Nơi dung nào dưới đây không phải là nhiệm vụ đặt ra cho cuộc Cách mạng tháng 2 năm 1917 ở Nga

Một nước Nga trì trệ “một cổ hai tròng”

Đến năm 1917, phần lớn người dân Nga đã mất niềm tin vào khả năng lãnh đạo của chế độ Sa hoàng. Nạn tham nhũng tràn lan trong chính phủ, nền kinh tế Nga vẫn lạc hậu. Sa hoàng Nicholas liên tục giải tán Duma - Quốc hội Nga được thành lập sau Cách mạng 1905, khi nó chống lạiý nguyện của ông và gia tộc.

Chính sự bảo thủ của chế độ Sa hoàng đã tạo ra các tổ chức tư bản độc quyền nhưng vẫn mang màu sắc quý tộc, phong kiến thông qua các tước vị cha truyền, con nối. Các nhà đại tư bản kiểm soát phần lớn các ngành công nghiệp nội địa của Nga như: Dầu mỏ, than đá, luyện kim, đường sắt… Giai cấp công nhân Nga vừa bị bóc lột, vừa bị đối xử tàn tệ như những kẻ nô lệ trong hầm mỏ và nhà máy. Trong khi đó, người nông dân Nga do không chịu nổi tô, thuế, phần lớn đã bỏ ruộng đất ra các thành phố lớn kiếm việc làm. Đây là những tàn tích của chế độ phong kiến-nông nô khi phần lớn ruộng đất tại Nga nằm trong tay giới địa chủ, quý tộc và nhà thờ. Cuộc sống cực khổ đã đưa người nông dân Nga tiến tới con đường bần cùng hóa.

Nơi dung nào dưới đây không phải là nhiệm vụ đặt ra cho cuộc Cách mạng tháng 2 năm 1917 ở Nga
Nơi dung nào dưới đây không phải là nhiệm vụ đặt ra cho cuộc Cách mạng tháng 2 năm 1917 ở Nga
Nơi dung nào dưới đây không phải là nhiệm vụ đặt ra cho cuộc Cách mạng tháng 2 năm 1917 ở Nga
Nơi dung nào dưới đây không phải là nhiệm vụ đặt ra cho cuộc Cách mạng tháng 2 năm 1917 ở Nga

Nơi dung nào dưới đây không phải là nhiệm vụ đặt ra cho cuộc Cách mạng tháng 2 năm 1917 ở Nga

Cuộc sống bị bần cùng hóa của nhân dân Nga dưới thời Sa hoàng đã tạo ra hàng loạt phong trào đấu tranh với cao trào là cuộc Cách mạng Tháng Hai lật đổ chế độ phong kiến đã tồn tại hàng trăm năm. Ảnh: RIA Novosti.

Thực tế, do ảnh hưởng của chế độ phong kiến, mức độ phát triển sản xuất tư bản tại Nga chỉ tương đương một quốc gia trung bình tại châu Âu. Công nghệ lạc hậu, dựa nhiều vào sức người, năng suất thấp và phần lớn lợi tức phụ thuộc vào việc xuất khẩu các sản phẩm nguyên liệu thô sang phương Tây, nhất là Anh, Pháp và Đức. Phương Tây coi Nga vừa là nơi tiêu thụ hàng hóa, vừa là nơi cung cấp những nguyên liệu thô thiết yếu cho nền công nghiệp của họ.

Để dập tắt các phong trào đấu tranh dân chủ trong nước, Sa hoàng và lực lượng đại tư bản đã thẳng tay bóc lột và tước bỏ mọi quyền tự do của giai cấp công nhân, nông dân. Để duy trì quyền cai trị, Sa hoàng duy trì một đội quân thường trực đông đảo cùng với lực lượng cảnh sát, hiến binh sẵn sàng đàn áp các hành động chống đối trong biển máu.

