Người đứng đầu chính phủ vệ quốc là ai

Chi tiết Chuyên mục: Bài 5: Công xã Pa-ri 1871

- Thái độ của “Chính phủ vệ quốc” xin đình chiến, đầu hàng, thậm chí đàn áp nhân dân.

- Thái độ nhân dân: Bất chấp thái độ đầu hàng và hành động đàn áp phong trào đấu tranh của chính phủ, nhân dân Pa-ri kiên quyết đứng lên chiến đấu bảo vệ Tổ quốc.

(Nguồn: trang 36 sgk Lịch Sử 8:)

Khi tin tức truyền về Paris rằng Hoàng đế Napoléon III đã bị bắt sống, dân chúng Paris trở nên căm phẫn.[32] Việc Napoléon III bị quân Đức bắt giữ khiến cho dân chúng Pháp khát khao thiết lập nền Cộng hòa.[5] Nền Đệ Nhị đế chế Pháp nhanh chóng bị lật đổ trong một cuộc đảo chính không đổ máu, lãnh đạo bởi Tướng Louis Jules Trochu, và các Nghị sĩ như Jules Favre và Léon Gambetta tại Paris ngày 4 tháng 9. Họ phế bỏ Vương triều Bonaparte và thiết lập nền cộng hòa lãnh đạo bởi Chính phủ Vệ quốc, tiến tới việc hình thành nền Đệ Tam cộng hòa. Napoléon III bị đưa về Đức như một tù binh của quân Phổ,[36] rồi sau đó được trả tự do. Ông đến Anh sống lưu vong và chết năm 1873.

Đế chế Pháp cáo chung, Hoàng hậu Eugènie phải bỏ chạy.[36] Sau chiến thắng quyết định của quân Đức tại Sedan, đại bộ phận quân thường trực của Pháp bị loại khỏi vòng chiến, một đạo quân bị cầm chân và bị vây hãm tại Metz, đạo quân chỉ huy bởi Hoàng đế Napoléon III thì đầu hàng. Tình hình đó khiến người Đức hy vọng một cuộc ngưng bắn sẽ nhanh chóng được thông qua để chấm dứt chiến tranh. Thủ tướng nước Phổ Otto von Bismarck đặc biệt kỳ vọng vào cuộc ngưng bắn, vì ông muốn chấm dứt chiến tranh càng nhanh càng tốt. Với một quốc gia bị bao quanh bởi quá nhiều nước láng giềng, một cuộc chiến dai dẳng mang lại nguy cơ can thiệp từ phía một cường quốc khác, và Von Bismarck quyết tâm không đánh liều.

Thoạt đầu, triển vọng cho hòa bình khá sáng sủa. Người Đức tính rằng chính phủ mới của Pháp không muốn tiếp tục cuộc chiến tranh gây ra bởi Vương triều mà họ vừa lật đổ. Để dọn đường đàm phán hòa bình, Thủ tướng Phổ von Bismarck mời tân chính phủ Pháp đến dự đàm phán tại Ferrières và đưa ra những yêu sách vừa phải, bao gồm yêu cầu một số vùng lãnh thổ nhỏ tại tỉnh Alsace, mặc dầu ngay từ trước chiến thắng lẫy lừng tại Sedan, báo chí Đức cũng bàn bạc nhiều về chuyện người Đức yêu cầu Pháp phải nhượng cả hai vùng Alsace và Lorraine.[87] Những đòi hỏi về lãnh thổ khác về biên giới Pháp dọc theo sông Rhine tại vùng Palatinate đã được Adolphe Thiers đưa ra từ năm 1840, trong khi người Đức thề chiến đấu bảo vệ cả hai bờ sông Rhine (là nguồn gốc bài Die Wacht am Rhein, Deutschlandlied, tạm dịch Hành khúc sông Rhine và Nước Đại đức). Cũng vì nước Phổ (đạo Tin Lành) vừa giành được một vùng lãnh thổ lớn có cư dân là người Công giáo La Mã, nên Bismark không muốn tiếp tục chiếm thêm những lãnh thổ theo Công giáo mới.

Lệnh ngừng bắn đổ vỡ và giao chiến tiếp diễn

Discussing the War in a Paris Café - Thảo luận cuộc chiến trong một quán cà phê ở Paris, trên tờ Illustrated London News ngày 17 tháng 9 năm 1870 Bức The War: Defence of Paris — Students Going to Man the Barricades, một trong những hình ảnh tiêu biểu của cuộc vây hãm Paris.

