Ngôn ngữ học xã hội PDF

Tags:

  • khoa ngôn ngữ
  • ngôn ngữ học xã hội ebook pdf
  • nguyễn văn khang
  • nxb giáo dục 2012
  • đại học khoa học xã hội và nhân văn

  1. Ngôn ngữ học xã hội PDF

    quanh.bv Hỗ Trợ Diễn Đàn Staff Member Quản Trị Viên

    Ngôn ngữ học xã hội PDF

    Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc. Bức tranh ngôn ngữ–dân tộc ở Việt Nam khá đa dạng. Hiện tượng song ngữ, đa ngữ phổ biến ở tất cả các vùng. Tiếng Việt được coi là ngôn ngữ quốc gia, là phương tiện giao tiếp giữa các dân tộc ở Việt Nam. Tuy nhiên, sự khác biệt giữa các phương ngữ địa lí, phương ngữ xã hội vẫn còn tồn tại. Mặt khác, không thể không học thêm các ngôn ngữ nước ngoài như tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Hán, tiếng Nga,... Điều này khiến cho bức tranh ngôn ngữ–xã hội ở Việt Nam càng phức tạp hơn. Để đưa đất nước ta tiến lên công nghiệp hoá, hiện đại hoá đòi hỏi phải có những quyết sách về ngôn ngữ. Những quyết sách đó phải dựa trên những thành tựu nghiên cứu của ngôn ngữ học xã hội. Thành tựu nghiên cứu trong lĩnh vực này cũng hữu ích trực tiếp với việc nghiên cứu dụng học và việc nghiên cứu mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hoá, là những lĩnh vực đang được nhiều người quan tâm.
    • Ngôn Ngữ Học Xã Hội
    • NXB Giáo Dục 2012
    • Tác giả: Nguyễn Văn Khang
    • Số trang: 550
    • Kiểu file: PDF-SCAN
    • Ngôn ngữ: Tiếng Việt
    Link Download
    http://tailieudientu.lrc.tnu.edu.vn/Chi-tiet/hoi-56867.html
    https://drive.google.com/file/d/1D2SZVvADlDd__5lw1cgxNxtBey6XoryK
    https://drive.google.com/drive/folders/1yLBzZ1rSQoNjmWeJTM6cEZ3WGQHg04L1

    Zalo/Viber: 0944625325 |

    • Tuyển Tập Ngôn Ngữ Học (NXB Đại Học Quốc Gia 2001) - Hoàng Tuệ, 1183 Trang02/06/2017
    • Ngữ Âm Tiếng Việt (NXB Đại Học Quốc Gia 2003) - Đoàn Thiện Thuật, 365 Trang07/05/2014
    • Chơi Chữ (NXB Nam Chi Tùng Thư 1970) - Lãng Nhân, 316 Trang30/12/2016
    • Vẻ Đẹp Ngôn Ngữ, Vẻ Đẹp Văn Chương (NXB Trẻ 2014) - Lê Xuân Mậu, 228 Trang16/04/2018
    • Nhập Môn Ngôn Ngữ Học-Lý Thuyết (NXB Giáo Dục 1996) - John Lyons, 763 Trang17/03/2015
    • Ngữ Pháp Tiếng Việt Từ Loại I&II (NXB Đại Học Quốc Gia 2015) - Đinh Văn Đức, 550 Trang12/06/2013
    • Ngôn Ngữ Học Việt Nam-Chữ Và Vần Việt Khoa Học (NXB Khai Trí 1958) - Nguyễn Bạt Tụy, 228 Trang08/09/2017
    • Ngữ Âm Tiếng Ê Đê (NXB Khoa Học Xã Hội 1996) - Đoàn Văn Phúc, 287 Trang04/03/2017
    • Phương Pháp Luận Và Phương Pháp Nghiên Cứu Ngôn Ngữ (NXB Giáo Dục 2012) Nguyễn Thiện Giáp, 616 Trang01/10/2017
    • Cảnh Huống Và Chính Sách Ngôn Ngữ Ở Việt Nam (NXB Khoa Học Xã Hội 2016) - Nguyễn Đức Tồn, 508 Trang30/04/2022
    • Cơ Sở Ngôn Ngữ Học (NXB Khoa Học Xã Hội 1998) - Nguyễn Thiện Giáp, 268 Trang28/05/2017
    • Văn Bản Và Liên Kết Trong Tiếng Việt (NXB Giáo Dục 2010) - Diệp Quang Ban, 245 Trang23/01/2015
    • Ngữ Pháp Tiếng Việt Của Đắc Lộ 1651 (NXB Thời Điểm 1993) - Nguyễn Khắc Xuyên, 233 Trang01/06/2017
    • Ngữ Nghĩa Học Dẫn Luận (NXB Giáo Dục 2006) - John Lyons, 368 Trang15/03/2015
    • Từ Láy Trong Tiếng Việt (NXB Khoa Học Xã Hội 2003) - Hoàng Văn Hành, 186 Trang10/01/2020

    Last edited by a moderator: Mar 7, 2022

    Krang and hhquynh97 like this.