Chính những mâu thuẫn đan xen giữa giai cấp công nhân, nông dân Nga với tầng lớp tư bản, chủ nô, Sa hoàng và sự đấu tranh vì quyền lợi giữa bản thân giai cấp tư bản Nga với giới tư bản nước ngoài đã biến nước Nga phong kiến như một ly nước đầy và chỉ cần một giọt nước sẽ làm tràn ly.

“Giọt nước tràn ly” đó chính là sự can dự của Sa hoàng vào Thế chiến thứ nhất. Về mặt quân sự, đế quốc phong kiến Nga không sánh được với nước Đức công nghiệp hóa. Cuộc chiến kéo dài và quân đội Nga chịu nhiều thương vong hơn bất kỳ quốc gia nào phải chịu đựng trong các cuộc chiến tranh trước đó. Không chỉ thảm bại trên chiến trường, chiến tranh đã làm nền kinh tế nửa tư bản, nửa phong kiến của Nga bị hủy hoại đến vô vọng bởi các nỗ lực tìm nguồn lực duy trì chiến tranh tốn kém. Ở các thành phố lớn, việc cung cấp bánh mì, đường sữa ngày càng thất thường. Nạn đói đã xảy ra trầm trọng ở nhiều vùng nông thôn. Phong trào đấu tranh của các tầng lớp nhân dân tăng lên mạnh mẽ. Đây chính là cơ hội chín muồi cho một cuộc cách mạng lật độ chế độ Sa hoàng.

Cách mạng Tháng Hai bùng nổ và sự sụp đổ của chế độ phong kiến Sa hoàng

Ngày 8-3-1917 (tức 23-2 theo lịch cũ Julius của Nga), kỷ niệm Ngày Quốc tế Phụ nữ, chị em công nhân các nhà máy ở thủ đô Petrograd (nay là Saint Petersburg) đã xuống đường biểu tình, tuần hành. Hoạt động trên đã nhận được sự ủng hộ của nhiều nhà máy trong thành phố và nhanh chóng biến thành làn sóng không thể kiểm soát. Hơn 128.000 công nhân, nông dân đã xuống đường đấu tranh với khẩu hiệu: “Đả đảo chiến tranh'', “Đả đảo chế độ chuyên chế”, ''Bánh mì''… Hoạt động biểu tình, tuần hành tiếp tục duy trì trong nhiều ngày sau đó và tới ngày 10-3, khi các yêu sách của công nhân không được giới chủ tư bản và chính quyền Sa hoàng đáp ứng, các cuộc biểu tình đã biến thành khởi nghĩa vũ trang. Các đám đông người biểu tình tấn công và chiếm các sở cảnh sát. Tổ chức Xô viết công nhân, binh lính được thành lập tại nhiều nhà máy.

Nơi dung nào dưới đây không phải là nhiệm vụ đặt ra cho cuộc Cách mạng tháng 2 năm 1917 ở Nga
Nơi dung nào dưới đây không phải là nhiệm vụ đặt ra cho cuộc Cách mạng tháng 2 năm 1917 ở Nga
Nơi dung nào dưới đây không phải là nhiệm vụ đặt ra cho cuộc Cách mạng tháng 2 năm 1917 ở Nga
Nơi dung nào dưới đây không phải là nhiệm vụ đặt ra cho cuộc Cách mạng tháng 2 năm 1917 ở Nga

Nơi dung nào dưới đây không phải là nhiệm vụ đặt ra cho cuộc Cách mạng tháng 2 năm 1917 ở Nga

Nơi dung nào dưới đây không phải là nhiệm vụ đặt ra cho cuộc Cách mạng tháng 2 năm 1917 ở Nga
Nơi dung nào dưới đây không phải là nhiệm vụ đặt ra cho cuộc Cách mạng tháng 2 năm 1917 ở Nga
Nơi dung nào dưới đây không phải là nhiệm vụ đặt ra cho cuộc Cách mạng tháng 2 năm 1917 ở Nga
Nơi dung nào dưới đây không phải là nhiệm vụ đặt ra cho cuộc Cách mạng tháng 2 năm 1917 ở Nga

