Ông tổ ngành y là ai

Lê Hữu Trác, còn gọi Hải Thượng Lãn Ông, sinh ngày 12-11 năm Canh Tý (1720) tại xóm Văn Xá, hương Liêu Xá, huyện Đường Hào, phủ Thượng Hồng, trấn Hải Dương (nay là xã Liêu Xá, huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên).

Dòng tộc Lê Hữu Trác vốn có truyền thống khoa bảng; ông nội, bác, chú (Lê Hữu Kiều), anh và em họ đều đỗ Tiến sĩ và làm quan to. Thân sinh của ông từng đỗ Đệ tam giáp Tiến sĩ, làm Thị lang Bộ Công triều Lê Dụ Tông, gia phong chức Ngự sử, tước Bá, khi mất được truy tặng hàm Thượng thư. Khi ấy, Lê Hữu Trác mới 20 tuổi, ông phải rời kinh thành về quê nhà, vừa trông nom gia đình vừa chăm chỉ đèn sách, mong nối nghiệp gia đình, lấy đường khoa cử để tiến thân.

Nhưng xã hội bấy giờ rối ren, các phong trào nông dân nổi dậy khắp nơi. Chỉ một năm sau (1740), Lê Hữu Trác bắt đầu nghiên cứu thêm binh thư và võ nghệ, "nghiên cứu trong vài năm cũng biết được đại khái, mới đeo gươm tòng quân để thí nghiệm sức học của mình".

Chẳng bao lâu sau, ông nhận ra xã hội thối nát, chiến tranh chỉ tàn phá và mang bao đau thương, làm ông chán nản muốn ra khỏi quân đội, nên đã nhiều lần từ chối sự đề bạt. Đến năm 1746, nhân khi người anh ở Hương Sơn mất, ông liền viện cớ về nuôi mẹ già, cháu nhỏ thay anh, để xin ra khỏi quân đội, thực sự "bẻ tên cởi giáp" theo đuổi chí hướng mới.

Lê Hữu Trác bị bệnh từ lúc ở trong quân ngũ, giải ngũ về phải gánh vác công việc vất vả "trăm việc đổ dồn vào mình, sức ngày một yếu", lại sớm khuya đèn sách không chịu nghỉ ngơi, sau mắc cảm nặng, chạy chữa tới hai năm mà không khỏi. Sau nhờ lương y Trần Độc, người Nghệ An là bậc lão nho, học rộng biết nhiều nhưng thi không đỗ, trở về học thuốc, nhiệt tình chữa khỏi.

Trong thời gian hơn một năm chữa bệnh, nhân khi rảnh rỗi ông thường đọc "Phùng thị cẩm nang" và hiểu được chỗ sâu xa của sách thuốc. Ông Trần Độc thấy lạ, bèn đem hết những hiểu biết về y học truyền cho ông. Vốn là người thông minh học rộng, Lê Hữu Trác mau chóng hiểu sâu y lý, tìm thấy sự say mê ở sách y học, nhận ra nghề y không chỉ lợi ích cho mình mà có thể giúp người đời, nên ông quyết chí học thuốc.

Ở Hương Sơn, ông làm nhà cạnh rừng đặt tên hiệu "Hải Thượng Lãn ông". Hải Thượng là hai chữ đầu của tỉnh Hải Dương và phủ Thượng Hồng quê cha và cũng là xứ Bầu Thượng quê mẹ. "Lãn ông" nghĩa là "ông lười", ngụ ý lười biếng, chán ghét công danh, tự giải phóng mình khỏi sự ràng buộc của danh lợi, của quyền thế, tự do nghiên cứu y học, thực hiện chí hướng mà mình yêu thích gắn bó.

Mùa thu năm Bính Tý (1756), Lê Hữu Trác ra kinh đô mong tìm thầy để học thêm vì ông thấy y lý mênh mông nhưng không gặp được thầy giỏi, ông đành bỏ tiền mua một số phương thuốc gia truyền, trở về Hương Sơn "từ khước sự giao du, đóng cửa để đọc sách", vừa học tập và chữa bệnh. Mười năm sau tiếng tăm của ông đã nổi khắp vùng Hoan Châu.

Sau mấy chục năm tận tụy với nghề, Hải Thượng Lãn ông đã nghiên cứu rất sâu lý luận Trung y qua các sách kinh điển: Nội kinh, Nam kinh, Thương hàn, Kim quỹ; tìm hiểu nền y học cổ truyền của dân tộc; kết hợp với thực tế chữa bệnh phong phú của mình, ông hệ thống hóa tinh hoa của lý luận Đông y cùng với những sáng tạo đặc biệt qua việc áp dụng lý luận cổ điển vào điều kiện Việt Nam, đúc kết nền y học cổ truyền của dân tộc. 

Sau hơn chục năm viết nên bộ "Y tôn tâm lĩnh" gồm 28 tập, 66 quyển bao gồm đủ các mặt về y học: Y đức, Y lý, Y thuật, Dược, Di dưỡng. Ông đã tạo nền móng phát triển cho ngành Đông y Việt Nam. Phần quan trọng nữa của bộ sách phản ảnh sự nghiệp văn học và tư tưởng của Hải Thượng Lãn ông.

