Sau khi thống nhất đất nước vua Đinh có chính sách ngoại giao như thế nào đối với nhà Tống

sau khi thống nhất đất nước vua Đinh đã có chính sách ngoại giao như thế nào đối với nhà Tống

Home/ Môn học/Lịch sử/sau khi thống nhất đất nước vua Đinh đã có chính sách ngoại giao như thế nào đối với nhà Tống

Mục lục

  • 1 Lịch sử
    • 1.1 Bắc Tống, 960–1127
    • 1.2 Nam Tống, 1127–1279
  • 2 Văn hóa và xã hội
    • 2.1 Khoa cử và tầng lớp thân sĩ
    • 2.2 Luật, tư pháp và khoa học pháp y
    • 2.3 Quân đội và phương pháp tác chiến
    • 2.4 Nghệ thuật, văn học và triết học
    • 2.5 Ẩm thực và phục trang
  • 3 Kinh tế
  • 4 Khoa học và kỹ thuật
    • 4.1 Chiến tranh thuốc súng
    • 4.2 Đo khoảng cách và định hướng cơ học
    • 4.3 Nhà bác học, phát minh và thiên văn học
    • 4.4 Toán học và bản đồ học
    • 4.5 Kỹ thuật in chữ rời
    • 4.6 Kỹ thuật thủy lực và hàng hải
    • 4.7 Kỹ thuật kết cấu và kiến trúc
    • 4.8 Khảo cổ học
  • 5 Xem thêm
  • 6 Ghi chú
  • 7 Tham khảo
    • 7.1 Chú thích
    • 7.2 Thư mục
  • 8 Đọc thêm
  • 9 Liên kết ngoài

Lịch sửSửa đổi

Bắc Tống, 960–1127Sửa đổi

Sau khi soán ngôi Hoàng đế Hậu Chu, Tống Thái Tổ (trị.960–976) dành 16 năm để chinh phục nhiều tiểu quốc còn lại trên khắp Trung Quốc, thống nhất được phần lớn vùng lãnh thổ từng thuộc về hai đế chế Hán và Đường, kết thúc thời kỳ phân liệt Ngũ đại Thập quốc.[1] Tại Khai Phong, Tống Thái Tổ xây dựng một chính quyền trung ương tập quyền cao độ bao trùm cả đế quốc. Định đô ở Khai Phong được xem như dấu mốc khởi đầu thời kỳ Bắc Tống. Tống Thái Tổ đảm bảo tính ổn định hành chính bằng cách thúc đẩy hệ thống khoa cử, trong đó thiết lập phương thức lựa chọn quan chức nhà nước theo năng lực và thành tích (thay vì theo địa vị quý tộc hay địa vị quân sự), đồng thời xúc tiến các dự án đảm bảo thông tin liên lạc hiệu quả trên khắp đất nước. Trong một dự án như vậy, các họa sĩ vẽ bản đồ chi tiết ở từng địa phương rồi tập hợp chúng lại với nhau thành một tập bản đồ lớn.[12] Tống Thái Tổ cũng thúc đẩy những đổi mới khoa học và công nghệ mang tính đột phá, hỗ trợ cho nhiều công trình như tháp đồng hồ thiên văn do kỹ sư Trương Tư Huấn thiết kế và xây dựng.[13]

Tống Thái Tổ (trị.960–976), tranh chân dung cung đình.

Triều đình nhà Tống duy trì quan hệ ngoại giao với Chola ở Ấn Độ, Fatima ở Ai Cập, Srivijaya, Hãn quốc Khách Lạt ở Trung Á, Vương quốc Cao Ly ở Triều Tiên và một số quốc gia khác cùng là đối tác thương mại với Nhật Bản.[14][15][16][17][18] Tống sử thậm chí còn đề cập tới sự xuất hiện vào năm 1081 của một đại sứ quán Đông La Mã thừa mệnh Hoàng đế Michael VII Doukas. Tuy nhiên, chính những quốc gia láng giềng thân cận mới tác động mạnh mẽ đến chính sách đối nội và đối ngoại của nhà Tống. Ngay từ những năm đầu thành lập dưới thời Tống Thái Tổ, nhà Tống đã phải tiến hành xen kẽ các biện pháp chiến tranh và ngoại giao với nhà Liêu của người Khiết Đan ở phía đông bắc và Tây Hạ của người Đảng Hạng ở phía tây bắc. Nhà Tống sử dụng sức mạnh quân sự với mong muốn dẹp yên nhà Liêu và chiếm lại Yên Vân thập lục châu, một vùng đất đai do người Khiết Đan kiểm soát, mà theo truyền thống được coi như một phần của Trung Quốc bản thổ (hầu hết các phần lãnh thổ Bắc Kinh và Thiên Tân ngày nay).[19] Quân Liêu đẩy lùi quân Tống, tổ chức nhiều chiến dịch thường niên uy hiếp Bắc Tống mãi cho tới năm 1005, khi Hiệp ước Thiền Uyên chấm dứt tình trạng giao tranh biên giới dai dẳng. Người Hán buộc phải triều cống cho người Khiết Đan, mặc dù điều này thực tế ít gây thiệt hại cho kinh tế Bắc Tống vì chính nhà Liêu lại phụ thuộc vào việc nhập khẩu một lượng lớn hàng hóa từ Bắc Tống.[20] Đáng chú ý hơn, nhà Tống đã phải công nhận nhà Liêu bình đẳng với mình về mặt ngoại giao.[21] Nhà Tống kiến tạo một cánh rừng phòng thủ rộng lớn dọc theo biên giới Tống–Liêu để ngăn chặn các đợt tấn công tiềm tàng của kỵ binh Khiết Đan.[22]