Trong khi chính phủ cộng hòa có vẻ cam chịu trả chiến phí hoặc nhượng lại các vùng lãnh thổ thuộc địa ở châu Phi hoặc Đông Nam Á cho Phổ, thì Jules Favre nhân danh Chính phủ Vệ quốc tuyên bố ngày 6 tháng 9 là nước Pháp sẽ không "nhượng một viên đá, một tấc đất lãnh thổ"[116]. Bằng được không làm theo những yêu sách tương đối khoan hồng của Thủ tướng Bismarck,[32] Cộng hòa Pháp sau đó tiếp tục chiến tranh, kêu gọi động viên từ khắp các miền lãnh thổ, thề đuổi quân thù khỏi nước Pháp.

Trước tình hình đó, người Đức buộc phải tiếp tục chiến tranh, dù không có bất kỳ lực lượng quân sự nào ở các vùng lân cận để đương đầu với họ. Bản thân Tổng Tham mưu trưởng Von Moltke cũng phải bất ngờ khi nước Pháp đã dựng xây những đoàn quân mới để tiếp tục chiến đấu, cho dù các chiến sĩ Đức sẽ nhanh chóng đánh bại hoàn toàn những đội quân này.[5] Vì phần lớn các lực lượng Pháp đang đào hào đắp lũy gần Paris, các chỉ huy Đức quyết định tăng sức ép lên đối phương bằng cách tấn công Paris. Tới tháng 10, quân Đức đã tiến tới ngoại vi Paris, lúc này đã được phòng ngự cẩn mật. Quân Đức bao vây thành phố và thiết lập chướng ngại vật xung quanh, như đã làm với Metz.

Cũng trong tháng 10 năm 1870, Binh đoàn Lê dương Pháp với trang bị yếu kém đã đổ bộ lên Toulon để nghênh chiến với quân Đức. Vốn từ ngày 22 tháng 8 năm 1870, Tiểu đoàn Lê Dương số 5 đã được ký kết thành lập để phục vụ cho nước Pháp trong suốt chiều dài cuộc chiến tranh. Bao gồm có bảy Đại đội (khoảng 1.600 binh lính), Tiểu đoàn này bao gồm dân ngoại quốc sinh sống ở Pháp và có thiện cảm với nước Pháp. Dưới quyền chỉ huy của Victor-Joseph Arago, Tiểu đoàn bao gồm các lính người Áo, Thụy Sĩ, Ba Lan, Ý, Tây Ban Nha và Serbia nhưng rõ ràng là không có người Đức. Tiểu đoàn này bao gồm cả Vương công Karađorđević xứ Serbia, tức là vua Petar I Karađorđević trong tương lai. Ông ta tham gia chỉ huy Trung đoàn Ngoại quốc số 1, dưới bí danh là "Kara". Đồng thời, hai Tiểu đoàn khác bao gồm có 2 nghìn lính Lê dương được tuyển mộ từ các binh lính đã có sẵn ở Sidi-Bel-Abbes.[21]

Tiểu đoàn Lê dương Ngoại quốc số 5 của Pháp được hợp nhất với Binh đoàn Quân đội số 15, với khoảng 2 vạn sĩ tốt, do Tướng De Mottery, và chiến đấu ở miền Orléans. Vào giữa tháng 10 năm 1870, họ được triển khai để phòng vệ ngôi làng Arthaney. Quân Đức tiến công mãnh liệt, buộc quân Lê dương Pháp phải bỏ chạy về Orléans. Tại đây, họ phòng ngự ở khu vực Bel-Air-les-Aides. Khi chỉ huy Arago bị tiêu diệt, Tiểu đoàn này phải cuống cuồng tháo chạy về khu vực Bannier. Quân Bộ Binh Đức khuếch trương vây khốn địch đồng thời lực lượng Pháo binh Đức bắn nã dữ dội, khiến Tiểu đoàn Lê dương Ngoại quốc số 5 bị thiệt hại rất nặng nề, mất đến 2/3 quân số của mình. Họ chỉ phần nào phá được vòng vây. Nhiều binh sĩ Lê dương bị giết, bị thương hoặc là bị tóm lấy làm tù binh.[21]