Share This Page

Ngôn ngữ học xã hội PDF

  • Forums

    Forums

  • Members

    Members

  • Menu

Xem mẫu

  1. Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ Phần C: Khoa học Xã hội, Nhân văn và Giáo dục: 25 (2013): 79-95 NGÔN NGỮ HỌC XÃ HỘI: NHỮNG QUAN NIỆM VÀ KHUYNH HƯỚNG Trần Thanh Ái1 1 Khoa Sư phạm, Trường Đại học Cần Thơ Thông tin chung: ABSTRACT Ngày nhận: 12/12/2012 Sociolinguistics is a Language Science born in the early 1960s in the Ngày chấp nhận: 25/03/2013 Western countries. On the social side, it was derived from the socio- economic crisis of the industrialized countries. In terms of Title: epistemology, it was born from the inability of traditional linguistics Sociolinguistics: Some views and and structural linguistics in solving linguistic problems posed by life. tendencies This article summerizes the process of formation of sociolinguistics, Từ khóa: different concepts on its characteristics and research objects, and Ngôn ngữ học xã hội, ngôn ngữ major schools of this new discipline. Especially, the author highlights học cấu trúc, khủng hoảng văn hóa the sociolinguistic school of Rouen, which forms many doctors of xã hội, khủng hoảng ngôn ngữ học, language sciences, including sociolinguistics. đồng biến TÓM TẮT Keywords: Ngôn ngữ học xã hội là một ngành khoa học ngôn ngữ ra đời vào đầu Sociolinguistics, structural những năm 1960 ở các nước phương Tây. Về phương diện xã hội, nó linguistics, socio-cultural crisis, bắt nguồn từ sự khủng hoảng kinh tế xã hội của các nước công nghiệp linguistic crisis, covariance hóa. Về phương diện khoa học luận, nó ra đời từ sự bất lực của ngôn ngữ học truyền thống và ngôn ngữ học cấu trúc trong việc giải quyết các vấn đề ngôn ngữ do cuộc sống đặt ra. Bài viết này trình bày tóm tắt quá trình hình thành của ngôn ngữ học xã hội, những quan niệm khác nhau về đặc điểm và đối tượng nghiên cứu của nó, và những trào lưu chủ yếu của ngành học mới mẻ này. Đặc biệt, tác giả nhấn mạnh trường phái của Đại học Rouen (Pháp), nơi đã đào tạo cho Việt Nam nhiều tiến sĩ về khoa học ngôn ngữ. 1 GIỚI THIỆU (1952), Weinreich (1953), Pickford (1956), Wallis (1956) đã dùng thuật ngữ Từ lâu, người ta đã biết đến mối quan hệ sociolinguistics (ngôn ngữ học xã hội) để chỉ giữa hoạt động ngôn ngữ và xã hội. Ngay từ việc nghiên cứu ngôn ngữ gắn liền với môi đầu thế kỷ XX, một nhà nghiên cứu Pháp tên trường văn hóa xã hội. Ở Pháp, vào năm 1956 là Raoul de la Grasserie đã sử dụng cụm từ Marcel Cohen cho ra đời tác phẩm Pour une xã hội học ngôn ngữ (sociologie linguistique) sociologie du langage (Vì một ngành xã hội trong một bài viết in năm 1906 (trước khi học về hoạt động ngôn ngữ, Nxb Albin Michel), quyển Giáo trình ngôn ngữ học đại cương của mà sau đó, trong lời đề tựa cho lần tái bản F. de Saussure ra đời). Sau đó là Hodson (1971), ông đã xác nhận rằng vì thuật ngữ (1939), Nida (1949), Haugen (1951), Currie sociolinguistics đã được sử dụng rộng rãi trong 79
  2. Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ Phần C: Khoa học Xã hội, Nhân văn và Giáo dục: 25 (2013): 79-95 tiếng Anh nên "thuật ngữ sociolinguistique có phân hóa xã hội: sự bùng nổ các giai tầng xã lý do chính đáng để tồn tại". hội, sự tự khẳng định của các tộc người thiểu số, sự xuất hiện ồ ạt của các hội đoàn... Tất cả Nhưng phải đợi đến những năm 60 của thế những đặc điểm ấy đã được phản ánh trong các kỷ XX thì ngành ngôn ngữ học xã hội mới ra chủ đề mà ngành ngôn ngữ học xã hội Pháp đời như là một ngành khoa học độc lập, nhờ quan tâm: ngôn ngữ và trường học, diễn ngôn những nỗ lực của các nhà nghiên cứu nhân loại chính trị, tha hóa ngôn ngữ, chính sách ngôn học, ngôn ngữ học, tâm lý học như Dell Hymes, ngữ cho các dân tộc thiểu số... Tóm lại, mỗi Ervin-Tripp, Ferguson, Fisher..., mà Hội nghị quốc gia có những vấn đề riêng của mình trong năm 1964 tại Đại học California ở Los Angeles giai đoạn khủng hoảng, và từ đó ra đời ngành (UCLA) là một mốc thời gian quan trọng. ngôn ngữ học xã hội cho thời kỳ khủng hoảng 2 BỐI CẢNH RA ĐỜI CỦA NGÔN NGỮ của mình. HỌC XÃ HỘI 2.2 Bối cảnh khoa học 2.1 Bối cảnh kinh tế xã hội Trong bối cảnh ấy, song song với việc ban Sự ra đời của ngôn ngữ học xã hội với tư hành một chính sách xã hội nhằm giúp đỡ các cách là một ngành khoa học ở Hoa Kỳ gắn liền dân tộc thiểu số, nhất là trẻ em, được đến với những biến chuyển kinh tế xã hội. Vào trường, chính quyền liên bang Mỹ đã khuyến những năm 60 của thế kỷ XX, cường quốc hàng khích các nhà nghiên cứu chú ý đến hiện tượng đầu trên thế giới này chợt nhận ra rằng nó phải xã hội này. Ba nhà nghiên cứu William Labov, đương đầu với nạn bần cùng. Tình trạng thâm Dell Hymes và John Gumperz đã xác định cho thủng ngân sách triền miên, cộng với chiến mình mục tiêu nghiên cứu là tìm ra giải pháp tranh ở Việt Nam và những cơn khủng hoảng cho các vấn đề xã hội trực tiếp liên quan đến dầu hỏa đã làm tình hình thêm trầm trọng : lạm việc sử dụng ngôn ngữ. Labov đã dành nhiều phát gia tăng, giá cả leo thang, thất nghiệp rình tâm trí nghiên cứu nguyên nhân của sự thất bại rập. Nạn nhân trước tiên là các cộng đồng ngôn ở trường học của trẻ em da đen. Hymes không ngữ thiểu số (dân da đen, người nhập cư đến từ chỉ quan tâm đến công cụ ngôn ngữ và các cộng các nước Trung Mỹ, dân da đỏ...). Người ta đồng ngôn ngữ, mà còn chú ý đến cá nhân và nhận ra rằng vấn đề hội nhập vào xã hội của các cấu trúc xã hội. Gumperz đi sâu vào phân tích tầng lớp chịu nhiều thiệt thòi này gắn liền với những đối thoại đời thường và qua đó tìm cách vấn đề tiếp thu ngôn ngữ (tiếng Anh) và ngôn kết nối khía cạnh dụng ngữ học với các biến đổi ngữ đóng một vai trò quan trọng trong việc xã hội. phân hóa xã hội. Ở Pháp, sự quan tâm đến mối quan hệ giữa Ở Pháp, những khía cạnh khác nhau của một ngôn ngữ với đời sống xã hội đã có từ lâu. xã hội đang trong thời kỳ khủng hoảng là tiền Chevalier ghi nhận như sau : đề cho việc hình thành một khuynh hướng "Từ rất lâu, và nhất là từ thế kỷ XIX, ngành nghiên cứu mới: thất nghiệp và nạn tái bần cùng ngôn ngữ học Pháp đã bị ám ảnh bởi vấn đề về phát triển, khuynh hướng dân tộc chủ nghĩa cực mối quan hệ giữa ngôn ngữ và những chuyển đoan đang lên, văn hóa công nhân suy thoái, biến xã hội. Người ta không ngừng tìm hiểu vai bùng nổ các phương tiện hiện đại về thông tin trò của dân chúng, của các định chế xã hội, của và quản lý, thái độ bài ngoại và vấn đề hội tư tưởng trong việc hình thành các phương ngữ, nhập, thái độ hoài nghi về khả năng thay đổi trong việc thiết lập các chuẩn mực, cũng như sâu rộng cấu trúc xã hội của nhà nước. Các nhà trong uy lực của chúng" (dẫn lại từ Baylon, xã hội học còn nêu ra những đặc điểm khác của 1991: 16). xã hội Pháp. Một mặt, đó là một xã hội của đám đông (société de masse), bị chi phối mạnh mẽ Trong giai đoạn hiện đại, Ch. Bailly và A. bởi các phương tiện thông tin đại chúng. Mặt Meillet là hai nhà nghiên cứu đã đề cập nhiều khác, nó hàm chứa nhiều dị biệt, dẫn đến sự đến hiện tượng những yếu tố xã hội chi phối 80
  3. Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ Phần C: Khoa học Xã hội, Nhân văn và Giáo dục: 25 (2013): 79-95 các hiện tượng ngôn ngữ. Thế nhưng, nghịch lý bản của nó là con người và xã hội. Vì thế thay, mối quan tâm này lại bị ngôn ngữ học cấu ngôn ngữ học cần phải được hỗ trợ bởi các trúc (linguistique structurale) và ngữ pháp phái ngành khoa học khác như là tâm lý học và xã sinh (grammaire générative) lấn át. Phải đợi đến hội học: ngành ngôn ngữ học tâm lý (A: khi các công trình của các nhà nghiên cứu psycholinguistics; P: psycholinguistique) có đối người Anh về hành động lời nói (speech acts) tượng nghiên cứu là cá nhân trong giao tiếp được công bố, thì mối quan tâm ấy mới được bằng lời nói, ngành ngôn ngữ học thần kinh (A.: chú ý đúng mức: O. Ducrot giới thiệu các neurolinguistics; P.: neurolinguistique) nghiên nghiên cứu về hành động lời nói; J.-B. cứu về các hiện tượng thần kinh trong cơ chế Marcellesi và B. Gardin giúp công chúng làm kiểm soát việc tiếp nhận lời nói, phát ngôn và quen với tư tưởng của W. Labov về một thụ đắc ngôn ngữ, ngành ngôn ngữ học chủng ngành ngôn ngữ học về sự đa dạng ngôn ngữ, tộc (A.: ethnolinguistics; P.: ethnolinguistique) mà ông gọi là ngôn ngữ học xã hội biến đổi nghiên cứu ngôn ngữ như là biểu hiện của (sociolinguistique variationniste). một nền văn hóa của một tộc người, ngành ngôn ngữ học xã hội (A: sociolinguistics; P: 2.2.1 Sự ra đời của khuynh hướng mới trong sociolinguistique) nghiên cứu sự kiện giao tiếp bối cảnh phân ngành khoa học bằng lời nói trong xã hội, nghĩa là nghiên cứu Từ nhiều thập kỷ gần đây, các ngành khoa sự kiện giao tiếp thông qua xã hội, hoặc ngược học xã hội và nhân văn có những bước tiến lại. Nói cách khác, ngôn ngữ học xã hội nghiên triển mới, nhờ vào sự phát triển các mối quan cứu mối quan hệ giữa ngôn ngữ và xã hội. hệ với nhiều ngành khoa học khác. Thật vậy, 2.2.2 Ngôn ngữ học xã hội manh nha từ những bên cạnh sự phân ngành được xem như là kết hạn chế của ngôn ngữ học cấu trúc quả tất yếu của sự phát triển của khoa học, người ta lại thấy xuất hiện nhiều ngành mới Các phê phán của Bakhtine (Volochinov) được hình thành từ nhiều ngành khác nhau, dẫn Nhận xét về ngôn ngữ học đương thời, đến tình trạng là ranh giới giữa các ngành Bakhtine (Volochinov) trong tác phẩm Chủ khoa học không còn rõ ràng như trước nữa. nghĩa Mác và triết học ngôn ngữ (xuất bản lần Các khái niệm liên ngành (interdisciplinarité), đầu ở Liên xô năm 1929, ở Anh năm 1973, ở đa ngành (pluridisciplinarité), liên thông Pháp năm 1977) nhận thấy rằng có hai khuynh (interpénétration) đã trở nên quen thuộc