Nơi dung nào dưới đây không phải là nhiệm vụ đặt ra cho cuộc Cách mạng tháng 2 năm 1917 ở Nga

Sự đàn áp đẫm máu của Sa hoàng đối với các phong trào đấu tranh đã dẫn tớicuộc Cách mạng Tháng Hai và lịch sử nước Nga đã chính thức sang trang mới. Ảnh: RIA Novosti.

Tới ngày 11-3, quân đội Sa hoàng và cảnh sát được lệnh bắn vào người biểu tình. Không chùn bước, phong trào biểu tình tiếp tục lan rộng và tạo ra sự dao động trong tinh thần lực lượng quân đội Bảo hoàng. Đến ngày 12-3, người biểu tình đã chiếm thủ đô, kiểm soát các kho vũ khí. Các trung đoàn của quân đội đồn trú ở Petrograd theo nhau quay sang ủng hộ lý tưởng của những người quần chúng. Quân đội, gồm khoảng 150.000 người, sau đó đã thành lập các ủy ban để bầu đại biểu tham giaXô viết Petrograd.

Bộ máy công quyền Sa hoàng cơ bản tê liệt hoàn toàn. Các đơn vị khởi nghĩa vũ trang đánh chiếm các công sở, nhà ga xe lửa, trung tâm bưu điện, các nhà giam và giải phóng tù chính trị. Các bộ trưởng và tướng tá chính quyền Sa hoàng bị bắt giam. Quần chúng khởi nghĩa làm chủ tình hình ở thủ đô. Ngày 13-3, các đơn vị quân đội ở thủ đô Petrograd hạ vũ khí.

Tin thắng lợi của phong trào khởi nghĩa tại thủ đô Petrograd nhanh chóng bay khắp nước Nga và các phong trào đấu tranh, khởi nghĩa xảy ra ở hàng loạt thành phố lớn. Ở Moscow và nhiều thành phố khác, công nhân và nhân dân lao động đã nổi dậy lật đổ chế độ Sa hoàng, thành lập các Xô viết để liên kết công nông-binh sĩ giành chính quyền.

Chỉ trong vòng 8 ngày, cuộc Cách mạng Tháng Hai đã thành công và lật đổ hoàn toàn chế độ Sa hoàng đã tồn tại hàng thế kỷ qua. Tuy đã lật đổ chế độ cũ và giành được chính quyền, nhưng nước Nga theo chế độ cộng hòa dân chủ lại lâm vào tình trạng phức tạp mới. Quyền lực của chính quyền mới không hợp nhất, mà phân tán do các tổ chức Xô viết và chính quyền dân chủ tư sản nắm giữ.

Ngày 14-3, Xô viết ra bản Quân lệnh số 1 nổi tiếng, trong đó chỉ đạo lục quân và hải quân Nga chỉ tuân thủ các sắc lệnh của Xô viết chứ không phải là Chính phủ lâm thời tư sản. Chính phủ lâm thời hoàn toàn bất lực trước mệnh lệnh này. Đây chính là nguy cơ mới của một cuộc cách mạng công nông không triệt để và cần thêm một cuộc cách mạng để nhà nước công nông đầu tiên trên thế giới ra đời. Trong thời điểm đó, lãnh tụ của người Bolsevich, Vladimir Ilich Lenin đã vượt qua chiến tuyến Đức trở về nước Nga để lãnh đạo phong trào cách mạng Nga với đỉnh điểm là Cuộc khởi nghĩa Tháng Mười.

Tại sao Cách mạng Tháng Mười lại được ghi là ngày 7-11?