Sau khi thua to trận này, vào ngày 19 tháng 10 năm 1870, tàn binh của Tiểu đoàn Lê dương Ngoại quốc số 5 được hợp nhất với hai Tiểu đoàn Lê dương Ngoại quốc "Algérie" tại Pierrefitte. Các đơn vị hợp lại thành một Trung đoàn Lê dương Ngoại quốc Trách nhiệm (RMLE, Régiment de marche de la Légion étrangère). Họ sáp nhập vào Đạo quân Loire, bao gồm 6 vạn binh sĩ dưới quyền Tướng d'Aurelle de Paladines, và tập kết ở trại binh tại Salbris. Vào ngày 9 tháng 11 năm 1870, tại một địa điểm tên là Coulmiers, cách thành phố Orléans, họ đánh thắng quân Phổ do Tướng Von Der Thann chỉ huy và tái chiếm Orléans. Giờ đây, họ mưu đồ kéo quân về cứu trợ cho Paris đang bị bao vây. (dưới đây sẽ nói đến cuộc vây hãm Paris) Hai đạo quân được thiết lập, do Tướng Chanzy chỉ huy tại dòng sông Loire ở hướng Nam và Tướng Fairdebes ở hướng Bắc kéo rốc về Paris. Tuy nhiên, do sự chỉ huy kém cỏi, thiếu hợp tác giữa quân sĩ, thiếu chuẩn bị và thời tiết xấu (Mùa Đông năm 1870 - 1871 đặc biệt là rất lạnh), người Pháp đã thất bại trong ý đồ cứu thoái thủ đô. Vào ngày 2 tháng 11 năm 1870, tại Loigny, quân Phổ đập cho họ tan tác. Đạo binh Loire bi đát phải tháo chạy về Orléans, và Trung đoàn RMLE được lệnh yểm trợ cho cuộc triệt inh cho họ. Vào ngày 4 tháng 12 năm 1870, tại Certotess-Chevilly, quân Lê dương tiến công bằng lưỡi lê mà đánh bật được một Trung đoàn Bayern, khiến cho Tướng d'Aurelle de Paladine có thêm thời gian quý giá. Tuy nhiên, cuộc giao tranh kịch liệt này cũng chả thể thay đổi hẳn hòi được tình thế.[21]

Vào ngày 17 tháng 12 năm 1870, nếu ban đầu cuộc chiến Binh đoàn Lê dương Pháp có đến 3600 người, chỉ còn có 1 nghìn người còn sống sót. Phần còn lại đều đã bị quân Đức tiêu diệt, làm tàn phế, đau ốm, bắt làm tù binh, hoặc là bị mất tích, không thể tham chiến được nữa. Lập tức, Binh đoàn Lê dương được chi viện bởi 2 nghìn quân Bộ binh tình nguyện từ Bretagne. Vào ngày 7 tháng 1 năm 1871, một Trung đoàn Lê dương "Ngoại quốc" (trong đó chỉ có 1/3 lính là người ngoại quốc) được chở trên xe lửa từ Vierzon tới Montbéliard gần Besançon ở dãy núi Jura, gần sát biên giới Thụy Sĩ, để gia nhập Đạo quân phía Đông của Tướng Bourbaki. Cuộc hành trình này lâu dài và vất vả, trong đó các binh lính Lê dương mang theo chút ít thức ăn, tiện nghi thì không thuận lợi và lạnh giá khủng khiếp. Tình hình dân chúng Pháp thì đã hoảng loạn rồi, mà Binh đoàn Lê dương cũng hoàn toàn hỗn loạn và nhốn nháo.[21]

Trung đoàn Ngoại quốc/Bretagne này được sáp nhập vào Trung đoàn Bộ binh số 39 (Régiment de ligne) như một phần của đạo quân dưới quyền Bourbaki (bao gồm 85 nghìn binh sĩ), và được triển khai tại đồi Sainte-Suzanne, nằm ở hướng Tây Montbéliard. Quân Lê dương bất chấp gió lớn, bão tuyết và làn đạn khốc liệt của quân Đức, đã đánh chiếm được cái đồi đòng băng này. Tướng Peytavin phải khâm phục và tuyên bố: "Chính Trung đoàn Ngoại quốc đã hoàn tất trách nhiệm của cả Sư đoàn". Tuy nhiên, chiến thắng này chỉ là nhất thời và vô nghĩa mà thôi. Các chiến sĩ Phổ giữ vững được phòng tuyến và họ thừa thế phản công. Quân của Bourbaki, vốn kém vũ trang và chỉ đạo, bị đánh bại tan tác, và phải tháo chạy qua biên giới mà tới nước Thụy Sĩ trung lập, ở nơi đây họ bị giải ngũ một cách kém vinh quang vào ngày 1 tháng 2 năm 1871. Trận thua tại đồi Sainte-Suzanne là trận đánh cuối cùng của Binh đoàn Lê dương Pháp. Do thiếu lương thực và tiếp tế, Trung đoàn Bộ binh số 39 cùng với Trung đoàn Lê dương Ngoại quốc, trong hoảng loạn trầm trọng, phải tháo chạy về thành phố Besançon.[21]

