quân bộ có 6 vạn quân do Tôn Đản chỉ huy đánh sang Tống từ hướng Cao Bằng. Quân thủy có 4 vạn do Lý Thường Kiệt chỉ huy từ Quảng Ninh sang Khâm Liêm. Hai cánh quân đánh đâu thắng đó như đi vào chỗ không người. Đến tháng 12/1075, hai cánh quân hợp vây thành Ung Châu. Sau 40 ngày vây hãm, quân nhà Lý hạ được thành rồi tiến lên đánh Tân Châu. Những nơi đi qua, quân Lý triệt phá hết các cầu cống, kho lương, vũ khí của địch. Đầu năm 1076, cuộc tiến công hoàn thành mục tiêu, quân nhà Lý rút về nước.


Năm sau, quân Tống kéo 10 vạn quân và 20 vạn dân phu sang đánh báo thù. Lý Thường Kiệt cho dựng phòng tuyến trên sông Cầu chặn được bước tiến của địch khiến chúng đánh lâu không thắng lại gặp phải bệnh dịch tình thế tiến thoái lưỡng nan. Nắm được tình trạng địch, Lý Thường Kiệt chủ động cho người sang giảng hòa để kết thúc chiến tranh. Những vùng quân Tống lấn chiếm, khi quân Tống rút đến đâu, ông cho quân theo sau chiếm lại tới đó.


Một năm trước khi mất, dù tuổi đã cao, Lý Thường Kiệt vẫn cầm quân đi đánh quân Chiêm Thành. Nguyên trước đây vua Chế Củ cắt 3 châu cho Đại Việt để được tha về nhưng năm 1104, vua Chế Ma Na lại đem quân chiếm lại. Được tin, vua sai Lý Thường Kiệt đem quân vào đánh, phá được quân Chiêm, Chế Ma Na lại phải nộp đất ấy cho Đại Việt.


Năm 1105, Lý Thường Kiệt mất, được tặng chức Nhập nội điện đô tri kiểm hiệu thái úy bình chương quân quốc trọng sự, tước Việt quốc công, tặng thực ấp 1 vạn hộ. Trong lịch sử Việt Nam, Lý Thường Kiệt là thái giám đầu tiên nêu gương sáng về tấm lòng phò vua báo quốc. Trong lịch sử chiến tranh Đại Việt – Trung Quốc, ông là tướng Việt duy nhất chủ động đánh sang Trung Quốc để bẻ gãy mũi nhọn xâm lược của địch.

Về Trang Chính

Trong lịch sử, hoạn quan chỉ được xem là kẻ hạ đẳng phục dịch chốn hoàng cung. Nhưng nếu là thiên tài thì từ hoạn quan vẫn có thể trở thành anh hùng kiệt xuất. Trong sử Việt đã xuất hiện một người như thế, đó chính là Lý Thường Kiệt.

Ngô tuấn là ai
Lý Thường Kiệt trong cuộc chiến Tống – Việt. (Tranh minh họa: Tranh truyện lịch sử Việt Nam, NXB Kim Đồng)

Thiên tài được báo trước

Cháu 5 đời của Ngô Quyền là Ngô An Ngữ làm tướng quân dưới thời vua Lý Thái Tổ. Gia đình ông ở phường Thái Hòa, ngay trước cửa Tây Hoàng thành Thăng Long.

Trong quyển sách “Kể chuyện các quan thái giám trong lịch sử Việt Nam” có ghi chép rằng:

Một hôm vợ của Ngô An Ngữ là bà Hàn Diệu Chi gặp một ông lão. Nhìn thấy Hàn phu nhân, ông lão mừng rỡ nói rằng: “Đêm trước lão xem thiên văn thấy một ngôi phúc tinh sa xuống khu vực này nên định bụng sáng ra đi xem, nay gặp phu nhân lão đã hiểu rõ sự tình. Xin chúc mừng phu nhân. Phu nhân sắp có tin vui rồi. Nhìn sắc mặt, dáng vẻ và cốt cách của phu nhân, lão đoán chắc phu nhân sẽ sinh quý tử. Đây là một con người tuấn kiệt, uy danh lừng lẫy không chỉ mang lại vinh quang cho dòng họ Ngô mà còn là phúc tinh của nước Nam này nữa.”