Cách mạng Tháng Mười tại Nga thực tế diễn ra trong tháng 11 theo Tây lịch, là do Chính quyền Sa hoàng Nga sử dụng lịch Julius có nhiều sai lệch so với lịch Gregorius hay Tây lịch được phần lớn thế giới áp dụng tới tận ngày nay.

Lịch Julius được Hoàng đế La mã Julius Caesarcông bố vào năm 46 trước công nguyên và có hiệu lực trên lãnh thổ La mã sau đó một năm sau đó. Theo lịch Julius, một năm thường có 365 ngày được chia thành 12 tháng vàngày nhuận được thêm vàotháng Haisau mỗi 4 năm. Như vậy, mỗi năm theo lịch Julius trung bình dài 365,25 ngày. Tuy nhiên, một vấn đề xảy ra với lịch Julius là có quá nhiều ngày nhuận được thêm vào để phù hợp với các mùa thiên văn. Trung bình, các điểm phân và điểm chí diễn ra sớm hơn khoảng 11 phút trên năm so với lịch Julius, làm cho lịch này có thêm một ngày dư ra sau mỗi 134 năm. Vì sự không chính xác này, năm 1582, lịch Julius được thay thế bằng Tây lịch chính xác hơn.

Tuy nhiên, lịch Julius vẫn được một số quốc gia theo Chính thống giáo, trong đó có nước Nga, sử dụng cho tới đầu thế kỷ 20. Điều này cũng giải thích cho việc Cách mạng Tháng Mười diễn ra vào ngày 7-11-1917 theo Tây lịch, nhưng theo lịchJulius lại là ngày 25-10.

TUẤN SƠN (tổng hợp)

Bài 2: Sự phản bội lý tưởng của những người Mensevich

QPTD -Thứ Năm, 04/11/2021, 09:08 (GMT+7)

Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 - Cuộc cách mạng biết tự bảo vệ

Cách mạng Tháng Mười Nga là cuộc cách mạng vĩ đại, sâu sắc nhất trong lịch sử. Bởi, đó là “Cuộc cách mạng biết tự bảo vệ”, là ngọn cờ giải phóng nhân loại khỏi áp bức bóc lột; “ngôi sao chỉ đường” để Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo nhân dân ta làm nên thắng lợi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và trong đấu tranh bảo vệ thành quả cách mạng, xây dựng, bảo vệ Tổ quốc hiện nay.

Nơi dung nào dưới đây không phải là nhiệm vụ đặt ra cho cuộc Cách mạng tháng 2 năm 1917 ở Nga
Lenin diễn thuyết trong sự ủng hộ của binh sĩ Hồng quân (ảnh tư liệu)

Kế thừa, phát triển sáng tạo tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen về vũ trang quần chúng, bảo vệ thành quả cách mạng và kinh nghiệm rút ra từ sự thất bại của Công xã Pari năm 1871 (chỉ tồn tại 72 ngày do giai cấp công nhân “chưa trưởng thành về chính trị”, khi bảo vệ chính quyền chưa triệt để dẫn đến thất bại), vì vậy, ngay trong đêm thắng lợi đầu tiên của Cách mạng Tháng Mười (25/10/1917), Đại hội Xô viết toàn Nga lần thứ II đã thông qua Sắc lệnh hòa bình, tuyên bố: nước Nga Xô viết rút khỏi cuộc chiến tranh và đề nghị các nước tham chiến nhanh chóng chấm dứt các hoạt động quân sự, tiến hành đàm phán để đi tới ký kết một hòa ước dân chủ và công bằng. Nhưng các nước đế quốc thuộc phe Hiệp ước đều bỏ qua đề nghị đó, buộc nước Nga Xô viết phải tiến hành đàm phán riêng rẽ và ký Hiệp định đình chiến với Đức, ngày 02/12/1917; theo đó, các hoạt động quân sự chấm dứt và hai bên bắt đầu thảo luận những điều kiện để ký hòa ước. Song, lợi dụng tình trạng còn non yếu của nước Nga Xô viết, tại bàn thương lượng, phái đoàn Đức đã đưa ra yêu sách có tính xâm lược và nô dịch: Nga phải chuyển giao cho Đức một vùng lãnh thổ rộng tới 150 nghìn ki lô mét vuông (gồm Ba Lan, Litva và một phần Bêlarút; tách Ucraina khỏi Nga). Tuy nhiên, Trốtky - người dẫn đầu phái đoàn Nga đã không chấp hành chỉ thị của V.I. Lênin là phải ký ngay hòa ước theo những điều kiện của Đức và tuyên bố bác bỏ yêu sách của nước này. Chỉ chờ có vậy, quân đội Đức mở đợt tấn công vào hướng thủ đô Petrograd nhằm lật đổ Chính quyền Xô viết.

