Nhà xuất bản sự nghiệp là gì

(TCTG)- Hiện nay, nếu nhìn từ tổng thể về đặc điểm và trạng thái phát triển của xuất bản Việt Nam, đặt trong yêu cầu mới của tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế, có thể dễ nhận thấy rằng, lĩnh vực xuất bản của chúng ta chưa đạt tới trình độ hiện đại và chuyên nghiệp.

Nhà xuất bản sự nghiệp là gì
Ảnh minh họa

So sánh với sự phát triển của xuất bản khu vực và thế giới, đó là một thách thức cực kỳ gay gắt đối với sự phát triển của xuất bản nước ta thời kỳ mới.

Trong nhiều nguyên nhân dẫn đến những thực trạng trên, có một nguyên nhân cơ bản, trực tiếp là từ những hạn chế và lạc hậu trong mô hình hoạt động xuất bản. Nhận thức hạn chế đó, Chỉ thị số 42 CT/TW ngày 25 tháng 8 năm 2004 của Ban Bí thư về Nâng cao chất lượng toàn diện của hoạt động xuất bản đã xác định “xây dựng các mô hình và cơ cấu mới phù hợp với sự phát triển của công nghiệp xuất bản hiện đại” là một trong 6 nhiệm vụ chủ yếu của toàn ngành xuất bản. Tuy nhiên, dù đã qua 5 năm triển khai Chỉ thị, quá trình cụ thể hoá nhiệm vụ này diễn ra vẫn chậm, gặp không ít khó khăn, lúng túng ngay từ trong nhận thức. Để tận dụng thời cơ, tháo gỡ vướng mắc, tạo điều kiện xuất bản phát triển nhanh, vững chắc và đúng định hướng, yêu cầu cấp bách và cả lâu dài là phải giải quyết cơ bản vấn đề này, trong đó giải quyết vấn đề mô hình nhà xuất bản (NXB) là giải pháp đột phá, có ý nghĩa quan trọng cho việc tiếp tục giải quyết những vấn đề tiếp theo. Bài viết này tiếp cận theo hướng đó, với mục tiêu là làm rõ được một số hạn chế, bất cập của mô hình NXB hiện nay để qua đó góp phần tìm kiếm các giải pháp nhằm xây dựng mô hình NXB phù hợp yêu cầu của nền xuất bản hiện đại.

Hiện nay, căn cứ vào cơ chế hoạt động, có thể phân NXB thành 2 loại mô hình (loại hình) là doanh nghiệp kinh doanh có điều kiện và đơn vị sự nghiệp có thu. Song trên thực tế, 60 NXB hiện nay được tổ chức hoạt động dưới nhiều mô hình khác nhau như:

- 22 NXB tổ chức hoạt động theo loaị hình doanh nghiệp, trong đó 8 NXB chuyển đổi sang Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên 100% vốn Nhà nước, 1 NXB hoạt động theo mô hình công ty mẹ - công ty con và 13 NXB là doanh nghiệp nhà nước hoạt động theo Luật Doanh nghiệp nhà nước

- 38 NXB tổ chức hoạt động theo loại hình sự nghiệp, trong đó 10 NXB tổ chức hoạt động theo loại hình sự nghiệp tự đảm bảo một phần chi phí, 28 NXB tổ chức hoạt động theo loại hình sự nghiệp tự trang trải 100% kinh phí.

Ngoài các mô hình phân theo cơ chế hoạt động như trên, trên thực tế, để tổ chức quản lý hoạt động xuất bản, các NXB có sự phân chia, phân cấp theo phạm vi hoạt động như khối NXB Trung ương, khối địa phương; theo chủ quản như khối thuộc bộ, cơ quan trực thuộc chính phủ, khối thuộc các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị-xã hội, tổ chức chính trị-xã hội-nghề nghiệp, khối thuộc các trường đại học, khối thuộc chính quyền địa phương; theo chức năng, nhiệm vụ như khối NXB chuyên ngành, NXB tổng hợp.