Lê Hữu Trác là đại danh y có đóng góp lớn cho nền y học dân tộc Việt Nam, trong đó có thuốc Nam, kế thừa xuất sắc sự nghiệp "Nam dược trị Nam nhân" của Tuệ Tĩnh thiền sư. 

Ông để lại nhiều tác phẩm lớn như Hải Thượng y tông tâm lĩnh gồm 28 tập, 66 quyển chắt lọc tinh hoa của y học cổ truyền, được đánh giá là công trình y học xuất sắc nhất trong thời Trung đại Việt Nam và các cuốn như “Lĩnh Nam bản thảo”, “Thượng kinh ký sự” không chỉ có giá trị về y học mà còn có giá trị văn học, lịch sử, triết học.

Hoàng Ưng

"Bức họa sống" chân dung ông tổ ngành y Việt Nam

Hướng tới kỷ niệm 300 năm ngày sinh của Y tổ Việt Nam Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác (1720-2020), ngày 4-11, tại sân Trường ĐH Y Dược TP HCM (quận 5), 66 tân sinh viên đã tham gia "bức họa sống" chân dung ông tổ ngành y nước nhà.

  • Cách "sung sướng’" giúp loại bỏ chất độc gây bệnh nan y trong não

  • Hợp tác mở trung tâm điều trị ung thư quốc tế

Với chiều rộng 4,2 m, chiều dài 6,6 m, "bức họa sống" chân dung ông tổ ngành y Việt Nam thể hiện ý nghĩa biểu trưng cho 66 quyển trong bộ sách kinh điển của nền y học Việt Nam - "Hải Thượng Y tông tâm lĩnh" do chính Y tổ đã dày công viết ra; đồng thời nhằm thể hiện sự tri ân sâu sắc đối với Thần y đất Việt - người đã có công to lớn trong việc gìn giữ và xây dựng nền tảng y học nước nhà.

Bức chân dung Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác được các tân sinh viên ráp nối

Chương trình này do Khoa Y học cổ truyền Trường ĐH Y Dược TP HCM thực hiện. Sự kiện này cũng đã được Kỷ lục Guinness Việt Nam ghi nhận.

Tin-ảnh: Ng.Thạnh

Sinh ra trên đảo Aegean, Hy Lạp, khoảng giữa thế kỷ thứ 5 TCN, Hippocrates được coi là bác sĩ thực thụ đầu tiên, ông tổ của nền y học hiện đại.

Ở thời đại này, y học vẫn gắn liền với tôn giáo và bệnh tật thường được chữa trị bằng những hiện tượng siêu nhiên thần bí. Hippocrates đã bác bỏ những quan niệm này và trở thành người đầu tiên xem y học là ngành khoa học.

Các nhà sử học tin rằng Hippocrates đi khắp lục địa Hy Lạp và có thể cả Libya cùng Ai Cập để hành nghề y. Ông thành lập trường y, cùng với các môn đồ của mình đưa ra phương pháp khoa học để khám và điều trị cho người bệnh.

Theo quan điểm của Hippocrates, người thầy thuốc phải trực tiếp khám cho người bệnh và tìm ra bệnh qua các triệu chứng biểu hiện, phải bốc thuốc kê đơn sau đó theo dõi để xem việc điều trị có kết quả hay không.

Hippocrates cho rằng mỗi bệnh tật đều có nguyên nhân tự nhiên riêng. Tập hợp các tác phẩm do Hippocrates soạn thảo gồm hơn 60 cuốn sách y học Hippus Corpus, được coi là những tác phẩm cổ nhất về y học.

Trong các trang sách của mình, ông một sự hiểu biết thô sơ – nếu so với hiểu biết y khoa ngày này - về cách cơ thể hoạt động và bản chất của bệnh tật. Rất nhiều điều trong bộ sách của ông vẫn đúng cho đến ngày nay.

Ví dụ, ông cho rằng “chế độ ăn uống lành mạnh và tập luyện thể chất là một phương thuốc hữu hiệu cho hầu hết các bệnh” và chỉ ra cách định vị khớp, tầm quan trọng của việc lưu giữ hồ sơ về lịch sử và cách điều trị, mối quan hệ giữa thời tiết và một số bệnh tật...

Một di sản bất hủ ông để lại cho hậu thế chính là lời thề Hippocrates, được coi như một bản tuyên ngôn về y đức dành cho những người làm thầy thuốc.

Một số nguyên lý cơ bản của lời thề bao gồm thực hành y học với khả năng tốt nhất của một người, chia sẻ kiến thức với các bác sĩ khác, thái độ thông cảm, từ bi, tôn trọng quyền riêng tư của bệnh nhân và giúp ngăn ngừa bệnh tật bất cứ khi nào có thể.

Ngày nay, tại nhiều trường y khoa trên thế giới, lời thề Hippocrates vẫn được các sinh viên đọc lên trong nghi thức tuyên thệ bắt đầu sự nghiệp bác sĩ của mình.

T.B (Kiến Thức)

Video liên quan

Chủ đề