Trước tình thế “lâm nguy”, V.I. Lênin gửi điện cho Beclin chấp nhận những yêu sách của Đức, nhưng họ im lặng và tiếp tục tấn công. Cùng lúc đó, nội bộ Đảng Bônsê­vích xuất hiện hai nhóm đối lập: đa số Ban Chấp hành Trung ương cùng hai Đảng bộ chủ chốt là Petrograd và Mátxcơva đều không đồng ý với chủ trương ký hòa ước của Lênin. Chỉ sau nhiều lần kiên trì giải thích trên các diễn đàn, Lênin mới nhận được sự chấp nhận có tính ủy thác: được toàn quyền giải quyết các vấn đề chiến tranh và hòa bình, nhưng không có nghĩa Ban Chấp hành Trung ương đồng ý ký hòa ước. Theo đó, lệnh tổng động viên được công bố, thanh niên nhập ngũ, tiến ngay ra mặt trận; chỉ sau khi bị chặn đứng trước thành Petrograd, Đức mới đồng ý trở lại bàn đàm phán. Ngày 03/3/1918, Hòa ước Brest – Litov được ký kết với những điều kiện nặng nề hơn trước (Nga phải cắt đi một lãnh thổ rộng tới 750 nghìn kilômét vuông; phải giải ngũ quân đội và bồi thường cho Đức 06 tỉ Mác). Theo Lênin, đây là một “hòa ước bất hạnh”, nhưng hết sức cần thiết để giữ vững Chính quyền Xô viết và có được một thời gian hòa bình quý báu để củng cố, chuẩn bị lực lượng. Đúng như dự đoán của Lênin, đầu tháng 11/1918, cuộc cách mạng tư sản đã diễn ra ở Đức và giành thắng lợi, nước Nga Xô viết ngay lập tức tuyên bố hủy bỏ Hòa ước Brest – Litov, quyết tâm khôi phục lại lãnh thổ và dân cư của đất nước theo kịch bản đã dự định. Từ đây, nước Nga bước vào cuộc chiến chống can thiệp vũ trang của 14 nước đế quốc cùng với những cuộc bạo loạn của các tướng tá Bạch vệ. Chỉ sau ba năm (1918 - 1920) chiến đấu ngoan cường dưới sự lãnh đạo của V.I. Lênin và Đảng Bônsê­vích, nhân dân các dân tộc Nga lần lượt đánh bại các cuộc nổi loạn và can thiệp vũ trang của kẻ thù, mở ra khả năng mới cho cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Đồng thời, làm sáng rõ vấn đề cơ bản của cuộc cách mạng: “giành chính quyền đã khó, giữ chính quyền càng khó khăn phức tạp hơn nhiều”1; “một cuộc cách mạng chỉ có giá trị khi nào nó biết tự vệ”2; quá trình đó, đôi khi phải chấp nhận một “bước lùi” với những điều kiện cay đắng.