Đang nói chuyện vui vẻ bỗng ông lão ngập ngừng vẻ khó nói: “Duy chỉ có một điều…” Hàn phu nhân gặng hỏi mãi ông lão mới nói rằng: “Duy có 1 điều e rằng lại không có con nối dõi”. Nói xong, sợ Hàn phu nhân buồn bã, ông lão an ủi: “Nhưng dù chẳng có người nối dõi thì tiếng thơm muôn thuở cũng không dòng họ nào sánh kịp”. Hàn phu nhân ngẩn ngơ với những lời của ông lão, ngoảnh lại đã thấy ông lão đi mất rồi.

Không lâu sau, Hàn phu nhân có mang rồi hạ sinh được một bé trai khôi ngô tuấn tú. Chỉ vài ngày sau khi sinh đứa bé đã nhận biết được cha mẹ, lại rất lanh lợi. Ngô An Ngữ quý lắm, đặt tên cho con trai là Ngô Tuấn với mong muốn sau này con sẽ trở thành người tài ba tuấn kiệt.

Tinh thông binh thư kim cổ

Năm Ngô Tuấn 13 tuổi thì mất cha, được người chú rể là Tạ Đức đón về nuôi nấng, học tập đầy đủ cả văn lẫn võ. Ban ngày thì học cưỡi ngựa bắn cung, lập doanh bày trận; đến tối lại nghiên cứu các binh thư kim cổ cùng sách Nho gia, Phật gia đủ cả. Yêu mến đứa cháu có chí hướng, Tạ Đức còn đem cô cháu gái tên là Tạ Thuần Khanh gả cho Ngô Tuấn.

Năm 17 tuổi thì Ngô Tuấn mất mẹ, sau đó con đường sự nghiệp được khởi đầu bằng chức Kỵ mã hiệu úy – một chức quan nhỏ trong lực lượng kỵ binh của quân đội.

Dù đã có vợ nhưng Ngô Tuấn suốt ngày nghiền ngẫm binh thư, nên ít có thời gian để ý đến vợ, vì thế mà suốt mấy năm liền vẫn chưa có con.

Diện kiến nhà Vua

Năm 1041, vua Lý Thái Tông trong khi đi săn đã tình cờ gặp Ngô Tuấn. Vua lấy làm yêu mến tài năng của Ngô Tuấn nên rất muốn ông nhập cung hầu cận, nhưng nếu như thế thì phải “tự yếm”.

Biết Ngô Tuấn đã có gia đình nên nhà Vua nói: “Ta thấy ngươi hình dung mạo tuyệt vời, lại cưỡi ngựa bắn cung giỏi, ta rất muốn bổ ngươi vào ngạch thị vệ để luôn hầu cận bên ta. Nhưng muốn vào cung ngươi phải tự yếm. Tuy nhiên ta biết ngươi đã có gia đình. Vậy ngươi hãy tự quyết chứ ta không ép”. Ngô Tuấn xưa nay rất chăm chỉ học hành, nghĩ rằng đây là dịp tốt để có cơ hội dùng đến tài năng và kiến thức mà ông đã có được nên bằng lòng với Vua.

Tạ Đức khi biết tin cũng giận dữ, nhưng nghĩ lại là ý Vua cũng khó từ chối, nên ông cũng đứng ra giúp đỡ Ngô Tuấn nhập cung. Và từ đó Ngô Tuấn trở thành thái giám trong cung đình.

Đổi sang họ Vua

Ban đầu Ngô Tuấn chỉ là một thái giám làm việc lặt vặt hầu cận bên Vua. Nhưng với tài năng của mình, ông đã lập được nhiều công lao và nhanh chóng chiếm được cảm tình trong hoàng tộc nhà Lý. Vì thế mà nhà Lý quyết định đổi ông từ họ “Ngô” sang họ “Lý” (tức mang họ của Vua) với tên gọi là Thường Kiệt. Bắt đầu từ đấy Lý Thường Kiệt đã ghi dấu tên tuổi của mình vào lịch sử

Với tài năng kiệt xuất, ông nhanh chóng được thăng đến chức Bổng hành quân hiệu úy – một chức võ quan cao cấp của triều đình. Năm 1053 ông được phong làm Nội thị sảnh đô tri khi 35 tuổi.

Ngô tuấn là ai
Lý Thường Kiệt – Vị tướng kiệt xuất nhà Lý.