Khi chiến tranh nổ ra, đại bộ phận dư luận châu Âu ủng hộ người Đức. Ví dụ như rất nhiều người Ý định đăng ký tình nguyện chiến đấu cho Đức tại sứ quán Phổ ở Florence, và một nhà ngoại giao Phổ tới gặp mặt Giuseppe Garibaldi ở Caprera. Tuy nhiên đòi hỏi của Bismarck về vùng Alsace làm dư luận Ý thay đổi đột ngột, mà ví dụ cụ thể nhất là phản ứng của Garibaldi ngay sau khi cuộc cách mạng nổ ra ở Paris: ông nói với tờ Movimento tại Genoa ngày 7 tháng 9 năm 1870 là "Hôm trước tôi tuyên bố: đánh lại Bonaparte tới hơi thở cuối cùng. Hôm nay tôi nói: bằng mọi cách phải cứu nguy cho nền Cộng hòa Pháp"[117]. Tiếp đó, Garibaldi đến Tours, thủ đô tạm thời của nước Pháp khi Paris đang bị vây hãm, và nắm quyền chỉ huy Đạo quân Vosges, một đạo quân bao gồm quân tình nguyện. Báo chí cấp tiến Pháp (nhất là Le Siècle) tôn vinh Garibaldi là vị anh hùng giải phóng của nhân dân bị áp bức, và coi ông là công dân thế giới chứ không phải chỉ mỗi nước Ý. Chiến dịch của Garibaldi tại miền Đông Pháp đã thất bại. Dù con ông là Ricciotti giành chiến thắng nhỏ nhoi trước quân Đức tại Châtillon-sur-Seine, nhưng Garibaldi khi gửi một đạo quân đến giúp thị dân Dijon chống lại cuộc chiếm đóng của quân Đức thì dân chúng Dijon đã đầu hàng, khiến cho quân ông phải thoái lui.[118] Garibaldi cũng liên tiếp không thành trong việc cướp lại Dijon từ tay quân Đức. Chỉ vào cuối tháng 12 năm 1870, khi người Đức rời bỏ Dijon thì Garibaldi mới bắt đầu kéo quân về đó.[119]

Trong ngày 21 tháng 1 năm 1871, Tướng Đức là Von Kettler, với 4 nghìn chiến sĩ và 12 khẩu đại pháo trong đội quân của Tướng Edwin von Manteuffel, đã phản công mãnh liệt vào Dijon, ông nhử cho cả đội quân của Garibaldi đều triển khai trong khi quân chính quy Đức thì hành binh về hướng Đông thành phố này, đến sông Saône và sông Daubs. Garibaldi kết hợp với lực lượng vũ trang địa phương của Pháp thì có đến 5 vạn binh sĩ, nhưng chỉ một số ít binh lính trong số đó được vũ trang và có thể chiến đấu, không những thế Garibaldi bị bệnh gút nên phải ngồi trên xe ngựa mà chỉ huy. Quân của Garibaldi kháng cự dữ dội, do đó Von Kettler phải lui quân. Hai ngày hôm sau, ông lại tổ chức tiến công nhưng cũng không thành công. Thấy một mớ thi hài liệt sĩ Đức tại đó, Garibaldi lấy một quân kỳ của quân Đức và gửi chiến lợi phẩm này về Bordeaux. Tuy nhiên, các chiến sĩ Đức của Manteuffel đã kéo được đến sông Doubs. Do đó, kế hoạch của ông đã thắng lợi, làm thất bại việc chặn đứng của Garibaldi đối với cuộc tiến công của ông.[120] Và rồi, vào ngày 31 tháng 1 năm 1871, quân Đức tiếp tục tổ chức công kích Dijon. Garibaldi thất bại và đêm ngày hôm ấy ông cho rút quân, và bản thân ông cũng lập doanh trại khác tại Chagny. Quân Đức thừa thắng đoạt lấy Dijon vào sáng ngày 1 tháng 2 năm 1871.[118] Garibaldi cũng hoàn toàn từ bỏ Dijon khi thỏa ước giữa hai phe được ký kết.[119]