Những bước đi thành công trong tiến trình bảo vệ thành quả Cách mạng Tháng Mười Nga đã trở thành động lực mạnh mẽ cổ vũ các dân tộc thuộc địa đứng lên đấu tranh chống lại ách áp bức, bóc lột của giai cấp tư sản; đồng thời, thúc đẩy phong trào giải phóng dân tộc, phong trào Cộng sản và công nhân quốc tế phát triển. Nhờ đó, giai cấp vô sản vững tin bước lên vũ đài chính trị với tư cách là giai cấp trung tâm của thời đại. Đánh giá ý nghĩa của Cách mạng Tháng Mười, Hồ Chí Minh cho rằng: “Giống như mặt trời chói lọi, Cách mạng Tháng Mười chiếu sáng khắp năm châu,... Trong lịch sử loài người chưa từng có cuộc cách mạng nào có ý nghĩa to lớn và sâu xa như thế”3. Người khẳng định: muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản. Đây là cơ sở tiền đề để lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo nhân dân ta tiến hành Tổng khởi nghĩa giành chính quyền tháng 8/1945.

Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Việt Nam có hoàn cảnh tương đồng với nước Nga Xô viết sau Cách mạng Tháng Mười: nằm trong vòng vây của các thế lực thù địch trong và ngoài nước (quân Tưởng khi sang Việt Nam kéo theo đám phản động người Việt là Đảng Việt Quốc, Việt Cách với mục tiêu “tiêu diệt Cộng sản”; ở miền Nam quân viễn chinh Pháp núp bóng quân Anh để gây hấn, khủng bố, lấn chiếm, mưu toan phá bỏ thành quả cách mạng và ủ mưu đưa quân ra miền Bắc thiết lập trở lại chế độ thực dân cũ). Tuyên bố trước thế giới về tính tất yếu và chính nghĩa của nhiệm vụ tự bảo vệ thành quả cách mạng, lãnh tụ Hồ Chí Minh khẳng định: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”4. Thấm nhuần luận điểm của V.I. Lênin “một cuộc cách mạng chỉ có giá trị khi nào nó biết tự vệ”; đồng thời, rút ra kinh nghiệm từ bài học bảo vệ thành quả cách mạng của Cách mạng Tháng Mười, Đảng ta đã chủ trương thực hiện nhiều sách lược nhằm bảo vệ vững chắc chính quyền còn non trẻ (khi thì hòa hoãn với Tưởng để chĩa mũi nhọn vào thực dân Pháp, khi lại tạm hòa hoãn với Pháp để đối phó với quân Tưởng), như: sách lược “giao thiệp thân thiện, nhân nhượng, tránh xung đột” với đội quân Trung Hoa Dân quốc; đối với Pháp “độc lập về chính trị, nhân nhượng về kinh tế”. Ngày 06/3/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký với đại diện Chính phủ Pháp bản Hiệp định sơ bộ; theo đó, Chính phủ Pháp công nhận nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là một quốc gia tự do có ngoại giao, quân đội, tài chính và nghị viện riêng,... nằm trong Liên bang Đông Dương và Khối Liên hiệp Pháp; Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đồng ý để 15.000 quân Pháp ra miền Bắc thay thế quân Trung Hoa Dân quốc làm tiếp nhiệm vụ tước vũ khí và hồi hương quân Nhật. Ngày 09/3/1946, Ban Thường vụ Trung ương ra Chỉ thị “Hòa để tiến”, giải thích việc ký Hiệp định sơ bộ và xác định chủ trương hòa hoãn với Pháp để tranh thủ thời gian xây dựng lực lượng về mọi mặt. Sự nhân nhượng có nguyên tắc với thực dân Pháp trong việc ký Hiệp định Sơ bộ (06/3/1946), Tạm ước (14/9/1946) đã thể hiện khát vọng hòa bình và có thời gian chuẩn bị cho cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi. Điều này đã khẳng định bản chất cách mạng, khoa học của luận điểm “một cuộc cách mạng chỉ có giá trị khi nào nó biết tự vệ” của V.I. Lênin; đồng thời, minh chứng bài học về củng cố và giữ vững chính quyền Xô viết của Cách mạng Tháng Mười Nga là ánh sáng rọi chiếu và trở thành động lực tinh thần để Đảng và Nhân dân ta vững bước tiến lên, vượt qua mọi gian lao, thử thách, làm lên mốc son chói lọi trong dòng chảy lịch sử bằng Chiến dịch Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu” năm 1954, tác động mạnh đến phong trào đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Quá trình lãnh đạo công cuộc bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc từ năm 1954 và cả nước từ sau Đại thắng mùa Xuân 1975, vận dụng bài học của Cách mạng Tháng Mười Nga, Đảng ta luôn xác định đường lối, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc đúng đắn, sáng tạo, bảo đảm cho Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa được bảo vệ vững chắc, tạo cơ sở hiện thực hóa mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Tự bảo vệ thành quả của Cách mạng Tháng Mười Nga không chỉ là “Ánh sáng” soi rọi sự nghiệp đấu tranh giải phóng các dân tộc bị áp bức, mà còn định hướng sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Sự thật đó là không thể phủ nhận. Tuy nhiên, các thế lực thù địch lợi dụng sự kiện xảy ra ở Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu trong thập kỷ 80, 90 của thế kỷ XX, ra sức xuyên tạc chủ nghĩa Mác – Lênin, bóp méo lịch sử, mưu toan xóa bỏ tầm vóc vĩ đại của cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga với các luận điệu: chủ nghĩa Mác – Lênin đã lỗi thời; chủ nghĩa xã hội đã chấm dứt; Cách mạng Tháng Mười Nga chỉ là “cuộc nổi dậy mang tính chất Nga thuần túy”; việc thiết lập Nhà nước công - nông Xô viết là “đi chệch” quy luật phát triển chung của xã hội loài người, v.v.