trong hướng chính chi phối các công trình nghiên giới nghiên cứu. C. Baylon nhận xét : cứu, mà hai ông gọi là khuynh hướng chủ quan "Thời đại ngày nay là thời đại của sự giao duy tâm (subjectivisme idéaliste) và khuynh thoa giữa các ngành nghiên cứu gần gũi và hướng khách quan trừu tượng (objectivisme thậm chí khác biệt : chúng ta có thể chứng kiến abstrait). Về các tên gọi này, các tác giả nhấn nhiều sự kết hợp mới để tạo ra những ngành mạnh rằng thông thường, các tên gọi khó có thể nghiên cứu mới, như là nhân loại học chính trị bao quát hết nội dung và tính chất phức tạp của (anthropologie politique), thực vật học chủng các khuynh hướng. Đặc biệt là tên gọi thứ nhất, tộc (ethnobotanique), ngôn ngữ học xã hội hai ông nhận thấy nó rất không thích hợp, (sociolinguistique)..." (1991: 9). nhưng đành phải sử dụng vì không tìm ra tên gọi nào tốt hơn. Ngôn ngữ học cũng bị chi phối bởi khuynh hướng nghiên cứu này. Chẳng hạn khi tìm hiểu Khuynh hướng chủ quan duy tâm: khuynh một hoạt động giao tiếp, ngành ngôn ngữ học hướng này quan tâm đến hành động lời nói, đến không thể chỉ nghiên cứu ngôn ngữ như là một sản phẩm ngôn ngữ của cá nhân, và xem nó như hệ thống khép kín, mà phải cần đến những dữ là nền tảng của ngôn ngữ, và hoạt động tinh liệu liên quan đến con người và xã hội để nắm thần (psychisme) của mỗi cá nhân là nguồn gốc bắt được ý nghĩa của thông điệp. Nó phải xem của ngôn ngữ. Vì thế, quy luật sáng tạo ngôn ngôn ngữ như là một cấu trúc vi mô nằm ngữ chính là quy luật hoạt động tinh thần của trong một cấu trúc vĩ mô mà hai thành tố cơ mỗi cá nhân. Nghiên cứu ngôn ngữ nhất thiết 81
  4. Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ Phần C: Khoa học Xã hội, Nhân văn và Giáo dục: 25 (2013): 79-95 phải nghiên cứu các quy luật hoạt động tinh Sự bế tắc của ngôn ngữ học cấu trúc thần này. Khuynh hướng này có thể được tóm Trong ngôn ngữ học, thuật ngữ cấu trúc luận tắt trong bốn luận điểm sau đây: (structuralisme) được dùng để các trường phái  Ngôn ngữ là một hoạt động, một quá nghiên cứu ngôn ngữ khác nhau, nhưng có cùng trình sáng tạo liên tục, được vật chất hóa dưới quan niệm và phương pháp nghiên cứu là dựa hình thức hành động lời nói của các cá nhân. trên định nghĩa về cấu trúc trong ngôn ngữ học.  Các quy luật sáng tạo ngôn ngữ nhất thiết Về quan niệm, các trường phái chức năng phải là các quy luật tâm lý cá nhân. (fonctionnalisme), ngữ vị học (glossématique)  Sự sáng tạo ngôn ngữ là một sự sáng tạo hoặc trường phái phân bố (distributionnalisme) lý tính, tương tự như sự sáng tạo nghệ thuật. xây dựng ngôn ngữ học trên việc nghiên cứu  Ngôn ngữ, với tư cách là một sản phẩm các phát ngôn đã được thực hiện, và đề ra hoàn chỉnh, một hệ thống ổn định (từ vựng, ngữ nhiệm vụ là soạn ra một lý thuyết cho văn bản pháp, ngữ âm), được quan niệm như là một kho được xem là khép kín, và sử dụng phương pháp tàng bất động, như dòng dung nham đã nguội, phân tích hình thức (analyse formelle). Vì thế, được các nhà ngôn ngữ học xây dựng một cách trước tiên ngôn ngữ học cấu trúc đề ra nguyên trừu tượng nhằm những mục đích cụ thể như là lý nội tại (principe d’immanence), vì nhà ngôn một công cụ. ngữ giới hạn việc nghiên cứu trong phạm vi các phát ngôn đã được thực hiện (ngữ liệu phân Theo Bakhtine (Volochinov), đại biểu xuất tích: corpus) và tìm cách xác định cấu trúc của sắc nhất của khuynh hướng này là Wilhelm chúng, cũng như mối quan hệ nội tại giữa các Humboldt. Tư tưởng của ông vượt xa khuôn thành tố cấu tạo nên chúng. Nghĩa là tất cả khổ của bốn luận điểm nêu trên và «cả nền những gì liên quan đến tình huống phát ngôn ngôn ngữ học sau ông, kể cả đến ngày nay, đều (người phát ngôn, người đối thoại, bối cảnh chịu sự ảnh hưởng của tư tưởng của ông. Ông phát ngôn...) đều bị gạt ra ngoài phạm vi nghiên được xem là nhà tiên phong của nhiều trào lưu cứu. Trường phái cấu trúc luận Hoa Kỳ, mà tiêu ngôn ngữ khác biệt nhau, bởi vì tư tưởng của biểu là L. Bloomfield, cho rằng không thể xác ông quá rộng, quá phức tạp, thậm chí quá mâu định được nghĩa và mối liên hệ giữa người phát thuẫn» (Bakhtine-Volochinov, 1977: 75). Tuy ngôn với thế giới bên ngoài. Một đặc điểm khác nhiên, hạt nhân cơ bản của tư tưởng Humboldt không kém phần quan trọng là ngôn ngữ học vẫn là khuynh hướng chủ quan duy tâm. cấu trúc phân biệt dưới nhiều dạng khác nhau Khuynh hướng khách quan trừu tượng: một bên là mã ngôn ngữ (code linguistique) và Khuynh hướng nghiên cứu này đặt trọng tâm một bên là sự sử dụng mã ấy (lời nói). Vì thế, vào hệ thống ngôn ngữ, bao gồm hệ thống ngữ nhà nghiên cứu dựa trên những cứ liệu phân âm, ngữ pháp và từ vựng của ngôn ngữ. Nếu tích để rút ra những gì ổn định, có tính quy luật trong khuynh hướng thứ nhất, ngôn ngữ là một và xây dựng nên hệ thống ngôn ngữ (système làn sóng bất tận của những hành động lời nói, ở de la langue), không quan tâm đến những gì đó, không có gì là ổn định, thì trong khuynh thuộc về lời nói. hướng thứ hai, ngôn ngữ là một chiếc cầu vồng Về mặt phương pháp luận nghiên cứu, các bất động, chế ngự làn sóng ấy. Trong mỗi hành nhà cấu trúc luận nghiên cứu một phát ngôn động lời nói, trong mỗi phát ngôn, người ta có như là một chuỗi bao gồm nhiều thứ bậc (rangs thể tìm thấy những nhân tố giống với những hiérarchisés) khác nhau, trong đó mỗi thành tố nhân tố của các hành động phát ngôn khác được quy định tương ứng với sự kết hợp của trong cùng một cộng đồng ngôn ngữ. Những nó với thứ bậc trên nó. Chẳng hạn các âm vị nhân tố giống nhau này – đó là những nét ngữ (phonème) được xem xét trong sự kết hợp âm, ngữ pháp và từ vựng – bảo đảm cho tính của chúng với thứ bậc trên nó là hình vị thống nhất của một ngôn ngữ và sự hiểu nhau (morphème); các hình vị được xem xét trong sự của các thành viên trong cộng đồng. kết hợp của chúng với thứ bậc trên nó là câu. 82
  5. Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ Phần C: Khoa học Xã hội, Nhân văn và Giáo dục: 25 (2013): 79-95 Phương pháp nghiên cứu của cấu trúc luận là như mô hình diễn giải lời nói ở người nhận quy nạp. thông tin. Ngôn ngữ học cấu trúc thường được tóm  Đơn vị phân tích cao nhất của ngôn ngữ lược bằng các đặc điểm sau đây: không thể dừng lại ở cấp độ câu được, vì trong thực tế giao tiếp bằng lời nói, người ta bắt  Đó là ngành ngôn ngữ nghiên cứu gặp những trường hợp mà câu chỉ có thể hiểu mã (linguistique du code). Tất cả các hoạt được và hiểu đúng khi nó được đặt trong một động ngôn ngữ đều được quy về cách nghiên tập hợp lớn hơn. Vả lại, một văn bản (hoặc diễn cứu này; ngôn) không hề là một tập hợp ngẫu nhiên  Trong nhãn quan ấy, đơn vị cao nhất của những câu, mà bị chi phối bởi những quy tắc phép phân tích là câu; kết hợp nhất định (chẳng hạn anaphore, các từ  Cơ chế tạo nghĩa cũng đơn giản, bằng hai liên kết lôgic và thời gian...). Chính Z. Harris là con đường chủ yếu: thứ nhất là cái biểu đạt, mà một trong những người đầu tiên chủ trương nên trong một tình huống nhất định, nó chuyển tải mở rộng ngôn ngữ học mô tả ra khỏi biên giới một cái được biểu đạt duy nhất; thứ hai là bằng của câu khi ông xây dựng lý thuyết về phân tích một số cấu trúc cú pháp cho phép nhận ra diễn ngôn. những liên hệ ngữ nghĩa giữa những cái được  Cơ chế tạo nghĩa phức tạp hơn nhiều so biểu đạt; với quan niệm của lý thuyết ký hiệu: ngữ nghĩa  Sơ đồ giao tiếp của Jakobson được xem có thể được tìm thấy ở mọi kiểu đơn vị ngôn là mô hình tiêu biểu cho quá trình biến ngôn ngữ: âm thanh hay chữ viết, cấu trúc nhịp điệu ngữ (langue) thành lời nói (parole) theo nghĩa hay cấu trúc ngữ pháp, cái sở chỉ… Loại thể của Saussure; của các đơn vị ngữ nghĩa cũng vô cùng đa  Định đề nội tại (immanence) dẫn đến dạng: biểu vật hay hàm ẩn, tường minh hay việc nghiên cứu ngôn ngữ bằng chính nó và vì tiềm ẩn; nghĩa đen hay phái sinh… chính nó (la langue en elle-même et pour elle-  Sơ đồ giao tiếp do Jakobson đề ra là sự même), như thế đã loại bỏ hoàn toàn những yếu mô phỏng sơ đồ tiếp nhận, xử lý thông tin và tố ngoại ngôn ngữ (extra-linguistique) trong quá phản hồi của máy điện toán, vì thế đó là một sơ trình nghiên cứu. đồ giao tiếp đơn giản, một chiều, quá lý tưởng (luôn luôn rõ ràng, đơn nghĩa và do đó luôn Để đối lập với năm đặc điểm nêu trên, luôn thành công), điều mà trong thực tế không Kerbrat-Orecchioni (1980) đã đưa ra những phê thể nào có được. Hơn nữa, "nói" không phải lúc phán như sau: nào cũng là để trao đổi thông tin một cách bình  Khái niệm mã ngôn ngữ (code đẳng, hài hòa với nhau giữa những chủ thể nói linguistique) bị phê phán trên hai bình diện: năng, mà còn là để "làm" một điều gì đó. Thứ nhất, dù cho là ngôn ngữ học Saussure hay  Ta không thể hiểu được một thông điệp Chomsky, thì khái niệm mã ngôn ngữ được giả mà không tính đến tình huống mà thông điệp định như là duy nhất và đồng nhất. Thế mà ấy được sản sinh ra, và đến mục đích mà nó trong thực tế, ngôn ngữ không là gì khác hơn là muốn đạt được. Những thí dụ về các từ chỉ trỏ một tập hợp những phương ngữ, xã hội ngữ và (déictiques) có thể minh họa cho việc cần thiết các thói quen ngôn ngữ của từng cá nhân, và phải kể đến các yếu tố ngoài ngôn ngữ trong khi ngôn ngữ học phải thấu đáo tất cả những dạng nghiên cứu ngôn ngữ. ngôn ngữ trên. Mặt khác, cần phải quan niệm sự đối lập giữa ngôn ngữ và lời nói (langue / 3 NGÔN NGỮ HỌC XÃ HỘI: NHỮNG parole) một cách biện chứng hơn, chứ không QUAN NIỆM VÀ KHUYNH HƯỚNG nên huyền bí hóa nó như F. de Saussure đã mô Sự khủng hoảng của ngôn ngữ học hình thức tả. Đã đến lúc phải nghiên cứu cơ chế của sự nói chung và ngôn ngữ học cấu trúc nói riêng biến đổi từ ngôn ngữ thành lời nói, qua việc đã phát sinh nhu cầu cần phải đổi mới trong nghiên cứu các mô hình sản sinh ra lời nói cũng 83