Những chiến công rạng danh lịch sử

Phía Nam đánh Chiêm thành, bắt vua Chiêm

Năm 1061 người Mường ở biên giới Thanh Hóa, Nghệ An quấy rồi, Lý Thường Kiệt được lệnh đi dẹp loạn. Thế nhưng ông chủ trương không dùng bạo lực, mà cố gắng thu phục nhân tâm. Từ đó ông đã thu phục được dân Mường, giúp ổn định vùng biên giới phía Nam.

Năm 1064, vua Chiêm Thành là Chế Củ (tức Rudravarman III) xây dựng quân đội mạnh mẽ, liên minh với nhà Tống tiến đánh Đại Việt. Lúc này Đại Việt gặp nguy khi phía Bắc bị Tống uy hiếp, phía Nam Chiêm Thành cũng lăm le xâm phạm. Để phá thế liên minh Tống – Chiêm, vua Lý Thánh Tông quyết định đem binh tiến đánh Chiêm Thành trước.

Tháng 2/1069, vua Lý Thánh Tông dẫn 5 vạn quân theo đường thủy tiến đánh Chiêm Thành, Lý Thường Kiệt được cử làm tướng đi tiên phong. Mọi việc ở nhà giao cho Nguyên Phi Ỷ Lan nhiếp chính, thái sư Lý Đạo Thành trợ giúp.

Thủy quân vua Lý đến Nhật Lệ thì gặp quân Chiêm Thành đánh chặn nhưng bị quận Đại Việt đánh bại. Quân Việt không đổ bộ vào Nhật Lệ mà theo đường thủy tiến thẳng vào kinh đô Chiêm Thành là thành Phật Thệ (thuộc tỉnh Bình Định ngày nay).

Quân Chiêm trên sông Tu Mao chặn quân Đại Việt. Tướng tiên phong Lý Thường Kiệt cho quân tiến đến đánh bại quân Chiêm. Tướng chỉ huy quân Chiêm cùng 3 vạn quân bị tiêu diệt.

Thừa thắng, Lý Thường Kiệt đem quân tiến thẳng vào kinh thành, đang đêm vua Chế Củ bỏ trốn vào phía Nam. Quân Đại Việt chiếm được kinh thành, Lý Thường Kiệt đưa quân đuổi theo vua Chiêm.

Vua Chiêm chạy trốn đến biên giới với Chân Lạp thì không dám vượt sang vì có hiềm thù với Chân Lạp, nên phải đầu hàng Lý Thường Kiệt. Sau đó Vua Chiêm phải dâng 3 châu cho Đại Việt.

Sau chiến công này Lý Thường Kiệt được phong Phụ quốc thượng tướng quân tước Khai quốc công. Không lâu sau lại được thăng lên Thái úy, nắm toàn bộ binh quyền cả nước.

Phía Bắc tiến sang đất Tống, đánh đến tận Ung Châu

Sau khi Lý Thánh Tông mất, vua Lý Nhân Tông lên nối ngôi mới 7 tuổi, thái hậu Ỷ Lan nhận được tin từ Khu Mật Viện báo quân Tống chuẩn bị kế hoạch đánh Đại Việt, quân lương tập trung ở Ung Châu.

Thái hậu Ỷ Lan nghĩ rằng phải tiến đánh Ung Châu trước khi quân Tống tiến sang. Bà bàn việc này với Lý Thường Kiệt và được ông ủng hộ. Kế hoạch đánh Ung Châu được tiến hành và đặt dưới sự chỉ huy của Lý Thường Kiệt.

Năm 1075 quân triều đình của Lý Thường Kiệt cùng quân của các thủ lĩnh dân tộc thiểu số tiến đánh sang đất Tống.

Tiến đánh Ung Châu được xem là một trong những chiến công hiển hách nhất trong sử Việt, lấy tấn công trước để phòng thủ, quân Đại Việt chiếm nhiều Châu Trại trên đất Tống như Khâm Châu, Liêm Châu, Lộc Châu, Bạch Châu, Ung Châu. Quân Tống đại bại, hàng chục tướng nhà Tống bị tử trận. (Xem bài: Điểm lại những lần quân Việt tiến đánh Trung Quốc trong lịch sử)

Chiếm được Ung Châu rồi, quân Việt thiêu hủy kho lương, phá hủy các căn cứ quân sự, lấy đá chặn tuyến đường giao thông trên sông rồi rút quân.

Trận đánh của Lý Thường Kiệt khiến nhà Tống mất mặt đến mức quyết định nhượng bộ Tây Hạ ở phía Tây, cắt đất dâng cho nước Liêu ở phía Bắc, nhằm huy động các cánh quân tinh nhuệ xuống phía Nam tiến đánh Đại Việt để phục thù.