Song, sự xuyên tạc của họ chỉ là công “dã tràng”. Bởi, thực tiễn đã minh chứng dù thời cuộc có nhiều chuyển biến, nhưng luận điểm “một cuộc cách mạng chỉ có giá trị khi nào nó biết tự vệ” vẫn còn nguyên giá trị. Ghi nhớ lời chỉ dẫn của V.I. Lênin “hãy nhớ rằng chúng ta không được phép lơi là một giây phút nào trong việc bảo vệ công nhân và nông dân của ta và bảo vệ những thành quả của họ”5, đòi hỏi toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta kiên định, tiếp tục vận dụng linh hoạt, sáng tạo những vấn đề cơ bản về mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và chế độ xã hội chủ nghĩa. Tập trung xây dựng cả tiềm lực và thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân, xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố vững chắc; xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, lấy xây dựng vững mạnh về chính trị làm cơ sở, nhằm nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu. “Kiên quyết, kiên trì bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa,… phát hiện sớm và xử lý kịp thời những yếu tố bất lợi, nhất là những yếu tố nguy cơ gây đột biến; đẩy mạnh đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hoạt động chống phá của các thế lực thù địch”6. Đặc biệt, luôn nhận thức, quán triệt sâu sắc luận điểm của V.I. Lênin: “một cuộc cách mạng chỉ có giá trị khi nào nó biết tự vệ”, coi đó là một nguyên tắc bất biến trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

PGS, TS. VŨ QUANG VINH, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh
________________

1 - V.I. Lênin – Toàn tập, Tập 37, Nxb CTQG, H. 2005, tr. 37.

2 - Sđd, tr. 145.

3 - Hồ Chí Minh –Toàn tập, Tập 12, Nxb CTQG, H. 2011, tr. 300.

4 - Sđd, Tập 4, tr. 03.

5 - V.I. Lênin –Toàn tập,Tập 44, Nxb CTQG, H. 2005, tr. 370 - 371.

6 - ĐCSVN – Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập I, Nxb CTQGST, H. 2021, tr. 117.