Nhìn vào kết quả thông kê trên, rất dễ nhận thấy rằng, sự phân chia về mô hình NXB của các NXB hiện nay là kết quả của một quá trình phát triển lâu dài, có tính lịch sử, mang nhiều đặc trưng của quản lý hành chính và kinh tế của thời kỳ kế hoạch hoá, tập trung bao cấp. Khi Việt Nam bước vào thời kỳ đẩy mạnh thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá, tăng cường hội nhập kinh tế quốc tế, mở rộng giao lưu văn hoá, tiến tới xây dựng một nền kinh tế tri thức, nhiều vấn đề mới, phức tạp trong mô hình tổ chức, quản lý NXB nảy sinh với những biểu hiện như sau:

Thứ nhất, sự phân cấp quản lý và cơ chế chủ quản đang bộc lộ những bất cập. Thực tiễn hiện nay, công tác quản lý của các đơn vị chủ quản đối với các NXB cho thấy nhiều hạn chế. Mặc dù Luật xuất bản 2004 qui định rất rõ nhiệm vụ của các cơ quan chủ quan (Điều 13) nhưng tình trạng một số cơ quan chủ quản buông lỏng quản lý vẫn tiếp tục diễn ra. Một số cơ quan chủ quan chưa nhận thức rõ sự nghiệp xuất bản là một lĩnh vực tư tưởng sắc bén của Đảng, chưa có chính sách, giải pháp để kết hợp phục vụ nhiệm vụ chính trị, tư tưởng với thực hiện tốt nhiệm vụ sản xuất, kinh doanh, chưa nhận thức và thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ theo quy định của pháp luật như tổ chức bộ máy tham mưu giúp việc. Rất ít cơ quan chủ quản ban hành được quy chế về mối quan hệ giữa cơ quan chủ quản và NXB vì vậy đã để xảy ra một số sai phạm.

Hoạt động thẩm định, xét duyệt kế hoạch xuất bản của cơ quan chủ quản đối với các NXB phần nhiều mang tính hình thức. Không ít cơ quan chủ quản coi NXB chỉ là một đơn vị kinh tế đơn thuần, làm kinh tế cho cơ quan, để mặc các NXB tự xoay sở, không cấp hoặc cấp không đủ vốn hay tạo điều kiện về trụ sở, trang thiết bị vật chất cho NXB…Ở một số NXB, trụ sở làm việc xuống cấp, trang thiết bị lạc hậu, thiếu thốn. 20 NXB không có trụ sở riêng phải đi thuê hoặc ở cùng địa điểm với cơ quan chủ quản, 18 NXB có trụ sở riêng nhưng cơ sở vật chất xuống cấp, có vướng mắc về thủ tục hoặc không đủ điều kiện để mở rộng và phát triển hoạt động của NXB theo hướng hiện đại và chuyên môn hoá.

Tổng số vốn của toàn ngành hiện có 434,837 tỷ đồng, trong đó vốn cố định: 233,564 tỷ đồng, vốn lưu động: 102,587 tỷ đồng, vốn tự bổ sung từ lợi nhuận: 30,058 tỷ đồng, vốn vay: 23,726 tỷ đồng, các nguồn vốn khác: 33,916 tỷ đồng. Thực trạng đó dẫn đến không ít trường hợp NXB mất quyền tự chủ bị đối tác liên doanh, liên kết chi phối, không kiểm soát được nội dung.

