Thiếu sắt là nguyên nhân gây thiếu máu phổ biến nhất và thường là do mất máu; kém hấp thu là một nguyên nhân ít phổ biến hơn. Triệu chứng thường không đặc hiệu. Hồng cầu thường nhỏ, nhược sắc, sắt dự trữ thấp thể hiện ở nồng độ ferritin huyết thanh thấp, sắt thấp, khả năng gắn sắt toàn bộ cao. Nếu chẩn đoán được thực hiện, cần nghi ngờ mất máu ẩn cho đến khi có chứng minh khác. Điều trị bằng cách thay thế sắt và điều trị nguyên nhân gây mất máu.
Sắt được phân phối ở dạng chuyển hóa hoạt động và dạng dự trữ. Tổng lượng sắt cơ thể khoảng 3,5 g ở người nam khỏe mạnh và 2,5 g ở phụ nữ; sự khác biệt có liên quan đến kích thước cơ thể của phụ nữ nhỏ hơn, và thiếu sắt dự trữ vì sắt bị mất do kinh nguyệt. Sự phân bố của sắt trong cơ thể là
Hemoglobin 2 g (nam), 1,5 g (phụ nữ)
Ferritin 1 g (nam), 0,6 g (phụ nữ)
Hemosiderin 300 mg
Myoglobin 200 mg
Ở Enzyme mô (heme và nonheme), 150 mg
Sắt vận chuyển, 3 mg
Sắt được hấp thu ở tá tràng và đoạn đầu ruột non. Hiệu quả hấp thụ sắt được xác định từ nguồn đầu vào và từ những chất khác được ăn vào cùng nó. Sự hấp thụ sắt là tốt nhất khi thức ăn chứa sắt heme (thịt). Thức ăn sắt nonheme thường ở trạng thái sắt 3 (+3) và phải được khử xuống trạng thái sắt 2 (+2) và được giải phóng ra khỏi thức ăn nhờ chất tiết dạ dày. Sự hấp thu sắt nonheme bị giảm do các thực phẩm khác (ví dụ: chất xơ sợi thực vật và polyphenol, tannates chè, bao gồm phosphoprotein, cám) và một số kháng sinh (như tetracycline). Axit ascorbic là thành phần thức ăn phổ biến duy nhất được biết đến làm tăng sự hấp thu sắt nonheme.
Sắt từ tế bào niêm mạc ruột chuyển sang transferrin, một protein vận chuyển sắt tổng hợp trong gan; transferrin có thể vận chuyển sắt từ các tế bào (ruột, đại thực bào) đến các thụ thể đặc hiệu trên nguyên hồng cầu, tế bào nhau thai, và các tế bào gan. Để tổng hợp heme, transferrin vận chuyển sắt đến ty thể của nguyên hồng cầu, đưa sắt vào protoporphyrin để trở thành heme. Transferrin (nửa đời sống là 8 ngày) được lấy lại để tái sử dụng. Tổng hợp transferrin tăng lên khi thiếu sắt nhưng giảm với bất kỳ dạng bệnh mạn tính nào.
Sắt không được sử dụng cho sinh hồng cầu được transferrin, một protein vận chuyển sắt, chuyển đến kho dự trữ; sắt được lưu trữ ở 2 dạng:
Ferritin
hemosiderin
Ferritin (là một nhóm protein không thuần nhất bao quanh một dây sắt) là dạng dữ trữ quan trọng nhất của sắt: hòa tan trong huyết thanh, lưu trữ trong gan (tế bào gan), trong tủy xương, lách (trong đại thực bào), trong hồng cầu. Sắt chứa trong ferritin có sẵn cho bất kỳ yêu cầu của cơ thể. Nồng độ ferritin tuần hoàn (huyết thanh) tỷ lệ thuận với dự trữ trong cơ thể (1 ng/mL = 8 mg sắt dự trữ).