Trong suốt năm tháng chiến tranh sau đại bại của quân Pháp tại Sedan, miền Đông nước Pháp bị tàn phá rất nặng nề.[37]

Cuộc vây hãm Paris

Bài chi tiết: Cuộc vây hãm Paris

Gambetta dùng khinh khí cầu bay đến miền Đông Nam nước Pháp, họa phẩm của Jules Didier và Jacques Guiaud.

Cuộc vây hãm Paris (19 tháng 9 năm 1870 – 28 tháng 1 năm 1871) dẫn tới thất bại cuối cùng của Quân đội Pháp trong cuộc chiến tranh Pháp-Phổ.[36] Bất chấp những nỗ lực anh dũng của Chính phủ Vệ quốc Pháp mà đứng đầu là Thiers và Gambetta, quân Đức trên đà thắng lợi đã phát động cuộc công kích này.[36] Song, dân chúng Pháp khi ấy vẫn còn cả tin vào cái huyền thoại trận Valmy hồi năm 1792 nên cho rằng một nỗ lực toàn dân sẽ cứu vãn nước Pháp, đẩy lùi quân Đức khỏi thủ đô Paris. Từ ngày 19 tháng 9 năm 1870, Đệ Tam Đại quân của Phổ và Đạo quân sông Meuse đã tiến đến cổng thành Paris. Tướng Jules Trochu tổ chức phòng vệ, với quân số đông đảo.[43]

Lúc bấy giờ Tướng Hoa Kỳ Philip Sheridan - trở nên nổi tiếng với Chiến dịch Thung lũng Shenendoah vào năm 1864 trong cuộc Nội chiến Hoa Kỳ, đến làm quan sát viên của lực lượng Quân đội Phổ. Vốn đã khét tiếng với chiến tranh "tiêu thổ" của mình, ông khuyên Thủ tướng Bismarck nên thực hiện lối đánh này nhằm tận diệt quân Pháp. Tuy nhiên, Moltke phản đối kịch liệt. Vào ngày 7 tháng 10 năm 1870, dù chiến sự vẫn chưa chấm dứt, ông bình tĩnh tuyên bố rằng cuộc chiến thực sự đã kết thúc, và do đó ông không cần phải tiến hành một chiến dịch nào lớn hơn. Thực chất, ông chỉ muốn cho hai đạo quân Đức đánh vào thành phố, rồi chỉ cắt tiếp tế lương thực để cho thị dân Paris chóng đói, xin hàng. Vào ngày 23 tháng 9 năm 1871, Paris hoàn toàn bị vây hãm. Lúc bấy giờ, người Pháp chỉ còn có cách là dùng khinh khí cầu.[43] Vào ngày 5 tháng 10 năm ấy, Bismarck và Bộ Tổng Tham mưu dời về cung điện Versailles.[121] Trong khi ấy, vào ngày 7 tháng 10 năm 1870 Gambetta dùng khinh khí cầu bay gần đến nước Bỉ, và tới được miền Đông Nam nước Pháp để tìm kiếm lương thực. Trong suốt ba tháng 11, 12 và 1, Gambetta có những ba lần tìm cách phá vòng vây. Tất cả các đợt chống trả này đều bị quân Đức đánh tan tác.[43]