Thứ hai, sự phân chia mô hình NXB thành theo chức năng chuyên ngành và tổng hợp như hiện nay đã không còn phát huy hiệu quả ban đầu. Một vấn đề cần nhìn nhận nếu như sự hình thành, lựa chọn lĩnh vực xuất bản của các NXB chuyên ngành ở những nước này thường được diễn ra một cách tự nhiên, do sự sàng lọc và phân loại thị trường trong quá trình hoạt động thì ở ta, sự phân cấp và phân chia mô hình theo chức năng tổng hợp hay chuyên ngành của các NXB trước hết xuất phát từ yêu cầu quản lý. Xét từ góc độ lý luận, sự phân định này là hợp lý và lôgíc bởi các NXB sẽ có nhiều thuận lợi, đặc biệt là các điều kiện về nhân lực, kinh nghiệm và nguồn bản thảo trong lĩnh vực mình hoạt động và tất yếu hiệu quả hoạt động sẽ cao hơn. Song thực tế, trong thể chế kinh tế mới, trước những diễn biến nhanh và phức tạp của thị trường, sự phân định về chức năng, nhiệm vụ của mỗi đơn vị xuất bản đôi khi trở nên máy móc, thành rào cản, hạn chế khả năng đáp ứng thị trường và cùng với đó là phát sinh hiện tượng “xé rào” trong hoạt động xuất bản hoặc tạo điều kiện cho một số tư nhân, núp bóng liên doanh, liên kết nhưng thực chất là mua giấy phép xuất bản, tiến hành hành vi xuất bản, vi phạm luật xuất bản, gây khó khăn trong công tác chỉ đạo, quản lý, nhiều trường hợp làm rối loạn thị trường sách.

Cùng với đó, các cơ quan quản lý, qui hoạch ngành xuất bản cũng gặp khó khăn trong việc phân định chức năng, nhiệm vụ cho từng nhà xuất bởi phạm vi giao thoa giữa các nhà xuất bản rất lớn kéo theo đó là sự chậm chễ và yếu kém trong công tác qui hoạch ngành xuất bản. Tình trạng “lấn sân” trong hoạt động giữa các NXB trở nên khá phổ biến trong khi việc xử lý các vi phạm này thường chưa kịp thời cũng một phần bởi chính sự phân định chức năng, nhiệm vụ chưa rõ ràng đó.

Thứ ba, việc xác định loại hình của NXB không thống nhất dẫn đến cơ chế chính sách dành cho ngành xuất bản chưa được đồng bộ, hạn chế đến sự phát triển của từng NXB và của toàn ngành. Đối với các NXB là doanh nghiệp, có 2 vấn đề lớn về cơ chế tài chính, gây khó khăn cho NXB là vấn đề thuê đất và trích các quỹ khen thưởng, phúc lợi... Theo qui định của Luật Đất đai, các doanh nghiệp nhà nước chỉ được phép thuê đất, nói cách khác, cơ quan chủ quản không được phép cấp đất cho doanh nghiệp. Theo qui định của Thông tư 24/2007/TT-BTC hướng dẫn qui chế tài chính cho công ty TNHH 1 thành viên thuộc sở hữu nhà nước tỉ lệ trích quỹ khen thưởng và phúc lợi không quá 20% lợi nhuận trước thuế (so với qui định Thông tư 61/1999/TT-BTC cho DNNN tối đa là 3 tháng lương). Trong khi đó, hoạt động xuất bản là loại hình hoạt động đặc thù, có hiệu quả kinh tế không cao, tỉ suất lợi nhuận thấp. Lợi nhuận của toàn ngành năm 2009 chỉ đạt 52 tỉ đồng trong đó có gần 27 tỉ đồng thuộc về NXB Giáo dục, 59 NXB còn lại có lợi nhuận khoảng 25 tỉ đồng. Thêm khoản chi từ tiền thuê đất và việc giảm quỹ trích khen thưởng, phúc lợi khiến cho NXB là doanh nghiệp gặp rất nhiều khó khăn trong hoạt động sản xuất kinh doanh và khuyến khích động viên người lao động.

