Nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự là gì

Đây là một nguyên tắc hiến định và được ghi nhận cụ thể tại khoản 1 Điều 3 BLDS 2015: “Mọi cá nhân, pháp nhân đều bình đẳng, không được lấy bất kỳ lý do nào để phân biệt đối xử; được pháp luật bảo hộ như nhau về các quyền nhân thân và tài sản.” Sự bình đẳng trong quan hệ dân sự thể hiện:

  • Sự bình đẳng giữa các chủ thể, mọi cá nhân, pháp nhân đều bình đẳng, nghĩa là, mọi cá nhân đều có năng lực pháp luật dân sự như nhau, mọi pháp nhân đều có năng lực pháp luật dân sự phù hợp với mục đích hoạt động của mình. Nguyên tắc này được áp dụng đối với mọi chủ thể của quan hệ dân sự, kể cả giữa cơ quan nhà nước với các cá nhân trong quan hệ dân sự.

  • Sự ngang bằng về dân tộc, giới tính, thành phần xã hội, hoàn cảnh kinh tế, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn hóa, nghề nghiệp của các chủ thể. Các chủ thể không được lấy lý do khác biệt về các yếu tố này để đối xử bất bình đẳng với nhau. Không một chủ thể nào có đặc quyền, đặc lợi so với các chủ thể khác trong quan hệ dân sự. Pháp luật nghiêm cấm các hành vi mang tính quyền lực của một bên đối với bên kia trong giao dịch dân sự.

  • Sự bảo hộ của pháp luật, mọi cá nhân và pháp nhân đều được pháp luật bảo hộ như nhau về các quyền nhân thân và quyền về tài sản.

Tuy nhiên, bình đẳng không có nghĩa là cào bằng, ngang bằng. Trong một số trường hợp, do ý nghĩa xã hội của vấn đề mà BLDS quy định những lợi thế, những ưu tiên nhất định cho đối tượng tham gia quan hệ dân sự. Ví dụ: Trường hợp hợp đồng theo mẫu có điều khoản không rõ ràng thì bên đưa ra hợp đồng theo mẫu phải chịu bất lợi khi giải thích điều khoản đó - khoản 2 Điều 405 BLDS 2015.

Nguyên tắc bình đẳng trong quan hệ dân sự là nguyên tắc có ý nghĩa rất quan trọng của pháp luật dân sự. Đây là một nguyên tắc cơ bản áp dụng trong các quan hệ pháp luật dân sự nói chung và trong từng chế định, quy phạm của pháp luật dân sự. Đây cũng là nguyên tắc tiền đề để được cụ thể hóa trong các luật chuyên ngành như: Nhà nước bảo đảm quyền bình đẳng của các doanh nghiệp trước pháp luật không phân biệt hình thức sở hữu và thành phần kinh tế (Điều 5 Luật doanh nghiệp năm 2014), nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật của thương nhân trong hoạt động thương mại (Điều 10 Luật thương mại năm 2005)...

Nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự là gì

2/ Nguyên tắc tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận

Nguyên tắc tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận được ghi nhận tại khoản 2 Điều 3 BLDS 2015, là nguyên tắc quan trọng bao trùm lên toàn bộ quan hệ dân sự, nguyên tắc này có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc điều chỉnh các quan hệ dân sự, những quan hệ mang tính chất cá nhân. Nguyên tắc này được đưa lên là nguyên tắc đầu tiên trong các nguyên tắc cơ bản của luật dân sự có ý nghĩa nhấn mạnh việc áp dụng nguyên tắc này trong các giao dịch dân sự của đời sống xã hội, vì phần lớn các quan hệ trong đời sống dân sự được thực hiện thông qua hình thức cam kết, thỏa thuận.

Nguyên tắc tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận có nội dung cơ bản là: “Cá nhân, pháp nhân xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của mình trên cơ sở tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận. Mọi cam kết, thỏa thuận không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội có hiệu lực thực hiện đối với các bên và phải được chủ thể khác tôn trọng.”. Theo đó, các chủ thể hoàn toàn tự quyết định có thể tham gia hay không tham gia các giao dịch dân sự, chủ thể khác không được áp đặt, cấm đoán, cưỡng ép, đe dọa hay ngăn cản; có quyền thỏa thuận và lựa chọn nội dung và hình thức của cam kết, trừ những nội dung pháp luật bắt buộc các bên phải tuân thủ khi xác lập giao kết; có quyền thay đổi, tạm đình chỉ hay hủy bỏ việc thực hiện cam kết, thỏa thuận xuất phát từ lợi ích của mình và phù hợp với lợi ích của đối tác và người thứ ba; có quyền hòa giải, tự giải quyết các tranh chấp hoặc yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền bảo vệ quyền lợi của mình khi bị xâm phạm.