Đối đầu với cuộc phong tỏa Paris của quân Đức, tân chính phủ Pháp hạ lệnh thành lập mấy đạo quân lớn tại các tỉnh của Pháp. Các đoàn quân này sau đó sẽ tiến về Paris và tấn công quân Đức đồng loạt từ nhiều hướng. Thêm vào đó, dân chúng Pháp cũng vũ trang và thành lập các đội du kích, gọi là - Francs-tireurs - để tấn công đường tiếp tế của quân Đức. Do đó, người Đức cần phải có thêm 25 vạn binh sĩ nữa. Gambetta lúc bấy giờ vẫn còn hy vọng do Bazaine tuy thất thế tại Metz nhưng vẫn còn kìm chân được quân Đức.[43] Những biến chuyển đó khiến cho công luận Đức lên tiếng đòi pháo kích Paris. Tướng Leonhard Graf von Blumenthal, người chỉ huy cuộc vây hãm, không đồng ý cho pháo kích vì lý do nhân đạo. Ông nhận được sự ủng hộ từ một số chỉ huy cao cấp khác như Thái tử Phổ và tướng Moltke. Những vị này đều có vợ là người Anh, nên họ bị coi là chịu sự chi phối của tư tưởng tự do Anh. Song, chiến bại tại Metz và sự đầu hàng của Bazaine đã làm tiêu tan hy vọng của Gambetta. Giờ đây, ông ta chỉ còn cách đạo luyện các đạo quân Pháp ở các tỉnh miền Nam. Do nghĩ rằng Paris sẽ khó thể cầm cự được nữa, Gambetta liền tung luôn các đội quân này vào trận địa. Giao chiến kịch liệt từ ngày 2 cho đến ngày 4 tháng 12 năm 1870, quân Đức chiến thắng, Gambetta rút về Bordeaux. Trong khi ấy, thị dân Paris vừa đói khát, lạnh lẽo mà còn hứng chịu bệnh dịch, đến mức nghiêm trọng.[43]

Quân Pháp trong trận thua ở Le Mans. Những người lính Đức thuộc Trung đoàn Bộ Binh số 17 của Westfalen, trong trận thắng tại Le Mans.

Vào ngày 12 tháng 1 năm 1871, đạo quân Pháp của Tướng Anthoine Chanzy bị quân Phổ đập cho tơi tả trong trận Le Mans. Quân đội Phổ tóm gọn được đến 1 vạn tù binh Pháp, trong khi đạo quân của Chanzy bị tiêu diệt hoàn toàn. Chiến bại bi đát này đã xoá tan mọi cơ hội giải nguy Paris cho Pháp. Jules Favre bắt đầu nhận thấy Paris khó thể đứng vững, và, bắt đầu nêu ra tư tưởng đầu hàng, gây mất lòng nhiều người.[44] Sau chiến bại nặng nề tại Le Mans, Chanzy kể rằng có đến 7 vạn binh lính Pháp đã đào ngũ - tương đương với quân số của đoàn quân Phổ đại thắng trận Le Mans. Quân Pháp đã suy sụp trước sứ mạnh uy chấn của các đoàn quân Đức của Von Moltke.[45] Trong khi ấy, dân chúng Paris chịu xiết bao nhiêu là đau khổ trong cuộc vây hãm của quân Đức.[36] Vào ngày 18 tháng 1 năm 1871, giữa lúc dân tộc Đức đã cầm chắc chiến thắng trong tay,[122] Đế quốc Đức được tuyên bố thành lập tại cung điện Versailles.[25] Đây là một sự kiện có tầm quan trọng quyết định cho tương lai[36]. Vốn việc đàm phán giữa nước Phổ và các quốc gia miền Nam Đức đã diễn ra ngay sau chiến thắng vang dội tại Sedan[36], và các Hiệp định thừa nhận sự nhất thống của nước Đức đã được ký kết vào tháng 11 và tháng 12 năm trước; và khi đó, đại biểu của Reichstag miền Bắc Đức đã thỉnh tấu nhà vua nước Phổ chấp nhận nền Đế chế.[25] Với một nước Đức nhất thống, các xứ Bayern và Württemberg giữ được đặc quyền về quân đội (trong thời bình) và nhiều đặc quyền khác.[36] Các Vương công người Đức đều tham dự buổi lễ này.[22] Buổi lễ ấy là một sự lăng nhục rất lớn của nước Đức đối với kẻ thù của mình: khi xưa, nhà vua Louis XIV đã cho gầy dựng cung điện nguy nga này để nói lên sự thịnh vượng của Pháp thời đó. Do đó, lễ thiết lập Đế quốc Đức nói lên rằng Pháp đã bị Đức hạ gục, và giờ đây mở ra thời đại bá quyền của người Đức.[18][122] Nói như Hitler, nền "Đệ Nhị Đế chế Đức" đã được Đức hoàng Wilehlm II thành lập do chiến thắng của nước Phổ trong chiến tranh.[123] Đây là một nỗi nhục ghê gớm của nước Pháp thất trận.[23] Trong khi Wilhelm I lên ngôi Hoàng đế của một nước Đức thống nhất giữa những lời tung hô "Hoàng đế Bệ hạ Wilhelm I vạn tuế", đây chính là thắng lợi vĩ đại nhất của Bismarck.[49] Tại buổi lễ thiết lập Đế quốc Đức có sự tham gia của viên Sĩ quan Paul von Hindenburg - vốn đã chiến đấu xuất sắc trong cuộc Chiến tranh Áo - Phổ và sau này sẽ còn là một trong những vị Thống chế xuất sắc của Quân đội Đế quốc Đức.[124]