Dạng dự trữ thứ 2 của sắt là hemosiderin, chất này không hòa tan và được lưu giữ chủ yếu ở gan (trong tế bào Kupffer) và trong tủy xương (ở đại thực bào).
Vì sự hấp thụ sắt rất hạn chế nên cơ thể sẽ tái sử dụng và bảo quản sắt. Transferrin liên kết và tái sử dụng sắt sẵn có từ các hồng cầu già bị các đại thực bào. Cơ chế này cung cấp khoảng 97% nhu cầu sắt hàng ngày (khoảng 2,5 mg sắt).
Thiếu sắt trầm trọng và kéo dài cũng có thể gây rối loạn chức năng của các enzyme tế bào có chứa sắt.
Nemeth E, Tuttle MS, Powelson J, et al: Hepcidin regulates cellular iron efflux by binding to ferroportin and inducing its internalization. Science 306(5704):2090–2093, 2004.
Do sắt bị hấp thu kém, chất sắt trong khẩu phần hầu như không đáp ứng yêu cầu hàng ngày đối với hầu hết mọi người. Mặc dù vậy, những người ăn một chế độ ăn kiêng kiểu phương Tây dường như không thể bị thiếu chất sắt chỉ vì thiếu chất dinh dưỡng. Tuy nhiên, ngay cả những tổn thất khiêm tốn, yêu cầu tăng lên, bệnh hoại tử cơ, hoặc giảm lượng calo cũng có thể góp phần gây ra tình trạng thiếu sắt.
Mất máu là nguyên nhân chính của thiếu sắt. Ở nam giới và phụ nữ
mãn kinh, nguyên nhân thường gặp nhất là chảy máu mạn tính, thường là từ đường tiêu hoá (ví dụ, từ bệnh viêm loét
dạ dày Bệnh loét dạ dày Loét dạ dày là một chỗ mòn đoạn niêm mạc đường tiêu hóa, điển hình là ở dạ dày (loét dạ dày) hoặc vài cm đầu tiên của tá tràng (loét tá tràng), xâm nhập
qua lớp cơ niêm. Hầu như tất cả các vết... đọc thêm
Tăng nhu cầu sắt có thể góp phần vào sự thiếu sắt. Từ khi sinh đến khi 2 tuổi và trong thời kỳ thanh thiếu niên, khi tăng trưởng nhanh đòi hỏi lượng sắt lớn, thì chất sắt chế độ ăn uống thường không thích hợp. Trong thời kỳ mang thai, nhu cầu sắt bào thai làm tăng nhu cầu sắt của bà mẹ (trung bình, 0,5 đến 0,8 mg/ngày – xem Thiếu máu trong thai kỳ Thiếu máu khi mang thai Thông thường trong thời kỳ mang thai xảy ra sự gia tăng hồng cầu non ở tủy, và khối lượng hồng cầu tăng lên. Tuy nhiên, sự gia tăng lượng huyết tương không cân xứng làm giảm nồng độ Hb máu ... đọc thêm ) mặc dù không có kinh nguyệt. Cho con bú cũng làm tăng nhu cầu sắt (trung bình, 0,4 mg/ngày).