Tuy nhiên, để đảm bảo an toàn pháp lý và tạo môi trường lành mạnh và ổ định cho sự phát triển kinh tế - xã hội, sự tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận của các chủ thể được pháp luật bảo đảm, nếu cam kết, thỏa thuận đó không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội. Nguyên tắc này còn ghi nhận mọi cam kết, thỏa thuận không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội có hiệu lực thực hiện đối với các bên và phải được chủ thể khác tôn trọng. Nghĩa là, sự tự do, cam kết, thỏa thuận không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội của các bên trong các giao dịch dân sự có hiệu lực bắt buộc thực hiện đối với các bên, trong trường hợp các bên có thỏa thuận thì phải tuân theo, chỉ khi các bên không thỏa thuận hoặc không thỏa thuận được với nhau thì tuân theo quy định của pháp luật. Ngoài ra, sự tự do cam kết, thỏa thuận của các bên còn được pháp luật bảo hộ, nghĩa là những cam kết, thỏa thuận đó phải được cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác tôn trọng. 

Trường hợp có vi phạm nguyên tắc này, thì giao dịch dân sự mà các bên tham gia sẽ bị coi là vô hiệu, song sự vô hiệu đó chỉ là tương đối, nghĩa là hiệu lực giao dịch đó phụ thuộc vào sự lựa chọn và tự do ý chí của các bên có thể thay đổi cam kết, thỏa thuận đó hay không.

(tiếp theo)

Quan hệ dân sự được Bộ Luật dân sự 2015 điều chỉnh quy định rõ các chuẩn mực pháp lý cũng như các cách ứng xử của cá nhân, pháp nhân. Các mối quan hệ được hình thành trên cơ sở bình đẳng, tự do ý chí, độc lập về tài sản và tự chịu trách nhiệm, được pháp luật dân sự bảo vệ trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản và đặc trưng của pháp luật dân sự. Vậy các nguyên tắc cơ bản, đặc trưng của pháp luật dân sự được quy định như thế nào? Bài viết dưới đây của Luật Dương Gia sẽ đi vào tìm hiểu các vấn đề liên quan để giúp người đọc hiểu rõ hơn về vấn đề này.

Nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự là gì

Luật sư tư vấn pháp luật miễn phí qua điện thoại 24/7: 1900.6568

1. Mọi cá nhân, pháp nhân đều bình đẳng, không được lấy bất kỳ lý do nào để phân biệt đối xử; được pháp luật bảo hộ như nhau về các quyền nhân thân và tài sản

So với Điều 5 BLDS năm 2005 thì khoản 1 Điều 3 trên đây bảo đảm chặt chẽ về kỹ thuật lập pháp, đầy đủ về nổi dụng của yếu tố bình đẳng trong quan hệ dân sự Quy định tại khoản 1 Điều 3 dã cụ thể hóa các quy định Hiến pháp năm 2013 về các quyền cơ bản của công dân, gồm: quyền tự do, bình đẳng về nhân thân và tài sản của cá nhân và một cơ chế bảo hộ như nhau không có sự phân biệt đối xử.

Binh đẳng là khái niệm chính trị – pháp lý, đây là yếu tố cơ bản của nền dân chủ trong chế độ nhà nước pháp quyền được ghi nhận trong Hiến pháp đạo luật cơ bản của nhà nước ta cùng nhiều đạo luật khác, rộng hơn là các chủ thể đều bình đẳng trước pháp luật. Trong quan hệ dân sự, bản chất là bình đẳng về quyền lợi, nghĩa vụ và trách nhiệm trong xác lập, thực hiện quan hệ dân sự. Bình đẳng và không phân biệt đối xử có ý nghĩa quan trọng nhằm bảo đảm công bằng xã hội, hạn chế đặc quyền, đặc lợi hoặc cạnh tranh không lành mạnh khi lợi dụng sự yếu thế về kinh tế. Quan hệ dân sự không bảo đảm yếu tố bình đẳng có thể bị coi là vô hiệu

2. Nguyên tắc tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận

Theo truyền thống, tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận là tiêu chí quan trọng để các chủ thể của quan hệ dân sự xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của mình. Tự do ý chí trong việc lựa chọn hướng xác lập quan hệ dân sự cụ thể và tự nguyện, không bị đe dọa, cưỡng ép trong xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự là yêu cầu cơ bản đối với mọi quan hệ dân sự. Vi phạm quy định trên đây, quan hệ dân sự cụ thể đó có thể bị coi là vô hiệu.