Đến đây, vị Thủ tướng đại tài Otto von Bismarck, sau một loạt cuộc chinh chiến của nền quân phiệt Phổ, đã đạt được chiến quả hiển hách là nhất thống được cả dân tộc Đức sau hàng thế kỷ bị chia cắt.[21] Riêng vua xứ Bayern là Ludwig II thì im hơi lặng tiếng với sự nhất thống nước Đức. Ngay cả nhà vua Wilhelm I ban đầu cũng coi Vương hiệu "Quốc vương nước Phổ" trang trọng hơn Đế hiệu, tuy nhiên sau ông đã đổi ý.[36] Theo tính toán của Bismarck trước lễ đăng ngôi, Wilhelm I sẽ là "Hoàng đế của người Đức" chứ không phải là "Hoàng đế nước Đức", để nước Phổ dễ bề thôn tính hoàn toàn các quốc gia khác của người Đức. Trong lễ đăng quang, vị tân Hoàng đế Wilhelm I có lời hiệu triệu đáng nhớ: "Chúng ta chấp nhận chính thể Đế quốc, hy vọng rằng nhân dân Đức sẽ được lãnh phần thưởng cho cuộc chiến đấu đầy nhiệt huyết và không ngừng nghỉ của mình trong một nền thái bình lâu dài"...[25] Thủ tướng Bismarck cũng viết thư thỉnh cầu vua Ludwig II xứ Bayern thừa nhận ngôi Hoàng đế của Wilhelm I, và Ludwig II đã chấp nhận. Đổi lại, có lẽ Bismarck phải "cống" cho Ludwig II một khoản tiền lớn để nhà vua sửa sang nền tài chính của Vương quốc.[36] Ngoài ra, Thủ tướng Bismarck cũng cương quyết tổ chức cuộc hành binh xuống điện Élysées tại thủ đô Paris nhằm công kích, lăng nhục kẻ thù bại trận.[23] Sau khi Đế quốc Đức ra đời, người Đức vốn đã chiến thắng không phải chiến đấu thêm gì nhiều nữa. Họ để yên cho quân đội Chính phủ Pháp đàn áp phong trào Công xã Paris.[36]

Ngừng chiến

Vào ngày 26 tháng 1 năm 1871, trước đà thắng lợi của Quân đội Đức, thành phố Paris tiến hành đàm phán. Sự cắt tiếp tế lương thực Paris của quân Đức đã mang lại chiến quả cho họ.[43] Sự đàm phán ban đầu này đã khiến cho 3 vạn chiến sĩ Đức được dự định là sẽ chiếm đóng Paris trên danh nghĩa, rút binh[25]. Ngày 28 tháng 1 năm 1871, Chính phủ Vệ quốc tại Paris đàm phán ngưng bắn với nước Phổ. Paris thất thủ, nước Pháp đã đầu hàng Đế quốc Đức[21]. Sau chiến thắng lừng lẫy, Đức hoàng Wilhelm I giao cho Bismarck đại quyền để tiến hành đàm phán với Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Pháp Jules Favre, mà không có sự can thiệp nào từ giới quân sự.[125] Thực chất Moltke có ý định triệt tiêu hoàn toàn sức mạnh của Pháp và hoãn lại việc thiết lập hòa bình, nhưng Bismarck đã thắng thế.[28] Với tình hình lương thực cạn kiệt tại Paris, và các đạo quân địa phương của Gambetta thua hết trận này đến trận khác, Jules Favre đến Versailles ngày 24 tháng 1 để đàm phán hòa bình với Bismarck.