Cuộc chiến bảo vệ giang sơn

Đầu năm 1077 tướng Tống Quách Qùy dẫn 30 vạn quân tiến đánh Đại Việt, trong đó có 10 vạn quân chủ lực và 20 vạn phu phen. Lý Thường Kiệt chỉ huy toàn quân Đại Việt bước vào cuộc chiến bảo vệ giang sơn.

Quân Tống chia hai đường thủy bộ tiến đánh. Đường thủy, quân Tống dùng hàng trăm chiến thuyền tiến sang Đại Việt, khi đến Đông Kênh thì bị thủy binh Đại Việt mai phục sẵn tiến đánh, hàng trăm chiến thuyền quân Tống bị đánh chìm, hàng vạn quân Tống bị tiêu diệt. Tướng Tống là Dương Tùng Tiên phải cho các thuyền còn lại quay đầu bỏ chạy để tránh bị tiêu diệt hoàn toàn.

Lý Thường Kiệt dùng quân chủ lực chặn quân Tống tại sông Như Nguyệt, đây là con sông kéo dài chắn ngang đường tiến xuống phía nam, ông đã tính rằng quân Tống không còn thủy binh thì sẽ khó qua sông.

Quách Quỳ chờ thủy binh không được đành tự đóng thuyền rồi cho quân vượt sông, nhưng lần nào cũng bị đánh bại, phải ra lệnh không vượt sông nữa, cố thủ chờ thêm viện binh.

Lý Thường Kiệt chờ cơ hội chín muồi thì cho quân vượt sông đánh Tống và thắng lớn. Lúc này quân Tống bị tiêu diệt quá nửa, lương thực đã cạn. Lý Thường Kiệt liền cho người mang thư tới nghị hòa, quân Tống đang tuyệt vọng nên đồng ý và rút quân về nước.

Trong cuốn “Nhị Trình di thư” của nhà Tống có ghi chép về việc này rằng: “May được lời giặc nói nhũn, liền nhân đó giảng hòa. Nếu không có lời quy thuận của giặc thì làm thế nào?” Như vậy đủ thấy tình trạng của quân Tống lúc bấy giờ.

Sau khi quân Tống về nước, kiểm lại binh mã thì 10 vạn quân chủ lực chỉ còn lại 23.400 lính; 20 vạn phu phen còn lại chưa đầy một nửa.

Cuộc chiến của Lý Thường Kiệt và quân dân Đại Việt đã đập tan ý chí Nam tiến của quân Tống, khiến nhà Tống từ đó không dám ngó ngàng dải đất phương Nam nữa.

Cúc cung tận tụy đến chết mới thôi

Năm 1104 vua Chiêm Thành là Chế Ma Na đem quân tiến đánh, chiếm lại các vùng đất mà vua Chế Củ đã nhượng lại cho Đại Việt trước đây. Lý Thường Kiệt lúc này đã 86 tuổi vẫn cố sức gượng dậy, đưa quân về phía Nam đánh bại quân Chiêm Thành. Chế Ma Na phải nộp lại đất cho Đại Việt. Sau chiến công này, sức khỏe Lý Thường Kiệt giảm nhiều do tuổi già, một năm sau thì ông mất.

Lý Thường kiệt sinh thời trong bối cảnh Đại Việt bị kìm kẹp giữa liên minh Tống – Chiêm, giang sơn có thể bị mất bất kỳ lúc nào. Thế nhưng sự xuất hiện của ông vào đúng thời điểm lịch sử này không chỉ giúp giang sơn Đại Việt được giữ vững, mà những cuộc tấn công “bình Chiêm, phạt Tống” của ông khiến bờ cõi được mở mang, Chiêm Thành quy phục, Tống triều phải nể sợ.

“Đây là 1 con người tuấn kiệt, uy danh lừng lẫy không chỉ mang lại vinh quang cho dòng họ Ngô mà còn là phúc tinh của nước Nam này nữa”

Câu nói của vị cao nhân biết quan sát thiên tượng ngay trước khi Lý Thường Kiệt sinh ra đã trở thành sự thật. Trong thời điểm khó khăn, Thiên thượng đã để ông giáng sinh ở nước Nam để ghi lại dấu ấn lịch sử xán lạn cho con dân Đại Việt.

Đ.T/VisionTimes

FacebookTwitterGoogle+Pin It