Tính chất điều chỉnh của pháp luật dân sự hoàn toàn khác với tính chất điều chính của luật hình sự và một số ngành luật khác. Khi quy định cơ sở của trách nhiệm hình sự Điều 2 Bộ luật hình sự năm 2015 vẫn tiếp tục quy định: “Chỉ người nào phạm một tội đã được Bộ luật hình sự quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự” và khoản 1 Điều 8 quy định: “Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự…”. Như vậy, trong thực tế có thể có những hành vi “nguy hiểm” nhưng nếu Bộ luật hình sự không quy định đó là tội phạm vì chưa gây nguy hiểm cho xã hội thì người thực hiện hành vi đó cũng không phải chịu trách nhiệm hình sự. Chức năng cơ bản của hình phạt trong trách nhiệm hình sự chủ yếu nhằm mục đích: trừng trị, giáo dục người phạm tội và răn đe, phòng ngừa tội phạm, được quy định trước trong Bộ luật hình sự. Trong pháp luật hình sự không có sự “thỏa thuận” về trách nhiệm pháp lý như trong trách nhiệm dân sự. Tính chất bình đẳng trong pháp luật hình sự hoàn toàn khác tính chất bình đẳng trong pháp luật dân sự: các bị cáo chỉ bình đẳng trước pháp luật tại Tòa án và được xét xử công bằng.

Còn trong pháp luật dân sự, các chủ thể có quyền tùy nghị thỏa thuận dù chưa được pháp luật dân sự quy định, nhưng “mọi cam kết, thỏa thuận không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội có hiệu lực thực hiện đối với các bên và phải được chủ thể khác tôn trọng”. Vì vậy, mặc dù BLDS năm 2015 không có quy định, không dự liệu… nhưng các chủ thể trong quan hệ pháp luật dân sự vẫn có thể thỏa thuận với nhau và vẫn có sự ràng buộc pháp lý. Sự ràng buộc này vẫn được pháp luật dân sự công nhận; quyền và nghĩa vụ của các bên vẫn được pháp luật bảo đảm thực hiện.

3. Nguyên tắc xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của mình một cách thiện chí, trung thực

Yêu cầu của pháp chế xã hội chủ nghĩa và truyền thống đạo đức là trong quan hệ xã hội hoặc trong quan hệ pháp luật phải thiện chí, trung thực; không gian dối và có thiện chí thực hiện đúng, thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ mà chủ thể đã cam kết. Một trong những yêu cầu của quan hệ dân sự là: các bên phải cùng nhau hợp tác, thiện chí, trung thực khi xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự. Các bên không chỉ chăm lo đến quyền, lợi ích hợp pháp của mình mà còn phải tôn trọng, quan tâm đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác. Trong quá trình xác lập, thực hiện quan hệ dân sự, các bên không được lừa dối, chây ỳ mà phải giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi cho nhau thực hiện quyền và nghĩa vụ dân sự, không bên nào được lừa dối bên nào. Do đặc trưng của giao lưu dân sự nên trước đây BLDS năm 1995 còn có quy định: các giao dịch dân sự đã xác lập luôn được suy đoán là thiện chí, trung thực. Vì vậy, nếu một bên cho rằng bên kia không trung thực, thiện chí thì phải đưa ra được chứng cứ, bằng chứng để chứng minh tính chất không trung thực, thiện chí đó. Hiện tại, Điều 6 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 vẫn quy định: việc cung cấp chứng cứ và chứng minh trong tố tung dân sự là quyền và nghĩa vụ của các đương sự. Nhưng nội dung này hiện không còn được ghi nhận trong BLDS năm 2015.

Thông thường, các quan hệ dân sự khi xác lập, thực hiện luôn được coi là thiện chỉ, trung thực. Truyền thống của pháp luật dân sự là phương thức suy đoán: mọi quan hệ dân sự được xác lập, thực hiện đều được coi là thiện chí, trung thực. Nếu một chủ thể cho rằng, trong quá trình xác lập, thực hiện quan hệ dân sự nhưng phía chủ thể bên kia đã không thiện chí, trung thực, thì họ phải có trách nhiệm chứng minh về tính không thiện chí, trung thực của chủ thể bên kia theo các quy định và nguyên tắc tố tụng dân sự. Nói cách khác, khi xác định yếu tố thiện chí, trung thực phải có chứng cứ để chứng minh. Dân gian đã có câu thành ngữ: “nhầm thua, vô ý mất tiền”.