Đối với các đơn vị sự nghiệp có thu hoạt động theo qui định tại Nghị định 43/2006/NĐ-CP qui định về quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập. Mặc dù Nghị định đã mở rộng quyền tự chủ, tạo điều kiện cho các đơn vị sự nghiệp có thu thực hiện tốt hơn hoạt động của mình, là một bước đi thực hiện cải cách chế độ tài chính công và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, tuy nhiên những ràng buộc chặt chẽ về quyết toán tài chính với chủ quản sẽ là bài toán khó cho đảm bảo linh hoạt của đơn vị kinh tế hoạt động trong điều kiện kinh tế thị trường nhiều cạnh tranh và rủi ro. Mặt khác, các qui định về chính sách tiền lương và cán bộ đối với đơn vị sự nghiệp có thu cũng đang trở thành một khó khăn rất lớn đối với các NXB thuộc loại hình này. Chưa có qui định về thi và nâng ngạch đối với biên tập viên NXB làm cho nhiều biên tập viên sau hàng chục năm công tác có mức lương rất thấp, khiến cho NXB rất khó thu hút nguồn lao động có chất lượng.

Bên cạnh đó, chính sách ưu đãi của Nhà nước thể hiện tính đặc thù của hoạt động xuất bản còn thiếu. Các NXB, thuộc mô hình doanh nghiệp hay đơn vị sự nghiệp có thu, ngoài các ưu đãi về thuế VAT (0% đối với sách giáo khoa và chính trị; 5% với sách văn học, khoa học), các đơn vị không được hưởng bất kỳ một ưu đãi nào, cùng chịu mức thuế thu nhập doanh nghiệp 25% như bất kỳ một doanh nghiệp sản xuất hàng hoá nào khác.

Thứ tư, vấn đề xây dựng những mô hình tổ chức mới đối với các NXB còn chậm. Ở Mỹ, hiện 15 công ty và tập đoàn truyền thông hàng đầu đang nắm giữ một nửa thị phần xuất bản. Ở Trung Quốc, sau hơn 3 năm gia nhập WTO, đã tổ chức ngành xuất bản thành 55 tổ hợp và thành lập 4 tâp đoàn xuất bản và 6 tập đoàn phát hành xuất bản phẩm với doanh thu từ 120 triệu đến 1,2 tỉ USD. Những Tập đoàn này hiện giữ vai trò là "đầu tàu" của toàn ngành xuất bản Trung Quốc.

Một xu hướng tuy không mới nhưng đang ngày càng phổ biến, là hiện tượng các NXB lớn mở rộng sang lĩnh vực báo chí. Shogakukan, NXB đã cho ra đời tập truyện tranh Doremon nổi tiếng, ngoài xuất bản sách còn xuất bản đến 400 tạp chí. Những dẫn chứng trên để thấy, xu hướng hình thành các tập đoàn hay tổ hợp xuất bản đang là một xu hướng chủ đạo của xuất bản ở nhiều khu vực trên thế giới, đặt biệt ở những quốc gia có nền xuất bản phát triển.

Để thực hiện mục tiêu đưa xuất bản Việt Nam vươn lên thành một nền xuất bản phát triển khá ở châu Á, việc sớm qui hoạch để hình thành được các tập đoàn hay tổ hợp xuất bản lớn, đủ năng lực cạnh tranh trong nước và vươn ra khu vực là đòi hỏi cấp bách. Song không thể thành lập mô hình này theo một phép cộng đơn giản mà phải trên cơ sở từ nội lực của các đơn vị, có sự chỉ đạo, quản lý khoa học, có sự đầu tư hợp lý và cần xây dựng thớ điểm để rút kinh nghiệm nhân rộng ra toàn ngành. Những mô hình ra đời từ một quyết định hành chính trong thời gian qua đều gặp những khó khăn. Ví dụ, Tổng công ty sách Việt Nam ra đời với mục tiêu hướng đến hình thành một tập đoàn xuất bản văn hoá mạnh hoạt động không hiệu quả, mờ nhạt đã giải thể. Mô hình tập đoàn sách chính trị-pháp luật với trung tâm là NXB chính trị quốc gia gặp nhiều khó khăn trong triển khai, chưa thể trở thành hiện thực. Mô hình tập đoàn sách giáo dục của NXB giáo dục, nhờ những lợi thế trong độc quyền xuất bản sách giáo khoa, có được những tích luỹ nội lực đáng kể, đang được thí điểm thực hiện và đã có được những thành công bước đầu song còn gặp rất nhiều vướng mắc, đặt biệt là ở cơ chế pháp luật…