  6. Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ Phần C: Khoa học Xã hội, Nhân văn và Giáo dục: 25 (2013): 79-95 ngành nghiên cứu ngôn ngữ, như nhận định của 3.1 Một số quan niệm khác nhau về ngôn P. Kuentz: ngữ học xã hội "Vấn đề đặt ra cho việc nghiên cứu ngôn Thuật ngữ sociolinguistique gồm hai yếu tố: ngữ hiện nay là phải xây dựng một ngành ngôn socio- và linguistique và có thể được hiểu theo ngữ học mới. Nói như thế không có nghĩa là hai cách khác nhau: thứ nhất, socio- có thể phải vượt lên trên ngôn ngữ học, mà là giúp được coi là tiền tố phái sinh của từ social (thuộc ngôn ngữ học tự vượt lên trên chính mình, về xã hội), như trong các cụm từ socioculturel nghĩa là phải vừa mở rộng lĩnh vực nghiên cứu (văn hóa xã hội) hoặc socio-économique (kinh của nó, vừa duy trì yêu cầu kiểm tra nghiêm tế xã hội). Giải thích như thế chẳng khác ngặt những thao tác ấy. Dấu hiệu của một sự nào cho rằng thuật ngữ sociolinguisque bao biến đổi trong lĩnh vực này ngày càng rõ nét. hàm một sự trùng lắp ý, bởi vì bản thân ngôn Bây giờ chỉ còn việc là tạo ra những công cụ ngữ học đã mang bản chất xã hội. Cách giải cho phép mở rộng quyền lực của ngôn ngữ học thích thứ hai cho rằng socio- là từ viết tắt mà không làm mất đi tính chất nghiêm ngặt của sociologie (xã hội học). Như thế, của tiến trình" (dẫn lại từ Kerbrat-Orecchioni, sociolinguistique là ngành nghiên cứu những 1980: 5). hiện tượng ngôn ngữ bằng cách sử dụng những công cụ nghiên cứu mà ngành xã hội học Nhu cầu đổi mới đó được hiện thực hóa đã tạo ra. bằng sự ra đời của ngôn ngữ học xã hội để giải quyết những vấn đề mà xã hội đặt ra cho ngành Thật ra, vấn đề không chỉ đơn giản như vậy. ngôn ngữ học. Đó là các vấn đề liên quan đến Fishman (1971) đã cố gắng đưa ra định nghĩa sự biến đổi bên trong một hệ thống ngôn ngữ, về thuật ngữ này bằng cách xác định nhiệm vụ các hiện tượng xung đột ngôn ngữ, các vấn đề nghiên cứu của nó: dạy và học ngôn ngữ... "Ngôn ngữ học xã hội nhằm xác định ai nói? "Ngôn ngữ học hình thức, sau khi đã giải bằng ngôn ngữ nào? khi nào? về vấn đề gì? và quyết được nhiều sự kiện ngôn ngữ, đã tỏ ra bất nói với ai? Vì thế ngôn ngữ học xã hội nghiên lực, không thể kham nổi hiện tượng biến đổi cứu đặc điểm của những dạng thái khác nhau ngôn ngữ, và đồng thời, nó cũng không giải đáp của ngôn ngữ, đặc điểm của chức năng của được những câu hỏi mà nó đã từ chối nêu ra chúng và đặc điểm của người sử dụng chúng, vì nhưng cuộc sống lại đặt ra với nó, những câu cho rằng ba yếu tố này không ngừng tác động hỏi về vị trí và vai trò của các hiện tượng ngôn qua lại với nhau và biến đổi ngay trong cộng ngữ trong xã hội: hai bất lực này (...) dẫn đến đồng ngôn ngữ." (Fishman, 1971: 68). việc xem xét lại ngôn ngữ học hình thức và việc Theo Todorov (1972), ngôn ngữ học xã hội đăng quang của cái mà những người lạc quan nghiên cứu mối quan hệ giữa hoạt động ngôn gọi là một ngành học, còn những người bi quan ngữ và xã hội hoặc nền văn hóa, hoặc tập tính thì gọi là một nhãn hiệu: đó là ngôn ngữ học xã của con người. Chính vì thế, tác giả này cho hội" (Marcellesi, 1980: 4). rằng đây không phải là một ngành khoa học duy Điều đó không có nghĩa là ngôn ngữ học nhất, mà là một tập hợp gồm nhiều ngành hình thức không còn vai trò của nó nữa. J.-B. nghiên cứu khác nhau và tính chất đa dạng này Marcellesi đã không ít lần lưu ý rằng sự thành thể hiện qua các tên gọi của nó: xã hội học về công của ngôn ngữ học xã hội không hề có hoạt động ngôn ngữ (sociologie du langage), nghĩa là ngôn ngữ học hình thức là vô ích, phù ngôn ngữ học xã hội (sociolinguistique), phiếm. Mỗi ngành nghiên cứu nhằm giải đáp ngôn ngữ học chủng tộc (ethnolinguistique), một số vấn đề, nhưng trong số những vấn đề nhân chủng học ngôn ngữ (anthropologie ấy, có những vấn đề cấp bách hơn những vấn linguistique), ngôn ngữ học nhân chủng đề khác. (linguistique anthropologique)... 84
  7. Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ Phần C: Khoa học Xã hội, Nhân văn và Giáo dục: 25 (2013): 79-95 Qua cách quan niệm mối quan hệ giữa ngôn nghiên cứu về lĩnh vực này và Kerbrat- ngữ và xã hội, người ta phân biệt hai phương Orecchioni (1990, 1992, 1994) ở Pháp đã phác pháp nghiên cứu của ngành ngôn ngữ học xã họa nên bức tranh khá toàn diện về những nghi hội như sau: thức lời nói của nhiều dân tộc trên thế giới để cho thấy sự khác biệt trong cách sử dụng ngôn 3.1.1 Quan niệm xem xã hội và hoạt động ngôn ngữ phản ánh sự khác biệt về cấu trúc xã hội. ngữ có mối quan hệ nhân quả W. Labov xuất phát từ quan niệm "hoạt Khái quát về quan niệm này, Ducrot diễn đạt động ngôn ngữ là biểu hiện nhạy cảm của các mối quan hệ giữa xã hội và hoạt động ngôn quá trình xã hội", đã tiến hành nghiên cứu ngữ trong sự quan tâm của ngôn ngữ học xã những biến thể âm vị (variantes phonologiques) hội như: trong phương ngữ của dân cư ở New York, từ "Người ta nêu ra sự tồn tại của hai thực thể đó tìm ra mối liên hệ của hoạt động ngôn ngữ riêng biệt: hoạt động ngôn ngữ và xã hội (hoặc với sự khác biệt xã hội (nghề nghiệp, trình văn hóa...), ta nghiên cứu thực thể này qua sự độ văn hóa, thu nhập,...). "Phương hướng tồn tại của thực thể kia. Ta xem cái này như là nghiên cứu này mang đậm nét xã hội học và nguyên nhân, cái kia như là kết quả và ta ta có thể gọi nó là ngôn ngữ học xã hội nghiên cứu kết quả nhằm tìm hiểu nguyên nhân, (sociolinguistique)" (Todorov, 1972: 85). hoặc ngược lại, tùy theo việc thực thể nào sẵn Quan điểm này được thể hiện rõ trong các sàng cho sự phân tích chặt chẽ. Nhưng thường công trình nghiên cứu về lịch sử từ vựng, theo thường, xã hội là mục đích của nghiên cứu, và đó, từ ngữ được quy định bởi những khám phá hoạt động ngôn ngữ là trung gian để đạt đến khoa học, kỹ thuật và những biến đổi xã hội. mục đích nghiên cứu" (Ducrot & Todorov, 1972: 84). Quan niệm xem ngôn ngữ là nhân tố quy định xã hội Trong quan niệm này, có hai khuynh hướng ngôn ngữ học xã hội trái ngược nhau: Một khuynh hướng nghiên cứu khác xuất phát từ quan điểm ngược lại, theo đó hoạt động Quan niệm xem xã hội là nhân tố quy định ngôn ngữ không phải là sự phản ánh của các ngôn ngữ cấu trúc văn hóa, xã hội hoặc tâm lý, mà là Theo quan điểm truyền thống, xã hội quy nguyên nhân của chúng. Nói cách khác, các nhà định mọi hoạt động ngôn ngữ. Vì thế, việc nghiên cứu theo khuynh hướng này cho rằng nghiên cứu các biến thể ngôn ngữ (variantes chính hoạt động ngôn ngữ quy định xã hội, linguistiques) sẽ cho phép xác định các biến thể thậm chí, như R. Barthes đã nói, "ngôn ngữ là xã hội học (variantes sociologiques) đã tạo ra phát xít, vì nó buộc người ta phải nói; ngôn ngữ chúng. Chẳng hạn trong tiếng Việt, ta có nhiều là nơi ẩn chứa quyền lực của con người..., nói từ khác nhau để xưng hô trong khi trò chuyện: chính là chế ngự" (1978: 12). Chính vì thế, để ông, bác, chú, anh, cậu, cháu, em... để gọi tìm hiểu văn hóa, xã hội của một cộng đồng dân người đối thoại là nam giới, bà, bác, cô, chị, cư, người ta có thể nghiên cứu các hoạt động em, cháu... để gọi người đối thoại là nữ ngôn ngữ. Người ta gọi đó là ngôn ngữ học giới. Phân tích những trường hợp sử dụng các chủng tộc (ethnolinguistique). Đại diện cho từ xưng hô ấy cho phép nhà nghiên cứu rút ra khuynh hướng này là W. von Humboldt. Ông được những kết luận về mối quan hệ giữa cho rằng hoạt động ngôn ngữ tổ chức những người tham gia trò chuyện, đồng thời (organiser) và quy định thế giới quanh ta. Quan đưa ra những phác họa về cấu trúc xã hội mà điểm của Humboldt đã làm nền tảng cho nhiều các chủ thể nói năng đang sống: các dạng khuynh hướng nghiên cứu khác: xưng hô phong phú trong tiếng Việt thể hiện a) Phái "Humboldt mới" ở Đức (Weisgerber, một cấu trúc xã hội chặt chẽ, có nhiều tầng Trier, Porzig,...): Theo họ, hoạt động ngôn ngữ lớp (hiérarchisé) (xem Nguyễn Phú Phong, gắn liền với một thế giới quan, vì mỗi dân tộc 1995). Roger Brown (Hoa Kỳ) là người đầu tiên 85
  8. Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ Phần C: Khoa học Xã hội, Nhân văn và Giáo dục: 25 (2013): 79-95 có một ngôn ngữ, nên nghiên cứu một ngôn ngữ b) Quan điểm biện chứng cho rằng có sự tồn có thể biết được tinh thần cũng như tính cách tại của mối quan hệ nhân quả tương hỗ giữa các của dân tộc đó. Việc nghiên cứu này dựa trên hiện tượng xã hội và hiện tượng ngôn ngữ. Mối phân tích các trường ngữ nghĩa (champs quan hệ này thể hiện bởi vô vàn những tương sémantiques) trong thế giới tự nhiên cũng như tác phức tạp, trong đó, một hiện tượng của lĩnh trong đời sống vật chất hoặc tinh thần, vì các vực này là hậu quả của nhiều nguyên nhân từ trường ngữ nghĩa ấy được cơ cấu khác nhau lĩnh vực kia và ngược lại. Những nhà nghiên giữa ngôn ngữ này với ngôn ngữ khác: khái cứu theo quan điểm này cho rằng sự đồng biến niệm "đất nước" trong cụm từ Việt Nam, đất hàm chứa nguyên lý nhân quả, theo đó, chính nước và con người chẳng hạn, được thể hiện nhu cầu quan hệ xã hội đã sản sinh ra ngôn ngữ. bằng cách kết hợp "đất" và "nước", nhưng trong Vì thế, việc mô tả tính chất đa dạng ngôn ngữ tiếng Pháp (hoặc tiếng Anh chẳng hạn), cách chính là lịch sử các mối quan hệ xã hội. Đến thể hiện khái niệm này hoàn toàn khác (P.: đây, chúng ta nhận thấy rằng khái niệm đồng pays, A.: country). biến bắt nguồn từ khái niệm sự tương ứng tổng quát (correspondance générale) mà J. Dubois đã b) Phái "Sapir-Whorf" ở Hoa Kỳ: khuynh chứng minh trong công trình xuất bản năm hướng này rất thịnh hành trong những năm 30 1962: Le vocabulaire politique et social en và 40. Dựa trên những kết quả nghiên cứu của France de 1869 à 1872 (Từ vựng chính trị và Sapir, Benjamin