Giảm hấp thu sắt có thể là kết quả của cắt dạ dày hoặc
hội chứng kém hấp thu
Tổng quan về kém hấp thu Chứng kém hấp thu là sự tổng hợp không đầy đủ các chất có trong chế độ ăn uống do các rối loạn trong quá trình tiêu hóa, hấp thu, hoặc vận chuyển. Kém hấp thu có thể ảnh hưởng đến các chất dinh... đọc thêm
như bệnh celiac,
Bệnh celiac Bệnh Celiac là một bệnh qua trung gian miễn dịch di truyền ở người do không dung nạp gluten, dẫn đến chứng viêm niêm mạc và teo nhung mao, gây kém hấp thu. Triệu chứng thường bao gồm tiêu chảy... đọc thêm
Triệu chứng và Dấu hiệu của chứng thiếu máu thiếu sắt
Tổng phân tích tế bào máu ngoại vi, sắt huyết thanh, khả năng gắn sắt, ferritin huyết thanh, độ bão hòa transferrin, hồng cầu lưới, độ rộng phân bố hồng cầu (RDW) và tiêu bản máu ngoại vi
Hiếm khi cần làm xét nghiệm tủy xương
Nồng độ Ferritin huyết thanh tương quan chặt
chẽ với dự trữ sắt cơ thể. Dải bình thường ở hầu hết các phòng thí nghiệm là 30 đến 300 ng/mL (67,4 đến 674,1 pmol/L), và trung bình là 88 ng/mL (197,7 pmol/L) ở nam giới và 49 ng/mL (110,1 pmol/L) ở phụ nữ. Mức thấp (< 12 ng/mL [27 pmol/L]) đặc hiệu đối với thiếu sắt. Tuy nhiên, ferritin cũng tăng phản ứng trong viêm và nhiễm trùng (ví dụ như
viêm gan
Tổng quan về viêm gan vi-rút cấp tính Viêm gan vi-rút là tình trạng viêm gan lan tỏa bởi các vi-rút hướng gan với đường lây truyền và đặc điểm dịch tễ khác nhau. Tiền triệu không điển hình của nhiễm vi-rút bao gồm chán ăn, buồn... đọc thêm
), và rối loạn tân sản (đặc biệt là lơ xê mi
cấp Tổng quan về Bệnh bạch cầu Bệnh bạch cầu là một tình trạng ác tính liên quan đến việc sản xuất quá nhiều bạch cầu chưa trưởng thành hoặc bất thường, cuối cùng sẽ ngăn chặn việc
sản sinh ra các tế bào máu bình thường và... đọc thêm , u lymphô Hodgkin
U lympho Hodgkin U lymphô Hodgkin là một sự gia tăng ác tính các tế bào của hệ thống lưới lympho tại chỗ hoặc lan tràn, chủ yếu liên quan đến các tế bào hạch bạch huyết, lá lách, gan và tủy xương. Triệu chứng... đọc thêm
Hồng cầu lưới giảm khi thiếu sắt. Trên tiêu bản máu ngoại vi thường thấy hồng cầu nhược sắc, nhiều hình dạng, nhiều kích thước, được phản ánh bằng độ rộng phân bố hồng cầu cao (RDW).
Tiêu chuẩn đặc trưng nhất của giảm sinh hồng cầu do thiếu sắt là không có sắt ở tủy xương mặc dù hiếm khi cần phải kiểm tra tủy xương.
Kết quả xét nghiệm trong phòng xét nghiệm giúp đánh giá giai đoạn thiếu máu thiếu sắt.
Giai đoạn 1 được đặc trưng bởi giảm sắt dự trữ trong tủy xương, sắt trong hemoglobin (Hb) và huyết thanh vẫn bình thường, nhưng nồng độ ferritin huyết thanh giảm xuống < 20 ng/mL (44,9 pmol/L). Trong các nguyên nhân do hấp thu sắt cơ thể sẽ bù lại bằng cách tăng khả năng gắn sắt (nồng độ transferin).
Giai đoạn 2, sinh hồng cầu bị hư. Mặc dù transferrin tăng lên nhưng nồng độ sắt huyết thanh giảm;độ bão hòa transferrin giảm. Sinh hồng cầu bị hư khi sắt huyết thanh giảm xuống < 50 mcg/dL (< 9 micromol/L) và độ bão hòa transferrin xuống < 16%. Nồng độ receptor của transferrin huyết thanh tăng lên (> 8,5 mg/L).
Giai đoạn 3, thiếu máu với hồng cầu và các chỉ số bình thường xuất hiện.
Giai đoạn 4, thiếu máu hồng cầu nhỏ nhược sắc.