Bên cạnh các mô hình tập đoàn xuất bản, sự xuất hiện của các mô hình khép kín 3 khâu: xuất bản, in, phát hành; mô hình tổ hợp xuất bản-báo chí, xuất bản-các dịch vụ văn hoá… ngày càng nhiều, thậm chí như một trào lưu, song hiệu quả có được còn rất hạn chế. Hầu hết mô hình khép kín 3 khâu: xuất bản, in, phát hành mới chỉ thực hiện khá ở 2 khâu xuất bản và in, còn lại đại bộ phận các NXB, phát hành sách mới chỉ dừng lại ở tiêu chí giới thiệu sản phẩm, việc phát hành vẫn dựa vào hệ thống phát hành sách tư nhân. Các mô hình xuất bản với dịch vụ văn hoá mới chỉ dừng lại ở mức thử nghiệm, hầu như không có hiệu quả. Mô hình báo chí-xuất bản tuy phát triển khá hơn, song mới chỉ dừng lại ở sự kết hợp giữa xuất bản và tạp chí (do sách và tạp chí có nhiều đặc điểm tương đồng) và trong đó, cũng chỉ có một số ít NXB có sản phẩm tạp chí tạo dựng chỗ đứng và thương hiệu trên thị trường, những tổ hợp báo chí-xuất bản thực sự vẫn chưa có.

Thứ năm, việc chuyển đổi NXB từ doanh nghiệp nhà nước sang một mô hình tổ chức mới không nằm trong sự điều chỉnh của Luật Xuất bản đang nảy sinh nhiều bất cập, tạo ra những xung đột pháp lý giữa Luật Xuất bản và pháp luật về Doanh nghiêp, thể hiện trên một số nội dung:

- Theo qui định của Luật doanh nghiệp, sau khi chuyển đổi, các công ty THHH 1 thành viên thuộc các tỉnh, bộ, ngành trước đây sẽ không còn cơ quan chủ quản mà chuyển sự quản lý sang Tổng công ty đầu tư và kinh doanh vốn Nhà nước (SCIC). Đối với các NXB là doanh nghiệp, đây là điểm trái với Luật Xuất bản bởi Luật Xuất bản còn qui định những trách nhiệm quản lý ràng buộc của cơ quan chủ quản (cơ quan đề nghị và ra quyết định thành lập NXB). Mặt khác, Tổng công ty đầu tư kinh doanh vốn nhà nước có nhiệm vụ chính là quản lý và phát triển nguồn vốn nhà nước ở các doanh nghiệp, vì thế mục tiêu bảo toàn nguồn vốn và sinh lợi là mục tiêu hàng đầu. Trong khi đó, đối với các NXB, hiệu quả hoạt động của các đơn vị không thể chỉ tính ở hiệu quả kinh tế của nó mà trước hết phải ở hiệu quả chính trị mà nó đem lại.

- Theo qui định của Luật Doanh nghiệp, đối với công ty TNHH 1 thành viên sẽ có sự xuất hiện của hàng loạt chức danh mới chịu trách nhiệm quản lý vốn và hoạt động của đơn vị như Hội đồng thành viên và chủ tịch hội đồng thành viên hoặc chủ tịch công ty (người đại diện cho chủ sở hữu vốn nhà nước), Ban kiểm soát, kiểm soát viên..., đặc biệt là vai trò của chủ tịch Hội đồng thành viên hoạc chủ tịch công ty vì theo Luật doanh nghiệp, đây là vị trí cao nhất, chịu trách nhiệm về hoạt động của doanh nghiệp nhưng theo Luật Xuất bản, giám đốc là người chịu trách nhiệm cao nhất về toàn bộ hoạt động của NXB.