Lee Whorf muốn chứng minh xã hội ở Pháp từ năm 1869 đến 1872). Nổi bật rằng các phạm trù cơ bản nhất của tư tưởng như nhất về quan điểm này là trường phái Rouen, là thời gian, không gian, chủ thể, khách thể,... mà chúng tôi sẽ trình bày ở phần sau. không giống nhau giữa các ngôn ngữ không cùng ngữ hệ, chẳng hạn như giữa tiếng Anh và 3.1.2 Quan niệm xem hoạt động ngôn ngữ tiếng Hopi của các bộ lạc da đỏ. Khác với phái như là một hoạt động xã hội, một loại Humboldt mới, Whorf quan tâm đến các phạm tập tính trù ngữ pháp hơn là những cấu trúc từ vựng. Khuynh hướng nghiên cứu này không nhằm c) Khuynh hướng thứ ba của các nhà chủng đối lập xã hội với hoạt động ngôn ngữ, mà tạo tộc học (ethnologues) Hoa Kỳ, nhằm mô tả các ra đối tượng nghiên cứu mới là hoạt động ngôn "danh mục từ ngữ" của tiếng nói dân bản địa, ngữ với tư cách là một hoạt động xã hội. Các như từ chỉ quan hệ họ hàng, màu sắc, cây cỏ và nhà nghiên cứu theo khuynh hướng này cho muông thú, bệnh tật và nghề nghiệp,... (công rằng mối quan hệ giữa xã hội và hoạt động việc mà ngày nay người ta gọi là ethnoscience ngôn ngữ không phải là mối quan hệ nhân quả, (tạm dịch là khoa học chủng tộc, khác với khoa mà là quan hệ họ hàng, vì chúng cùng chịu sự chủng tộc học - ethnologie). Các công trình này chi phối bởi một nhân tố sâu kín hơn, mà theo cũng gần giống với công trình của Trier, nhưng D. Hymes, đó là văn hóa. Người ta gọi khuynh chúng không nhằm tìm hiểu "tinh thần dân tộc" hướng này là nhân chủng học ngôn ngữ đã được giả định. (anthropologie linguistique). Thật ra ý tưởng hoạt động ngôn ngữ có thể được xem như một Quan niệm xem ngôn ngữ và xã hội có sự phương thức hành động (mode actionnel) đồng biến không phải là mới mẻ. Nhưng phải đợi đến các Khuynh hướng thứ ba, cho rằng có một sự công trình nghiên cứu của Bronislav đồng biến (covariance) giữa các hiện tượng xã Malinowski thì ý tưởng ấy mới được nâng lên hội và ngôn ngữ. Tuy nhiên, khuynh hướng thành một khuynh hướng khoa học. Ông phân này lại phân hóa theo hai quan điểm trái biệt các phát ngôn (énoncé) theo chức năng của ngược nhau: chúng: những phát ngôn thông dụng trong các a) Quan điểm thực chứng luận mặc dù nhìn ngôn ngữ hiện đại chủ yếu nhằm diễn đạt tư nhận hiện tượng đồng biến, nhưng từ chối khái tưởng, những phát ngôn thông dụng trong các quát thành tính nhân quả của hiện tượng này. ngôn ngữ "sơ khai" dùng để thực hiện một hành động nào đó. Malinowski xem các phát ngôn 86
  9. Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ Phần C: Khoa học Xã hội, Nhân văn và Giáo dục: 25 (2013): 79-95 không có giá trị về mặt thông tin, mà chỉ có  Các câu nói thông dụng trong các mối chức năng thiết lập quan hệ liên cá nhân (các quan hệ giữa người với nhau (gặp gỡ và chia phát ngôn về thời tiết, các câu chào hỏi thể hiện tay; yêu cầu và cám ơn; chúc tụng, khen ngợi, phép lịch sự, các câu hỏi thăm sức khỏe...) như mong ước, phàn nàn, chia buồn, đề tặng; hứa là những minh họa cho phương thức hành động hẹn, thề nguyền; thù địch và hòa bình...); của hoạt động ngôn ngữ.  Thuyết phục và chỉ dẫn; Ý tưởng của Malinowski được nhà nghiên  Giải trí (văn học; sân khấu; phát thanh và cứu người Anh J.R. Firth và các học trò của ông truyền hình; chơi chữ...). tiếp tục, nhưng ông cho rằng mọi phát ngôn đều có chức năng hành động. Chính sự nhìn nhận Một đóng góp quan trọng của ngành nhân này đã khiến ông khẳng định tầm quan trọng chủng học ngôn ngữ đến từ các triết gia Anh, là của bối cảnh tình huống (contexte de situation) những chuyên gia về ngôn ngữ đời thường và gợi ý hai cấp độ nghiên cứu: cấp độ tình (langage ordinaire). Wittgenstein và nhất là huống (xưng hô, chào hỏi, thiết lập quan hệ...) Austin, đã tìm cách mô tả các trường hợp sử và cấp độ chức năng (đồng ý, khuyến khích, lên dụng khác nhau của ngôn ngữ, đã xây dựng nên án, chịu trách nhiệm, hoặc mong muốn, nguyền khái niệm lực ngôn trung (force illocutoire). rủa, thách thức, tự hào…). Nhưng Firth cũng Lực ngôn trung tồn tại trong mọi phát ngôn, nó chỉ dừng lại ở việc lập nên các danh sách trên. gắn liền với ngữ nghĩa nhưng không đồng nhất với ngữ nghĩa. Austin đã khảo sát tất cả các Gần như cùng thời gian ấy, Hội Ngôn ngữ động từ trong tiếng Anh dùng để chỉ một hành học Praha cũng đã tiến hành những công việc động được thực hiện bằng lời nói. nghiên cứu tương tự nhưng hoàn toàn độc lập với các nhà nghiên cứu người Anh. Cách tiếp 3.2 Các trường phái chủ yếu của ngôn ngữ cận của Hội là chức năng của ngôn ngữ, nên các học xã hội thành viên của Hội không những quan tâm đến Ngôn ngữ học xã hội phát triển theo ba các chức năng cơ bản của hoạt động ngôn ngữ trường phái chính. theo tinh thần của Buhler (gồm các chức năng chủ yếu như chức năng thể hiện nhằm vào nội Ngôn ngữ học xã hội biến đổi dung quy chiếu, chức năng biểu cảm cho biết (sociolinguistique variationniste) mối quan hệ giữa người phát ngôn với cái mà Người xây dựng nền móng cho khuynh anh ta nói đến, và chức năng mời gọi hướng về hướng nghiên cứu này là William Labov. Ông người đối thoại), mà còn đến nhiều chức năng nghiên cứu ngôn ngữ dưới góc độ những dị biệt khác mà một phát ngôn có thể đảm nhận. ngôn ngữ và như thế đối lập với Noam Ở Pháp, các nhà chủng tộc học như Chomsky, người chọn mục tiêu nghiên cứu là Durkheim, Mauss, Granet luôn nhạy cảm với năng lực ngôn ngữ của một người nói/nghe lý các vấn đề về ngôn ngữ. Các nhà ngôn ngữ như tưởng thuộc một cộng đồng ngôn ngữ đồng Saussure, Meillet, Vendryes luôn tìm cách gắn nhất, dựa trên việc xét đoán về tính ngữ pháp. lý thuyết ngôn ngữ của họ với các vấn đề xã Ngôn ngữ học xã hội biến đổi quan tâm đến hội. Tuy nhiên, phải đợi đến công trình của ngôn ngữ được sử dụng thật sự trong một cộng Marcel Cohen Vì một ngành xã hội học về hoạt đồng ngôn ngữ, nó quan tâm đến tất cả những động ngôn ngữ (1956) ta mới có một cái nhìn gì biến đổi trong một ngôn ngữ, để nghiên cứu hệ thống về lĩnh vực này. Thay vì gọi chức cấu trúc xã hội của hiện tượng biến đổi ấy. Vì năng (fonction), Cohen nói đến sức mạnh của thế, nó không thể chọn tính chất đồng nhất ngôn ngữ (puissances du langage), và tập hợp ngôn ngữ làm định đề. chúng như sau: Ba chủ đề xuyên suốt và gắn bó mật thiết  Lời nói và sức mạnh siêu nhiên (các lễ với nhau trong các công trình nghiên cứu của hội tế thần, ma thuật, lời tiên tri, tên người, tên W. Labov là sự thay đổi, biến thể và cộng đồng nơi chốn...); 87
  10. Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ Phần C: Khoa học Xã hội, Nhân văn và Giáo dục: 25 (2013): 79-95 ngôn ngữ. Ba chủ đề này hình thành nên ba trục người dân ở đảo phát âm là (ei) và (eu). Các nghiên cứu không thể tách rời nhau: biến ngôn ngữ mà Labov chọn hội đủ các điều  Phân tích các thay đổi ngôn ngữ đang kiện sau đây: chúng được thể hiện bằng những diễn ra; biến thể khác nhau, chúng có tần số xuất hiện cao, chúng thoát khỏi sự kiểm soát có ý thức  Nghiên cứu các dữ liệu của các hoạt động của người phát ngôn, chúng thuộc về một cấu ngôn ngữ tự phát; trúc rộng hơn bao gồm nhiều đơn vị chức năng,  Quan sát các cách sử dụng ngôn ngữ và cuối cùng, chúng có thể định lượng được. trong các mạng lưới xã hội. Labov đã loại bỏ phương pháp nghiên cứu lịch Sự thay đổi ngôn ngữ đại truyền thống, để nghiên cứu sự thay đổi từ những dữ liệu điều tra đồng đại. Đó cũng chính Xuất phát từ luận điểm của A. Meillet và là giả thuyết cơ bản của Labov: sự biến thể nhất là của U. Weinreich, theo đó mọi ngôn ngữ quan sát được trong đồng đại thật ra là sự thay đều đang trong quá trình thay đổi và nhà nghiên đổi ngôn ngữ; nhà nghiên cứu quan sát sự phân cứu chỉ có thể nắm bắt được sự thay đổi đó bố của một nét ngôn ngữ qua sự khác biệt về bằng cách gắn nó với sự thay đổi xã hội với tập tính giữa những người phát ngôn. những biến đổi trong đời sống mà những biến thể ngôn ngữ chỉ là những hậu quả mà thôi, Ngôn ngữ học xã hội biến đổi mô tả tất cả Labov cho rằng cần phải từ bỏ quan niệm ngôn những dạng biến đổi được ghi nhận không ngữ là đồng nhất, cái cách chỉ tiến hành nghiên thuộc cá nhân. Nó phân biệt sự biến đổi xã hội cứu trên cấu trúc ngôn ngữ, phải thiết lập các thể hiện qua sự phân tầng mang tính chất xã hội mối quan hệ giữa sức ép bên trong cấu trúc của một biến ngôn ngữ, sự biến đổi phong cách ngôn ngữ và sức ép bên ngoài từ xã hội. Có như học, xuất hiện trong cùng một diễn ngôn của thế mới có hy vọng hiểu được và giải thích một người nói. Ngoài ra, còn một dạng biến đổi được các sự thay đổi đang diễn ra hàng ngày nữa, không thuộc sự biến đổi xã hội cũng như hàng giờ trong mọi ngôn ngữ. sự biến đổi phong cách học, đó là sự biến đổi cố hữu, nó xuất hiện trong cùng một phong cách Một công trình nghiên cứu thực địa của W. của cùng một người nói, phát sinh từ tính chất Labov có thể được coi là tiêu biểu cho phương dị biệt nội tại trong một hệ thống ngôn ngữ. pháp tiếp cận này, đó là công trình mang tên Các động cơ xã hội của sự thay đổi ngữ âm, Biến đổi ngôn ngữ học xã hội (variation được tiến hành trong hai năm 1961-1962 trên sociolinguistique) hòn đảo Martha’s Vineyard. Mục tiêu của công Đây là chủ đề xuyên suốt mà W. Labov đã trình này là nhằm thiết lập nên lịch sử xã hội đề cập đến trong các công trình nghiên cứu của của một sự thay đổi đang diễn ra, qua cuộc sống ông, đặc biệt là trong tác phẩm Ngôn ngữ học của cộng đồng đó. Công trình không chỉ gạt bỏ xã hội (bản tiếng Anh năm 1972; tiếng Pháp mọi nguyên nhân nội tại xuất phát từ cấu trúc năm 1976) và Ngôn ngữ đời thường (bản tiếng ngôn ngữ, mà còn tìm lời giải đáp cho ba câu Anh năm 1972, tiếng Pháp năm 1978). Trước hỏi luôn xuất hiện trong mọi thay đổi ngôn ngữ: hết, Labov muốn xét lại những định đề về sự  Hiện tượng biến thể ngôn ngữ xuất phát đồng nhất và sự độc lập của các hệ thống ngôn từ đâu? ngữ đối với các mối quan hệ xã hội, cũng như thái độ biệt lập của các nhà ngôn ngữ học mà  Nó lan tỏa như thế nào? ông gọi là bàn giấy, những người chỉ dựa vào  Nó có cái gì là ổn định? một vài nhân chứng hoặc vào trực giác của Các công trình nghiên cứu phương ngữ chính họ mà sản sinh ra những dữ liệu ngôn trước đó đều nhận thấy rằng một số nét ngữ âm ngữ và lý thuyết ngôn ngữ cách ly bối cảnh xã đặc biệt của người dân đảo này đang phát triển: hội. Theo ông, không thể nào hình dung nổi trong khi người dân trên đất liền phát âm các "một lý thuyết hay một hoạt động ngôn ngữ nguyên âm đôi /ay/ và /aw/ là (ai) và (au), thì 88