Giai đoạn 5, thiếu sắt ảnh hưởng đến mô, dẫn đến triệu chứng và dấu hiệu.
Chẩn đoán thiếu máu thiếu sắt cần tìm nguyên nhân, thường là chảy máu. Bệnh nhân bị mất máu rõ rệt (ví dụ phụ nữ có kinh nguyệt) có thể không cần xét nghiệm thêm. Nam giới và phụ nữ mãn kinh không bị mất máu rõ rệt nên được đánh giá về đường tiêu hóa, vì thiếu máu có thể là dấu hiệu duy nhất chỉ ra ung thư. Hiếm khi, chảy máu mũi mạn tính hoặc chảy máu tiết niệu thường bị bệnh nhân đánh giá thấp và cần đánh giá ở những bệnh nhân có kết quả xét nghiệm GI bình thường.
Thiếu máu do thiếu sắt phải được phân biệt với những thiếu máu hồng cầu nhỏ khác (xem bảng Chẩn đoán phân biệt thiếu máu hồng cầu nhỏ do giảm sản xuất hồng cầu Chẩn đoán phân biệt thiếu máu hồng cầu nhỏ do giảm sản xuất hồng cầu
Bổ sung sắt đường uống
Đôi khi truyền tĩnh mạch
Không nên chỉ bổ sung sắt mà không tìm nguyên nhân, cần phát hiện vị trí chảy máu ngay cả khi có thiếu máu nhẹ.
Điều trị sắt cần ≥ 6 tháng sau khi hiệu chỉnh mức Hemoglobin để bổ sung dự trữ sắt ở mô.
Đáp ứng với điều trị được đánh giá bằng các phép đo Hb nối tiếp cho đến khi đạt được giá trị RBC bình thường. Hb tăng ít trong 2 tuần nhưng sau đó tăng 0,7 đến 1 g / tuần cho đến khi gần bình thường, lúc đó tốc độ tăng giảm dần. Thiếu máu nên được điều chỉnh trong vòng 2 tháng. Đáp ứng dưới bình thường có thể do xuất huyết tiếp tục, nhiễm trùng hoặc ung thư, thường không cung cấp đủ sắt hoặc kém hấp thu thiếu. Nếu các triệu chứng thiếu máu, chẳng hạn như mệt mỏi, yếu, và khó thở, không giảm sau khi giải quyết thiếu máu, cần tìm một nguyên nhân khác.
1. Moretti D, Goede JS, Zeder C, et al: Oral iron supplements increase hepcidin and decrease iron absorption from daily or twice-daily doses in iron-depleted young women. Blood 126(17):1981-1989, 2015. doi: 10.1182/blood-2015-05-642223
Thiếu máu do thiếu sắt thường gây ra bởi mất máu (ví dụ như xuất huyết tiêu hóa, kinh nguyệt) nhưng có thể là do tan máu, giảm hấp thu hoặc tăng nhu cầu sắt (ví dụ như trong giai đoạn mang thai, cho con bú, thời kỳ tăng trưởng nhanh ở trẻ em).
Phân biệt thiếu máu thiếu sắt với các thiếu máu hồng cầu nhỏ khác (ví dụ, thiếu máu của bệnh mạn tính, bệnh huyết sắc tố).
Đo nồng độ sắt huyết thanh, khả năng gắn sắt, và nồng độ ferritin trong huyết thanh.
Thiếu sắt thường gây ra sắt huyết thanh thấp, khả năng gắn sắt cao, và nồng độ ferritin huyết thanh thấp.
Luôn tìm nguyên nhân gây thiếu sắt, ngay cả khi thiếu máu nhẹ.
Thuốc bổ sung sắt đường uống thường là đầy đủ; dự trữ sử dụng sắt đường tiêm cho bác sĩ huyết học vì nguy cơ tác dụng phụ (ví dụ, phản ứng tiêm truyền và phản ứng phản vệ hiếm gặp).