- Nghị định 95/2006/NĐ-CP ngày 8/9/2006 của Chính phủ về chuyển đổi công ty nhà nước thành công ty TNHH 1 thành viên qui định điều kiện chuyển đổi sang công ty TNHH 1 thành viên đối với công ty nhà nước độc lập là 30 tỉ và công ty mẹ trong mô hình công ty me-công ty con là 500 tỉ. Đối chiếu với qui định này, tất cả các NXB là doanh nghiệp nhà nước hiện nay đều không đủ điều kiện chuyển đổi kể cả NXB Giáo dục dù đây là NXB có vốn lớn (khoảng 50 tỉ) nhưng lại là công ty mẹ trong mô hình công ty mẹ-công ty con.

Trước những bất cập trong quá trình chuyển đổi của doanh nghiệp nhà nước sang công ty TNHH 1 thành viên, Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương, chính sách để tháo gỡ khó khăn cho các đơn vị. Kết luận 289-TB/TW ngày 4/12/2009 của Ban Bí thư Về xây dựng mô hình NXB trước yêu cầu mới đã chỉ rõ định hướng xây dựng mô hình xuất bản. Nghị định 25/NĐ-CP ngày 19/3/2010 thay thế Nghị định 95/NĐ-CP đã không đặt vấn đề chuyển quyền quản lý vốn sang SCIC đối với các doanh nghiệp thực hiện nhiệm vụ chính trị của bộ, ban, ngành, tỉnh, cũng như xóa bỏ điều kiện về vốn để được chuyển đổi. Chính phủ đang giao Bộ Thông tin và Truyền thông khẩn trương chuẩn bị dự thảo Quyết định về mô hình NXB. Ban Bí thư cũng đã giao cho Ban cán sự Đảng Bộ Thông tin - Truyền thông chủ trì các Bộ ban ngành hữu quan phối hợp, rà soát, điều chỉnh các cơ chế, chính sách thuế, đầu tư có tính ưu đãi, hỗ trợ cho hoạt động xuất bản. Tuy nhiên, những chuyển động trên trong công tác chỉ đạo, quản lý và tổ chức thực hiện còn chậm, khiến cho hầu hết các đơn vị đã và đang thực hiện chuyển đổi đều rất lúng túng.

Một vài phân tích trên đây để đi đến nhận thức rằng, các mô hình, loại hình xuất bản hiện nay là sản phẩm của giai đoạn đầu quá độ, khi chúng ta xóa bỏ cơ chế cũ và xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Sự tồn tại của các mô hình trên là thực sự cần thiết ở giai đoạn đó và chính nó tạo sự ổn định để xuất bản có được những thành tựu trong thời gian qua. Những bất cập của mô hình NXB như trên thực chất là nằm chính trong quá trình giải quyết 3 mối quan hệ: quan hệ giữa NXB với cơ quan chỉ đạo, quản lý, cơ quan chủ quản; quan hệ giữa các bộ phận kết thành bộ máy trong NXB và quan hệ giữa các NXB để hướng tới xây dựng được một mô hình NXB thực hiện đồng thời 2 nhiệm vụ: chính trị và kinh tế.

Trong bối cảnh toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế quốc tế, khi mà Việt Nam đang càng hội nhập sâu, rộng hơn trên mọi bình diện, khi mà xuất bản có vai trò ngày càng nặng nề hơn trong điều kiện có nhiều cạnh tranh từ các phương tiện nghe nhìn, để xuất bản Việt Nam thực sự lớn mạnh và hội nhập vào quốc tế, đã đến lúc, chúng ta cần có cách tiếp cận mới về mô hình NXB hiên nay - một cách tiếp cận trên cơ sở kế thừa nhưng phát triển. Với cách tiếp cận đó, trước mắt, để NXB hoàn thành tốt nhiệm vụ và không ngừng nâng cao chất lượng hoạt động xuất bản trong sự phát triển chung của đất nước, tác giả bài viết có một số đề xuất như sau:

Một là, chuyển đổi mô hình hoạt động của các NXB đồng thời với việc sắp xếp, qui hoạch hệ thống NXB. Chuyển sang đơn vị sự nghiệp có thu tự trang trải một phần chi phí thường xuyên đối với các NXB chỉ hoạt động đơn thuần xuất bản, các NXB có tính đặc thù về nhiệm vụ chính trị, thông tin đối ngoại, các NXB thuộc địa phương, các NXB thuộc ngành giáo dục và đào tạo. Chuyển sang Công ty trách nhiệm hữu hạn nhà nước một thành viên 100% vốn nhà nước đối với các NXB có các hoạt động sản xuất kinh doanh khác ngoài hoạt động xuất bản. Qui định vốn điều lệ pháp định khi thực hiện chuyển đổi hoặc được thành lập mới để đảm bảo NXB có đủ năng lực tài chính hoạt động hiệu quả trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng XHCN.

Hai là, nghiên cứu sửa đổi Luật Xuất bản để bổ sung các quy định mới phát sinh khi chuyển đổi mô hình hoạt động của các NXB để thống nhất trong quản lý, điều hành và có chính sách đầu tư đồng bộ cho hoạt động xuất bản phát triển đúng định hướng của Đảng và pháp luật của Nhà nước.

Bà là, xây dựng cơ chế chính sách thể hiện tính đặc thù của hoạt động xuất bản như các chương trình quốc gia về các loại sách trọng yếu phục vụ công cuộc đổi mới và phát triển đất nước trong giai đoạn mới; cơ chế và đầu tư thích đáng cho công tác đào tạo cán bộ lãnh đạo, quản lý xuất bản; đội ngũ biên tập viên xuất bản; có chính sách ưu đãi về thuế như đưa các NXB vào nhóm được áp dụng thuế suất ưu đãi 10% theo quy định tại Luật Thuế Thu nhập doanh nghiệp; áp dụng chung mức thuế suất 5% (đối với đối tượng chịu thuế 5% và 10%); đối với đối tượng không chịu thuế cho áp dụng mức thuế suất 0% để doanh nghiệp được khấu trừ đầu vào; hỗ trợ, đầu tư của Nhà nước đối với hoạt động của các NXB như đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật ban đầu

Bốn là, hoạt động xuất bản chỉ làm vai trò công bố tác phẩm với công chúng theo tôn chỉ, mục đích hoạt động của NXB, vì vậy phụ thuộc rất hữu cơ vào quá trình sáng tạo của tác giả. Muốn có tác phẩm tốt thì NXB phải đầu tư tương xứng, nhưng hiện nay nhuận bút không thể trả cao do số lượng in thấp. Vì vậy, muốn có tác phẩm đỉnh cao cần có chính sách đầu tư, khuyến khích sáng tác đối với người viết. Bản thân NXB với hiệu quả và tiềm lực kinh tế như hiện nay không thể làm được. Điều này, ngân sách nhà nước trung ương phải đảm nhiệm.

Xuất bản là thành tố quan trọng của nền tảng tinh thần xã hội, là vũ khí tư tưởng sắc bén của Đảng, Nhà nước và nhân dân. Toàn ngành xuất bản đã và đang đóng vai trò quan trọng xây dựng nguồn nhân lực trước đòi hỏi mới của đất nước trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập kinh tế thế giới. Để thực hiện được vai trò đó, xây dựng một nền xuất bản hiện đại, chuyên nghiệp, mà trước hết là xây dựng và hoàn thiện mô hình nhà xuất bản hiện đại trở thành yêu cầu khách quan và cấp thiết, nó đòi hỏi sự nỗ lực phấn đấu của tất cả các nhà xuất bản, cơ quan chủ quản, cơ quan quản lý nhà nước, vì một mục tiêu nâng cao chất lượng xuất bản phẩm, phục vụ tốt nhu cầu sử dụng của xã hội, góp phần nâng cao dân trí, phát triển kinh tế xã hội, đóng góp xứng đáng vào sự nghiệp đổi mới đất nước và hội nhập quốc tế./.

ThS. Nguyễn Nguyên