  11. Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ Phần C: Khoa học Xã hội, Nhân văn và Giáo dục: 25 (2013): 79-95 phong phú nào mà lại không mang tính chất xã việc nghiên cứu các hành vi giao tiếp trong hội" (1976: 37). cộng đồng. Đơn vị phân tích của ngôn ngữ học xã Đối tượng nghiên cứu của chủng tộc học hội là biến ngôn ngữ học xã hội (variable giao tiếp là năng lực giao tiếp (compétence sociolinguistique), tức là một thành phần ngôn communicative) tập hợp những qui định xã hội ngữ đồng biến với các biến ngoại ngôn ngữ cho phép một thành viên trong một cộng đồng (variable extra-linguistique) như là giai cấp xã sử dụng năng lực ngữ pháp của mình một cách hội, giới tính, tuổi tác, cấp độ ngôn ngữ (niveau thích hợp. Chủng tộc học giao tiếp cho thấy de langue)... Để xác định một biến ngôn ngữ, tính chất đa dạng của các hoạt động lời nói và người ta khảo sát toàn bộ những dị bản bao nhiều chức năng xã hội của lời nói, cũng như gồm những cách nói khác nhau để diễn tả cùng là những quy phạm xã hội và văn hóa chi một việc. Sau đó, người ta phân tích những điều phối chúng. kiện ngoại ngôn ngữ quy định việc phát ngôn Chủng tộc học giao tiếp quan tâm trước tiên của các dị bản ấy và tiến hành nghiên cứu việc đến những hoạt động thực tế thuộc về dạng thức phân bố xã hội và phong cách của các dị bản. xã hội. Nó nghiên cứu hành vi liên nhân của các Người ta cũng nghiên cứu những nhân tố ngôn thành viên trong cùng cộng đồng hoặc thuộc ngữ có ảnh hưởng đến việc quyết định chọn dị các cộng đồng khác nhau. Nó lấy sự tương tác bản này hay dị bản khác. Tóm lại, ngôn ngữ học (interaction) hay cuộc gặp gỡ làm đơn vị nghiên xã hội không chỉ nghiên cứu các hiện tượng cứu nhỏ nhất. Chủng tộc học giao tiếp đề ra các ngoại ngôn ngữ, nó xem ngôn ngữ như là một phương pháp quan sát các hoạt động hàng ngày hệ thống biến đổi nội tại và nó nghiên cứu các để khám phá cơ cấu tổ chức của các ứng xử xã biến đổi ngôn ngữ không phải vì mục đích tự hội dù là nhỏ nhất. thân, mà để góp phần vào việc nghiên cứu các cấu trúc ngôn ngữ cũng như hiện tượng thay đổi Chủng tộc học giao tiếp là một ngành học của ngôn ngữ. đặc biệt quan trọng cho việc đào tạo giáo viên ngoại ngữ, vì các chuẩn mực tương tác và giao Ngôn ngữ học xã hội tiến hành việc phân tiếp, việc sử dụng thời gian và không gian, cũng tích bằng cách dựa vào các dữ liệu có thật được như "lãnh địa" của mỗi cá nhân. Qua ngành học thu thập một cách có hệ thống. Phương pháp này, người học ngoại ngữ có được cái nhìn tiến hành là điều tra xã hội học về địa bàn về khám phá về các hành vi ngôn ngữ, văn hóa xã cách chọn mẫu phân tích, cho đến việc nghiên hội của một dân tộc. Trong chiều hướng đó, cứu định lượng và định tính các dữ liệu. Việc những bài học về quy tắc ứng xử cũng quan điều tra bằng cách đàm đạo thường được bổ trọng như bài học về ngữ pháp, cả hai luôn hòa sung bằng việc nghiên cứu cộng đồng ngôn ngữ quyện vào nhau trong suốt quá trình tương tác. theo quan điểm chủng tộc học. Chủng tộc học giao tiếp có một "giá trị thực 3.2.1 Chủng tộc học giao tiếp (ethnographie de hành to lớn" đối với việc dạy và học ngoại ngữ la communication) và việc nghiên cứu giao tiếp liên văn hóa. Các kỹ năng giao tiếp bao gồm nhiều thông tin mà Chủng tộc học giao tiếp là một lĩnh vực người học cần phải có để giao tiếp có hiệu quả nghiên cứu ra đời từ ngành nhân loại học xã hội trong những tình huống sử dụng ngôn ngữ khác (anthropologie sociale), có điểm xuất phát là nhau. Các hoạt động trong lớp học có nhiều nghiên cứu so sánh các hiện tượng lời nói của khiếm khuyết do các ràng buộc nghiêm ngặt từng xã hội và từng nền văn hóa, là công cụ của các khuôn khổ văn hóa – xã hội : chọn cách khám phá và nhận thức các thành tố của một xưng hô, cách gọi tên người nói chuyện, các bài nền văn hóa, chủng tộc học giao tiếp tiêu biểu tập ngữ pháp phi thực tế, các bài tập viết không cho một số lý thuyết nhân loại học và văn hóa chút liên quan đến cuộc sống của người học, xã hội. Các công trình của các nhà nhân loại các trò chơi nhập vai không có ngữ cảnh phù học như: Sapir, Whorf, Hymes, Gumperz và Hall là những cơ sở lý thuyết cần thiết cho 89
  12. Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ Phần C: Khoa học Xã hội, Nhân văn và Giáo dục: 25 (2013): 79-95 hợp, các bài khóa được chọn lựa để giới thiệu hiểu của người tham gia giao tiếp, vì đó chính hình ảnh đất nước con người... là nguồn gốc của những hiểu lầm, dẫn đến những đánh giá về người phát ngôn, nguồn gốc Khác với cách làm của các nhà ngôn ngữ xã hội của người đó. Vấn đề là không chỉ phát học là tưởng tượng ra các câu để phân tích, các họa những giao tiếp khó khăn giữa các cá nhân nhà nghiên cứu chủng tộc học giao tiếp chỉ sử không cùng cộng đồng, mà là phải nghiên cứu dụng ngữ liệu có thật gắn liền với ngữ cảnh và nó như là mọi giao tiếp khác. Theo ông, ngay cả tình huống. Theo Hymes, ngôn ngữ chỉ là một những chi tiết hình thức bên ngoài của giao tiếp thành tố trong giao tiếp mà thôi, bên cạnh các cũng có ý nghĩa trong giao tiếp: thành tố cận ngôn ngữ (paraverbal) và phi ngôn ngữ (non verbal). Bằng cách đó, chủng tộc học "Các đặc điểm bề ngoài của thông điệp là giao tiếp không chỉ nghiên cứu các hiện tượng công cụ để người nói báo hiệu và người nghe ngôn ngữ, mà còn nghiên cứu các chuẩn mực diễn giải bản chất của giao tiếp đang diễn ra, và thói quen văn hóa xã hội trong các tình cách thức mà nội dung ngữ nghĩa được hiểu và huống giao tiếp có thật. cách thức mà mỗi lời nói liên quan với lời nói trước và lời nói sau" (Gumperz, 1989: 28). Sau này, các nhà nghiên cứu khác như G. Bateson, P. Watzlawick, Don D. Jackson đã Ngôn ngữ học xã hội tương tác thiên về mô phát triển sâu rộng hơn nữa lý thuyết về chủng tả ý nghĩa ngữ dụng của các biến, bằng cách tộc học giao tiếp. phân tích phương thức mà chúng góp phần vào việc diễn giải các phát ngôn trong một cuộc hội 3.2.2 Ngôn ngữ học xã hội tương tác thoại. Ngôn ngữ học tương tác còn nghiên cứu Ngôn ngữ học xã hội tương tác các quá trình của các phát ngôn bám vào tình (sociolinguistique interactionnelle) còn được huống, nghĩa là nghiên cứu việc tình huống hóa gọi là ngôn ngữ học xã hội diễn giải các phát ngôn bằng cách mô tả cách thức các (sociolinguistique interprétative) là sự tiếp nối thành phần tham gia hội thoại sử dụng để thể của chủng tộc học giao tiếp. Ngành nghiên cứu hiện tình huống xã hội trong hoạt động ngôn này đưa các yếu tố ngữ dụng và tương tác lời ngữ, nhờ các công cụ lời nói hoặc phi lời nói. nói vào việc phân tích các hiện tượng biến đổi 3.2.3 Ngôn ngữ học xã hội theo trường phái xã hội. Trong một cuộc hội thoại, sự biến đổi Rouen ngôn ngữ không chỉ là một biểu hiện của hành vi xã hội, mà còn là một nguồn giao tiếp đối với Trường Đại học Rouen được xem là cái nôi những người tham dự, nó góp phần vào việc lý của ngôn ngữ học xã hội Pháp, đặc biệt là ngôn giải những gì được sản sinh ra trong hội thoại. ngữ học xã hội vi mô (micro-sociolinguistique) Các công trình của Gumperz đã cho thấy rõ các mà đứng đầu là các giáo sư – học giả uyên bác chức năng giao tiếp tính chất biến đổi của ngôn như J.-B. Marcellesi, B. Gardin, hai tác giả tiên ngữ. Ông đã chỉ ra rằng các biến ngôn ngữ học phong của ngành ngôn ngữ học xã hội ở Pháp, xã hội không hiện diện một cách đơn độc trong nổi tiếng với quan điểm duy vật biện chứng về diễn ngôn, những biến xuất hiện trước sẽ khống hoạt động ngôn ngữ trong tình huống có thật chế sự xuất hiện của các biến tiếp theo. Các tập (langage en situation), đặc biệt là hoạt động hợp biến này gắn liền với việc theo đuổi mục ngôn ngữ trong lao động (langage au travail). tiêu giao tiếp đặc biệt và chúng hoạt động như Theo các nhà nghiên cứu thuộc trường phái là những tín hiệu hướng dẫn việc diễn giải các này, mối quan hệ giữa ngôn ngữ và xã hội là phát ngôn. mối quan hệ biện chứng: sự thay đổi của yếu tố này dẫn đến sự thay đổi yếu tố kia và ngược lại, Gumperz tập trung chủ yếu vào hai khía yếu tố kia cũng góp phần làm thay đổi yếu tố cạnh tương tác : đó là chiến lược tương tác và này, hoàn toàn khác với các quan niệm cực bản sắc xã hội của người tham gia tương tác. đoan của các khuynh hướng ngôn ngữ học Theo ông, nhà nghiên cứu không chỉ quan tâm trước đó. đến cách nói, mà còn phải quan tâm đến cách 90