Bismarck đồng ý chấm dứt cuộc phong tỏa và cho phép các đoàn xe chở lương thực tiến vào Paris ngay tức khắc (bao gồm cả các chuyến xe chở hàng triệu khẩu phần quân đội Phổ), với điều kiện là Chính phủ Vệ quốc giao nộp các pháo đài trọng yếu ở ngoại vi Paris cho quân Phổ. Không có các pháo đài này, Quân đội Pháp không thể tiếp tục phòng giữ Paris. Mặc dù dư luận Paris chống lại mạnh mẽ bất kỳ một sự đầu hàng hay thỏa hiệp nào với quân Phổ, Chính phủ Pháp nhận thấy là họ không thể tiếp tục cầm cự lâu hơn nữa, và các đạo quân địa phương của Gambetta có lẽ sẽ không bao giờ có thể phá vây được cho Paris. Tổng thống Jules Trochu từ chức ngày 25 tháng 1 và được thay thế bởi Jules Favre, người ký kết biên bản đầu hàng hai ngày sau tại Versailles, với lệnh ngưng bắn đi vào hiệu lực nửa đêm hôm đó. Một số nguồn kể lại trên chuyến xe chở ông về Paris, Favre òa lên khóc và đổ vào vòng tay con gái mình khi tiến súng quanh Paris trở nên câm lặng vào lúc nửa đêm.

Tại Tours, Gambetta nhận được tin từ Paris ngày 30 tháng 1 rằng Chính phủ đã đầu hàng. Giận điên lên, ông từ chối đầu hàng và hạ lệnh ngay tức khắc tấn công vào các đơn vị quân Phổ tại Orléans, và dễ đoán được là cuộc tấn công thất bại. Một phái đoàn ngoại giao từ Paris đến Tours bằng tàu hỏa ngày 5 tháng 2 để đàm phán với Gambetta, rồi đến ngày hôm sau Gambetta từ bỏ chức vụ và quyền chỉ huy các đạo quân địa phương cho Chính phủ Vệ quốc, để rồi Chính phủ nhanh chóng ban bố lệnh ngưng bắn trên toàn nước Pháp.

Giờ đây Pháp đã chiến bại và đầu hàng, và nước Đức phải đặt ra khoản chiến phí mà kẻ địch phải bồi thường cho mình. Thoạt đầu, vào ngày 8 tháng 2 năm 1871, Bộ Ngoại giao Phổ đề nghị Pháp phải nộp 1 tỷ thaler (tương đương với 3 tỷ quan Pháp) làm chiến phí, trong đó 95% chiến phí này được dùng để ban thưởng cho các chiến sĩ có công trong lực lượng Quân đội Đức.[49] Trong ngày hôm ấy, lực lượng Quân đội Đức trên đà chiến thắng đã chiếm lĩnh hầu hết nước Pháp.[43] Hiệp định Frankfurt được ký ngày 10 tháng 5, đánh dấu sự kết thúc chiến tranh Pháp-Phổ. Nếu như Thủ tướng Bismarck hoàn toàn đặt ra điều khoản thì Pháp sẽ chịu nhiều điều khoản đau đớn nhưng không phải ô nhục, tổn thương đến lòng tự hào dân tộc của mình, cũng giống như nước Áo thất trận hồi năm 1866. Ông chỉ cần sáp nhập vùng Alsace và bắt Pháp đóng một khoản chiến phí thôi là đủ. Tuy nhiên, trong lần này ông đã phải nghe theo toàn quân Đức,[25] và nước Đức áp đặt nhiều điều khoản khắt khe lên kẻ thù chiến bại của mình. Theo Hiệp định đó, không những Pháp bị mất hai vùng Alsace và Lorraine giàu tài nguyên mà còn phải nộp 5 tỷ quan chiến phí.[18] Vốn tỉnh Alsace để bị Pháp lấy từ tay Đế quốc La Mã Thần thánh (cũ) theo Hòa ước Westfalen hồi năm 1648, và tỉnh Lorraine cũng đã bị Pháp lấy đi hồi năm 1766, nước Đức đã "giành lại được" hai tỉnh ấy.[23] Do đó, trong các điều khoản của Hòa ước thì sự cắt hai tỉnh Alsace và Lorraine của Pháp là quan trọng hơn cả.[36] Bộ máy cai trị Phổ được đặt ra ngay tại hai tỉnh ấy, chứ Triều đình Đức không hề tham khảo ý kiến của dân chúng tỉnh này.[28]