4. Nguyên tắc không được xâm phạm đến lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác.

Nguyên tắc quan trọng này thể hiện giới hạn quyền hành xử của các cá nhân, pháp nhân khi xác lập, thực hiện quan hệ dân sự. Pháp luật dân sự tôn trọng quyền tự định đoạt theo tự do ý chí của chủ thể, nhưng không phải là không bị bắt kỳ một hạn chế nào. Để bảo vệ lợi ích của nhà nước, của dân tộc, lợi ích cộng đồng và lợi ích hợp pháp của người khác, khoản 4 Điều 3 BLDS năm 2015 đã quy định rõ giới hạn “không được xâm phạm”. Nghĩa là, trong quan hệ dân sự (bao gồm cả việc xác lập, thực hiện) vì lợi ích của một chủ thể mà làm ảnh hưởng hoặc xâm phạm đến “lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác” thì quan hệ dân sự đó không được pháp luật dân sự công nhận, bảo hộ.

Như vậy, việc xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của chủ thể trong quan hệ dân sự không phải luôn được thực hiện tùy nghỉ theo ý chí và mong muốn của chủ thể. Quá trình xác lập, thực hiện hoặc chấm dứt quan hệ dân sự phải chú ý giới hạn cấm không được xâm phạm và thực hiện theo sự hướng dẫn của quy phạm pháp luật dân sự thể hiện tại các điều luật tương ứng. Do các quan hệ dân sự phong phú, đa dạng nên pháp luật dân sự cho phép các chủ thể trong quá trình xác lập, thực hiện hoặc chấm dứt quan hệ dân sự có thể cam kết, thỏa thuận những nội dung mà BLDS không có quy định nhưng không được trái với các nguyên tắc cơ bản của BLDS; không làm thiệt hại hoặc ảnh hưởng đến lợi ích nhà nước, lợi ích công cộng hoặc quyền và lợi ích hợp pháp của người khác.

5. Cá nhân, pháp nhân phải tự chịu trách nhiệm về việc không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ dân sự

Trong pháp luật dân sự thì trách nhiệm tài sản là trách nhiệm của chủ thể này trước chủ thể khác khi có hành vi vi phạm nhằm khôi phục lại tình trạng ban đầu hoặc khắc phục những hậu quả xấu do hành vi vi phạm gây ra. Đặc trưng của trách nhiệm pháp lý trong luật dân sự tuy cũng là biện pháp cưỡng chế của Nhà nước nhưng bản chất pháp lý hoàn toàn khác và chỉ mang tính chất tài sản. Tự chịu trách nhiệm dân sự có thể được quy định trong pháp luật dân sự nhưng cũng có thể do các chủ thể thỏa thuận trong quá trình cam kết, thỏa thuận xác lập các giao dịch dân sự (chủ yếu là đối với các quan hệ về hợp đồng).

Tự chịu trách nhiệm dân sự là cơ sở pháp lý nhằm bảo đảm cho mọi quan hệ dân sự đã được các chủ thể xác lập luôn được thực hiện nghiêm minh trong một hành lang pháp lý an toàn. Khi có một bên trong giao dịch dân sự không thực hiện, thực hiện không đúng hoặc không đầy đủ các điều khoản mà chủ thể đó đã tự nguyện cam kết, thỏa thuận, thì họ phải tự chịu trách nhiệm dân sự trước bên có quyền bị vi phạm. Khi một chủ thể có hành vi tráu pháp luật xâm phạm đến các quyền tuyệt đối của một chủ khác thì chủ thể có hành vi gây thiệt hại trái pháp luật cũng phải chịu trách nhiệm bồi thường những thiệt hại vật chất, thiệt hại tinh thần do hành vi gây thiệt hại trái pháp luật của mình gây ra.

Trong các quan hệ dân sự mỗi chủ thể khi tham gia giao dịch dân sự cụ thể phải tự chịu trách nhiệm về các hành vi và hậu quả của hành vi đó. Nếu bên vi phạm không tự nguyện thực hiện thì có thể bị cưỡng chế thực hiện. Trong quan hệ dân sự thì trách nhiệm tài sản là trách nhiệm của chủ thể này trước chủ thể khác khi có hành vi vi phạm nhằm khôi phục lại tình trạng ban đầu hoặc khắc phục những hậu quả xấu do hành vi vi phạm gây ra. Đặc trưng của trách nhiệm pháp lý trong luật dân sự tuy cũng là biện pháp cưỡng chế của Nhà nước nhưng bản chất pháp lý hoàn toàn khác và nguyên tắc là chủ thể phải tự chịu trách nhiệm về cam kết, thỏa thuận xác lập quan hệ dân sự.