  13. Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ Phần C: Khoa học Xã hội, Nhân văn và Giáo dục: 25 (2013): 79-95 "Những vấn đề thu hút sự quan tâm của giả phương Tây qua bản dịch bằng tiếng Anh chúng tôi xoay quanh mối tương quan giữa (Nhà xuất bản Seminar Press Inc., Berkeley những hiện tượng ngôn ngữ và hiện tượng xã Square House, Luân Đôn) do V.N. Volochinov hội phi ngôn ngữ. Việc một cá nhân thuộc một đứng tên, sau đó mới có bản dịch bằng tiếng thành phần xã hội nào đó có ảnh hưởng đến Pháp (1977), được ghi là của M. Bakhtine cách ứng xử ngôn ngữ của cá nhân đó không? (V.N. Volochinov). Từ đó cho đến nay, tác Đến mức độ nào? Chúng tôi cho rằng các mối phẩm này đã trở nên không thể thiếu được trong tương tác giữa hai loại hiện tượng nói trên thì thư mục sách tham khảo của các công trình đa chiều và phức tạp, rằng mối quan hệ đơn tính nghiên cứu ngôn ngữ học hiện đại (có thể kể là cá biệt và tính đa phương giữa nguyên nhân một công trình tiêu biểu, đồ sộ dày 869 trang, và hậu quả là quy luật. Điều đó khiến chúng tôi được trao giải thưởng Pierre Larousse về định nghĩa sự đồng biến một cách biện chứng" khoa học ngôn ngữ năm 1993: Ces mots qui ne (Marcellesi, 1998: 42). vont pas de soi. Boucles réflexives et non- coïncidences du dire, của Jacqueline Authier- Ngoài ra, khuynh hướng này cũng còn được Revuz, Nhà xuất bản Larousse, Paris. 1995). biết đến bởi quan niệm ngôn ngữ học xã hội không xem ngôn ngữ như là một hệ thống đồng Bakhtine, một cái tên không xa lạ với giới nhất, nguyên khối, như ngôn ngữ học, mà là nghiên cứu văn học. Ông là người đã khám phá một tập hợp luôn luôn biến đổi, nên rất đa dạng. ra lý thuyết đa thanh (polyphonie) qua các công Sự khác biệt này tất yếu dẫn đến sự thay đổi trình nghiên cứu tiểu thuyết của Dostoievski, chẳng những trong cách quan niệm và xác định theo đó trong một lời nói luôn luôn ẩn chứa đối tượng nghiên cứu mà còn trong phương nhiều giọng điệu của nhiều người khác nhau. pháp luận nghiên cứu. Nói cách khác, ngôn ngữ Sự ra đời của tác phẩm này đã cho giới nghiên học xã hội không chỉ là một ngành khoa học, nó cứu có một cái nhìn toàn diện hơn về tư còn là một phương pháp luận khoa học, như B. tưởng của Bakhtine, nhất là về đặc tính phổ Gardin đã viết như sau: quát của lý thuyết đa thanh trong mọi hoạt động ngôn ngữ mà ông gọi là nguyên lý đối thoại "Người ta có thể nói rằng ngôn ngữ học xã (dialogisme). hội đã được xác lập và phổ biến rộng rãi; bây giờ nó thuộc về một hệ vấn đề đã được nhìn Vào những năm 20 của thế kỷ trước, nguyên nhận. Từ nay, người ta không còn có thể coi nó lý đối thoại của Bakhtine bắt nguồn từ nhận xét như là một môn học, mà là một hệ phương pháp rằng trong lĩnh vực khoa học ngôn ngữ, có hai luận có khả năng nghiên cứu từng trường hợp thái cực: một bên là phong cách học chỉ quan (études de cas, case study). Ngày nay, người ta tâm đến sự biểu hiện ngôn ngữ của từng cá quan tâm nhiều hơn đến thực tế ngôn ngữ học nhân và một bên là ngôn ngữ học cấu trúc vừa xã hội vi mô (micro-sociolinguistique), đến mới ra đời, chỉ giới hạn việc nghiên cứu trong các chi tiết của tiến trình xã hội quyết định phạm vi ngôn ngữ với tư cách là một hệ thống ngôn ngữ và ngược lại" (dẫn lại từ Marcellesi, trừu tượng (langue). Đối tượng nghiên cứu của 1998: 49). Bakhtine nằm giữa hai thái cực này: đó là phát ngôn, với tư cách là sản phẩm của sự tương tác Nguồn gốc lý thuyết của trường phái ngôn giữa ngôn ngữ và bối cảnh phát ngôn. Hoàn ngữ học xã hội Rouen toàn trái ngược với những suy nghĩ của các nhà Trào lưu tư tưởng Xô-viết phong cách học và ngôn ngữ học, Bakhtine cho Tác phẩm lý luận quan trọng ảnh hưởng đến rằng phát ngôn không phải là sản phẩm thuần quan điểm của Marcellesi và Gardin, hai trụ cột túy cá nhân mà nó mang tính chất liên văn bản của trường phái ngôn ngữ học xã hội Rouen là (intertextualité): dù muốn hay không, mỗi diễn Chủ nghĩa Mác và triết học ngôn ngữ, của ngôn đều "đối thoại" với các diễn ngôn xuất Volochinov và Bakhtine, xuất bản năm 1930, hiện trước về cùng một chủ đề, cũng như với nhưng mãi đến năm 1973 mới đến được tay độc các diễn ngôn sẽ ra đời sau này, mà nó dự cảm được phản ứng của chúng: 91
  14. Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ Phần C: Khoa học Xã hội, Nhân văn và Giáo dục: 25 (2013): 79-95 "Không một phát ngôn nào có thể được gán Trong từ ngữ, sự hài hòa với bối cảnh (của thể cho một người phát duy nhất : nó là sản phẩm loại, của khuynh hướng, của cá nhân) thì không của sự tương tác giữa các bên tham gia đối thể tránh khỏi được" (Bakhtine, 1978: 106). thoại, nói rộng ra, nó là sản phẩm của cả hoàn Ngôn ngữ học xã hội biến đổi của Labov cảnh xã hội phức tạp, nơi nó xuất hiện" (Bakhtine-Volochinov, 1977: 118). Gardin, tác giả đầu tiên đã có công giới thiệu Labov với công chúng Pháp trong công Ở đây, chúng ta thấy quan điểm về lời nói trình Introduction à la sociolinguistique. La (parole) của nhóm Bakhtine-Volochinov hoàn linguistique sociale (viết chung với Marcellesi, toàn khác biệt với Saussure, người chỉ xem 1974), đã nhận thấy ở ngôn ngữ học xã hội của ngôn ngữ (langue) mang tính tập thể, còn lời Labov khả năng thoát khỏi khuynh hướng xã nói chỉ là sản phẩm của cá nhân: hội học mơ hồ (sociologisme vague) và nguyên "Người ta không thể gán phần lời nói trong lý đầy tham vọng nhưng bất lực về bản chất xã con người cho một chủ thể duy nhất, được quan hội của ngôn ngữ, cũng như khả năng tiếp cận niệm một cách biệt lập; phần lời nói không khoa học với những lẽ hiển nhiên đời thường thuộc về một cá nhân mà thuộc về một nhóm xã như là: hội (môi trường xã hội của nhóm đó). Mọi động  Cộng đồng ngôn ngữ dựa trên sự đồng cơ hành động, mọi sự tự nhận thức (sự tự nhận nhất về chuẩn mực ngôn ngữ và sự dị biệt về thức luôn luôn bằng lời nói, luôn luôn dẫn đến cách ứng xử; việc tìm kiếm một phức hợp lời nói) đều là phương cách thiết lập quan hệ với một chuẩn  Mọi chủ thể nói năng của một ngôn ngữ mực xã hội nào đó; vì thế đó chính là sự xã hội đều có khả năng biến đổi cách sử dụng ngôn hóa bản thân và hành động của mình. Khi có ý ngữ của mình cho phù hợp với tình huống; thức về bản thân mình tức là tôi đã cố gắng  Mọi sự biến đổi ấy đều do xã hội quy nhìn tôi với đôi mắt của một người khác, của định và các chủ thể nói năng ít nhiều đều nhận một đại biểu khác của nhóm xã hội của tôi hoặc thức được điều ấy; của giai cấp tôi" (Bakhtine-Volochinov, 1977: Một mặt nhìn nhận những ưu điểm ấy, một 128-130). mặt, Gardin đã chỉ ra những hạn chế của ngôn Hoặc: ngữ học xã hội Labov. Ông cho rằng ngôn ngữ học xã hội của Labov vẫn chỉ là ngành ngôn "Phát ngôn riêng lẻ (lời nói) không hề là một ngữ học xã hội ngoài lề (sociolinguistique de la sự kiện cá nhân [...]. Chủ nghĩa chủ quan cá marge), vì nó xem ngôn ngữ là một thực thể cố nhân sai lầm ở chỗ là nó không biết và không định và chỉ nghiên cứu những khía cạnh biến hiểu bản chất xã hội của phát ngôn, và cố diễn đổi theo thời gian. Nói cách khác, yếu tố xã hội dịch phát ngôn từ thế giới nội tâm của người trong ngôn ngữ học xã hội của Labov mang phát ngôn, như là một biểu hiện của thế giới nội đậm tính chất ngoài lề. tâm. Cấu trúc của phát ngôn, cũng như là cấu trúc của chính kinh nghiệm có thể diễn đạt Gardin còn chỉ ra rằng Labov đã vô hình được, là một cấu trúc xã hội" (1977: 111-112). trung đồng hóa tính chất xã hội trong ngôn ngữ với bản sắc của cộng đồng ngôn ngữ: Hoặc nói như Bakhtine: "Các nhóm xã hội tạo ra các biến đổi ngôn "Trong ngôn ngữ, không có một từ nào, một ngữ để tự khẳng định mình để phân biệt với các dạng nào là trung lập, không thuộc về ai: mỗi từ nhóm xã hội khác: sự biến đổi ấy dù ở dưới đều cho thấy nghề nghiệp, thể loại, khuynh dạng nào đi nữa, đều là quá trình tự xác định hướng, đảng phái, tác phẩm cụ thể, con người của các nhóm xã hội, đều nhằm tạo ra bản sắc cụ thể nào đó, thế hệ, tuổi tác, ngày, giờ. Mỗi từ riêng bằng những hình tượng khác biệt, hoàn đều để lộ ra các bối cảnh của đời sống xã hội toàn không có liên quan gì đến các hoạt động tích cực của nó ; tất cả từ ngữ và tất cả dạng xã hội khác cũng như với chức năng mà họ đảm thức ngôn ngữ đều ẩn chứa những ý định. nhiệm trong sản xuất" (1988: 12). 92
  15. Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ Phần C: Khoa học Xã hội, Nhân văn và Giáo dục: 25 (2013): 79-95 "Ngôn ngữ học xã hội theo kiểu Labov "Activité en vue d'un résultat, opposée à la không thể nhận thức được sự thay đổi xã hội, sự connaissance d'une part, à l'être d'autre part", Le sản sinh ra những mối quan hệ mới, cũng như Petit Robert, 2009). Vì thế, praxématique (đôi không thể chỉ ra tính chất thường trực của cấu khi còn được gọi là praxématique linguistique) trúc ẩn sau những thay đổi bên ngoài. Thế mà được các nhà sáng lập định nghĩa là ngành xã hội luôn thay đổi và ngôn ngữ cũng vậy. Vì ngôn ngữ học duy vật, nhằm nghiên cứu quá thế cần phải có một ngành ngôn ngữ học trình tạo nghĩa. có khả năng nắm bắt những sự việc này" Thành tích khoa học của trường phái Rouen (1988: 15). Có lẽ phải kể đến Đại học Văn Khoa Có thể tóm tắt khuynh hướng nghiên cứu Nanterre như là cái nôi đầu tiên của ngôn này qua phát biểu sau đây: ngữ học xã hội Pháp, nơi quy tụ nhiều nhà "Lý thuyết của M. Godelier (1978) cũng như nghiên cứu ngôn ngữ nổi tiếng như J. Dubois, những thành tựu của phương pháp luận chủng J. Sumpf, L. Guilbert, J.B. Marcellesi, tộc (ethnométhodologie) đã khiến chúng tôi L. Guespin... Chính từ nơi đây đã cho ra đời nhìn nhận rằng diễn ngôn và ngôn ngữ không công trình đầu tiên ở Pháp mang tên Ngôn ngữ chỉ là những phản ánh đơn thuần thực tại, nó học xã hội (tạp chí Langages, số 11 năm 1968, còn là những lực lượng sản xuất" (Gardin, do J. Sumpf chủ biên). Cũng cần nhắc lại là 1988: 13). trước đó chưa hề có công trình nghiên cứu nào mang tên gọi như vậy, mặc dù khuynh hướng Để nghiên cứu hiện tượng biến đổi xã hội và nghiên cứu này đã được nhiều học giả phát thảo ngôn ngữ, B. Gardin đã chủ trương một cách ra. Ba năm sau đó, cũng chính Đại học Văn tiếp cận mới: Khoa Nanterre tiếp tục cho ra mắt số 9 của tạp "Có lẽ cần phải thay đổi góc độ quan sát, chí Langue française mang tên Ngôn ngữ học phải quan sát những gì đang xảy ra ở những nơi và Xã hội, do J.-B. Marcellesi chủ biên. Qua hai mà mọi việc chưa được quyết định, ở những nơi số tạp chí này nổi lên các lĩnh vực nghiên cứu mà ngôn ngữ có chức năng sản xuất nhiều hơn mà sau này đã trở thành thế mạnh của ngôn ngữ là thể hiện, ở những nơi mà các chủ thể nói học xã hội Pháp: phân tích diễn ngôn chính trị năng quan tâm nhiều đến việc chiếm một vị trí dưới góc độ ngôn ngữ học xã hội, nghiên cứu mới, ở những nơi mà của cải vật chất và các hiện tượng song ngữ bất bình đẳng, nghiên cứu mối quan hệ xã hội được tạo ra trong cùng một ngôn ngữ nói trong đời thường theo phương hoạt động, ở những nơi mà quan hệ giữa người pháp của Labov... Kể từ đó, hàng loạt công với người và quan hệ giữa người với thế giới tự trình nghiên cứu về ngôn ngữ học xã hội đã ra nhiên được xác lập chung với nhau, ở những đời trên khắp nước Pháp như Đại Hội Tours, nơi mà hoạt động ngôn ngữ trong lao động cũng Nghiên cứu ngôn ngữ học xã hội (Marcellesi, bị biến đổi" (Gardin, 1988: 15). 1971), Dẫn nhập Ngôn ngữ học xã hội Ngôn ngữ học hành động (praxématique). (Marcellesi & Gardin, 1974), Ủng hộ và Chống F. de Saussure Hướng đến một nền ngôn ngữ Khuynh hướng nghiên cứu ngôn ngữ học học xã hội (Calvet, 1975), Ngôn ngữ học xã hội này gắn liền với tên tuổi của nhà ngôn ngữ học hay Xã hội học ngôn ngữ (Boutet, Fiala, nổi tiếng R. Laffont, chuyên nghiên cứu về tình Simonỉn-Gumbach, 1976), Ngôn ngữ học và hình xung đột ngôn ngữ ở các vùng tồn tại Ngôn ngữ học xã hội (Encrvé, 1977), Ngôn ngữ song song ngôn ngữ chính thức (ngôn ngữ học xã hội. Các cách tiếp cận, Lý thuyết và quốc gia) và tiếng mẹ đẻ, như vùng miền Nam Thực tiễn (Gardin & Marcellesi, 1980)... nước Pháp (Languedoc-Roussillon). Thuật ngữ praxématique xuất phát từ thuật ngữ praxis, có Nhóm nghiên cứu mà sau này trở thành nghĩa là hoạt động nhằm đạt được một kết quả, nòng cốt của trường phái Rouen ban đầu quy tụ một mặt đối lập với kiến thức, mặt khác, đối lập một số giảng viên của Đại học Văn Khoa với thực thể (nguyên văn bằng tiếng Pháp: Nanterre như J.-B. Marcellesi, J.P. Colin, D. 93
  16. Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ Phần C: Khoa học Xã hội, Nhân văn và Giáo dục: 25 (2013): 79-95 Maldidier, L. Guespin, B. Gardin, M. Giacomo, Qua công trình này mà độc giả Pháp bắt đầu C. Marcellesi, G. Chaveau-Provost, J.P. tiếp cận với các tác phẩm của Bakhtine- Kaminker, M. Briot, F. Madray, D. Baggioni, Volochinov, Bernstein, Labov, và cũng từ đó, và lấy tên là GRECO (Groupe de recherche sur hàng loạt tác phẩm của họ được dịch sang tiếng la Covariance Sociolinguistique – Nhóm nghiên Pháp, tạo thành một làn sóng tư tưởng mới về cứu về sự đồng biến ngôn ngữ học xã hội). Họ nhận thức luận khoa học cũng như về phương đồng thời cũng còn là thành viên của nhóm pháp luận nghiên cứu ngôn ngữ học tại Pháp. nghiên cứu Néologie lexicale (Từ mới) do Tiếp theo đó là hàng loạt bài báo của nhóm Louis Guilbert lãnh đạo. Tham vọng của nhóm nghiên cứu lần lượt được công bố trên các Tạp là tìm những câu trả lời về mặt lý thuyết và chí ngôn ngữ có uy tín như Langue française, khoa học luận trong lĩnh vực ngôn ngữ học xã Langages, Langage et Société, Mots, Linx, hội, trên cơ sở nhận thức thống nhất với nhau là Cahiers de linguistique sociale, Cahiers de khái niệm đồng biến (covariance) cần phải được praxématique... Có thể nói, thành tựu nổi bật định nghĩa " một cách biện chứng ". Nhóm này nhất, có ảnh hưởng lớn trong giới nghiên cứu dần dần chuyển về Đại học Rouen vừa thế giới, đó là việc khai sinh ra ngành nghiên mới thành lập. Từ đó, hoạt động của nhóm cứu socioterminologie (thuật ngữ học xã hội), càng được độc lập hơn và không ngừng phát được manh nha từ những công trình của L. triển, qua việc cho ra đời Tạp chí Cahier de Guilbert và phát triển nền tảng lý thuyết và linguistique sociale (ngày nay vẫn còn xuất phương pháp nghiên cứu với L. Guespin, và sau bản) và nhiều ấn phẩm khác, đặc biệt là đã làm này là F. Gaudin. nòng cốt trong cuộc hội thảo quốc tế về ngôn ngữ học xã hội tổ chức tại Rouen 1978. Chính 4 THAY LỜI KẾT: NGÔN NGỮ TRONG từ những hoạt động khoa học này đã dần LAO ĐỘNG, MỘT LĨNH VỰC NGHIÊN dần hình thành nền tảng lý thuyết và thực CỨU MỚI CỦA NGÔN NGỮ HỌC XÃ HỘI nghiệm cho ngành thuật ngữ học xã hội Đây là một lĩnh vực nghiên cứu mới của (socioterminologie), mà sau này Louis Guespin ngôn ngữ học xã hội, mà nhóm nghiên cứu sẽ phát triển một cách có hệ thống vào giữa Langage et Travail (Hoạt động ngôn ngữ và thập kỷ 80. Lao động), đứng đầu là B. Gardin. Như M. Sau 1980, nhóm được tái cơ cấu lại theo bốn Lacoste đã chỉ, nó lấy đối tượng nghiên cứu là hướng nghiên cứu chính, được thể hiện qua một các cách thức mà những hoạt động xã hội được loạt bài báo trong số 209 của Tạp chí La Pensée hình thành thông qua lời nói hằng ngày và dựa (1980) có chủ đề là Ngôn ngữ và xã hội. Đó là trên dữ liệu phân tích chủ yếu là những tương các vấn đề: tác lời nói. Các tác giả trên cho rằng sở dĩ lĩnh vực này xứng đáng được nghiên cứu sâu là vì  Ngôn ngữ học xã hội trong thời kỳ khủng chưa bao giờ hoạt động nghề nghiệp bị xem hoảng ngôn ngữ học; giai cấp xã hội và quan hệ như là một sự áp dụng máy móc các qui trình, xã hội trong vấn đề quyết định của ngôn ngữ; quy tắc đã định sẵn, ngay cả trong những vị trí  Chính sách ngôn ngữ: ngôn ngữ dân tộc, làm việc được xem như là đơn giản như là ở các chuẩn ngôn ngữ, ngôn ngữ thiểu số, những vấn dây chuyền sản xuất. Các thao tác lao động đề ngôn ngữ và chính trị; luôn luôn cần đến ý nghĩa và việc điều phối  Ngôn ngữ, quan hệ xã hội và trường học; chúng trong tập thể lao động đòi hỏi một qui  Khía cạnh dụng học trong ngôn ngữ học trình thương lượng và hợp tác thường xuyên, xã hội: mối liên quan giữa ngôn ngữ và quyền như trong mọi tình huống xã hội. Vì thế, hoạt lực, giữa ngôn ngữ và lao động... động ngôn ngữ là một dạng thái cơ bản của việc hình thành yếu tố kỹ thuật và xã hội trong lao Công trình Dẫn luận ngôn ngữ học xã hội động: lao động chính là hòa hợp với người (Nxb Larousse, 1974) của hai tác giả J.B. khác, là điều chỉnh hoạt động của mình cho Marcellesi và B. Gardin là công trình đầu tiên ở ngày càng phù hợp hơn với hoạt động của Pháp giới thiệu ngành khoa học mới mẻ này. người khác, trong không gian và thời gian, là 94
  17. Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ Phần C: Khoa học Xã hội, Nhân văn và Giáo dục: 25 (2013): 79-95 cùng nhau tìm giải pháp cho một vấn đề, là đặt 8. Ducrot O. & Schafffer J.-M., 1995. Nouveau câu hỏi, là giải thích... Tóm lại, lao động luôn dictionnaire encyclopédique des sciences du luôn đi kèm theo lời nói. Thế nhưng từ xưa đến langage. Nhà xuất bản du Seuil. Paris. 688 trang. nay, sản phẩm lời nói này thường bị coi thường, 9. Ducrot O. & Todorov T., 1972. Dictionnaire hoặc lãng quên, do chưa có những cuộc điều tra encyclopédique des sciences du langage. Nhà chi tiết. xuất bản du Seuil. Paris. 475 trang. 10. Fishman J., 1971, La sociolinguistique. Nhà Bài viết này chỉ là một phát thảo sơ lược về xuất bản Nathan. Paris. 160 trang. ngôn ngữ học xã hội để kỷ niệm 10 năm ngày 11. Gardin B., 1988. Langage et travail. Etudes mất của Giáo sư B. Gardin (1940 - 2002), người sociolinguistiques de discours ouvriers en đã có những đóng góp xuất sắc vào việc phát entreprise, Luận án tiến sĩ quốc gia (tập 1), Đại triển ngành nghiên cứu mới mẻ này ở Pháp và học Rouen. TP Rouen, Pháp. 350 trang. đã dành cả cuộc đời để nghiên cứu về hoạt động 12. Gardin B. & Marcellesi J.-B., 1987. The ngôn ngữ của giới bình dân, nhất là giới công subject matter of Sociolinguistics. Trong: U. nhân Pháp. Đối với Việt Nam, ông có công rất Ammon, N. Dittmar, K. Mattheier (Editors). lớn trong việc đào tạo nhiều du học sinh, trong Sociolinguistics: an International Handbook of đó có tác giả bài viết này, về lĩnh vực khoa học the Science of Language and Society, vol. 1, De ngôn ngữ, trong đó có ngôn ngữ học xã hội. Gruyter. Berlin/New York. 16-25. 13. Gumperz J., 1989. Engager la conversation. TÀI LIỆU THAM KHẢO Nhà xuất bản Minuit. Paris. 192 trang. 1. Bakhtine M., 1978. Esthétique et théorie du 14. Kerbrat-Orecchioni C., 1980. L’énonciation De roman. Nhà xuất bản Gallimard. Paris. 488 trang. la subjectivité dans le langage. Nhà xuất bản 2. Bakhtine M. & Volochinov V.N., 1977. Le Armand Colin. Paris. 267 trang. marxisme et la philosophie du langage. Nhà 15. Kerbrat-Orecchioni C., 1990. Interactions xuất bản Minuit. Paris. 233 trang. verbales, Quyển 1. Nhà xuất bản Armand Colin. 3. Baylon C. 1991. Sociolinguistique. Société, Paris. 355 trang. langue et discours. Nhà xuất bản Nathan. 16. Marcellesi J.-B., 1980. De la crise de la Paris. 303 trang. linguistique à la linguistique de la crise : la 4. Calvet L.-J., 1975. Pour et contre Saussure. sociolinguistique. Tạp chí La Pensée. Số 209: Nhà xuất bản Payot. Paris. 153 trang. 4-21. 5. Calvet L.-J. , 1999. Origines de la 17. Marcellesi J.-B., 1998. Contribution à l’histoire sociolinguistique La conférence de de la sociolinguistique : Origines et sociolinguistique de l’UCLA. Tạp chí Langage Développement de l’école rouennaise, trong J. et Société. Số 88: 25-57. Le Du (Editeurs), Y a-t-il une exception sociolinguistique française, La Bretagne 6. Cohen M., 1956. Pour une sociologie du linguistique. Số 10 : 39-57. langage. Nhà xuất bản Albin Michel. Paris. 396 trang. 18. Marcellesi J.-B. & Gardin B., 1974. Introduction à la sociolinguistique. La 7. Dubois J. et al., 1994. Dictionnaire de linguistique sociale. Nhà xuất bản Larousse. linguistique et des sciences du langage. Nhà Paris. 263 trang. xuất bản Larousse. Paris. 672 trang. 95

nguon tai.lieu . vn