Đầu thế kỷ 11, nhà Tống giành được một số chiến thắng quân sự trước Tây Hạ, đỉnh cao là chiến dịch do nhà bác học, tướng lĩnh kiêm chính khách Thẩm Quát (1031–1095) chỉ huy.[23] Tuy nhiên, chiến dịch trên không đem lại thành công chung cuộc khi viên sĩ quan đối địch với Thẩm Quát không tuân theo mệnh lệnh trực tiếp, khiến nhà Tống để mất phần lãnh thổ vừa giành được từ Tây Hạ.[24] Nhà Tống chiến tranh với Vương quốc Đại Việt hai lần, lần đầu vào năm 981 và lần thứ hai kéo dài từ năm 1075 đến năm 1077, liên quan tới vấn đề tranh chấp biên giới và việc nhà Tống cắt đứt quan hệ thương mại với Đại Việt.[25] Sau khi quân Đại Việt đột kích Quảng Tây, gây thiệt hại nặng nề, chỉ huy quân Tống là Quách Quỳ (1022–1088) dẫn quân tới tận Thăng Long (Hà Nội ngày nay).[26] Tổn thất to lớn mà cả hai bên phải gánh chịu đã buộc tướng Đại Việt là Lý Thường Kiệt (1019–1105) phải chọn giải pháp hòa bình, cho phép hai quốc gia cùng từ bỏ nỗ lực tham chiến. Năm 1082, Bắc Tống và Đại Việt tiến hành trao trả lãnh thổ chiếm đóng và tù binh chiến tranh.[27]

Một cái gối làm từ sa thạch, có niên đại từ thời Bắc Tống, thế kỷ 12.

Suốt thế kỷ 11, nhiều cuộc đấu chính trị đã diễn ra giữa các đại thần trong triều đình nhà Tống, xoay quanh cách tiếp cận, quan điểm và chính sách khác nhau về việc xử lý một xã hội phức tạp và một nền kinh tế đang phát triển mạnh mẽ của đế quốc. Phó tể tướng theo chủ nghĩa lý tưởng hóa Phạm Trọng Yêm (989–1052) là người đầu tiên đón nhận làn sóng phản ứng chính trị dữ dội khi ông cố gắng tiến hành cải cách "Khánh Lịch tân chính", bao gồm các biện pháp cải thiện hệ thống tuyển dụng quan chức, tăng lương cho các chức quan nhỏ và thiết lập các chương trình tài trợ để có thêm nhiều người được giáo dục tốt, đủ điều kiện phục vụ nhà nước.[28]

Sau khi Phạm Trọng Yêm bị buộc phải từ chức, Vương An Thạch (1021–1086) nhậm chức tể tướng. Với sự hậu thuẫn của Tống Thần Tông (1067–1085), Vương An Thạch chỉ trích gay gắt hệ thống giáo dục và bộ máy quan liêu. Tìm cách giải quyết những gì mà bản thân coi là hủ bại và cẩu thả, Vương An Thạch thực hiện hàng loạt cải cách gọi là "Tân pháp", liên quan tới việc đổi mới thuế giá trị đất, thành lập một số công ty độc quyền chính quyền, hỗ trợ dân quân địa phương và đặt ra những tiêu chuẩn cao hơn cho kỳ khoa cử để có thể tuyển dụng được những quan chức có trình độ quản trị nhà nước.[29]

Tân pháp đã tạo ra các phe phái đối lập trong triều đình. Phái "Biến pháp" của Vương An Thạch bị phản đối bởi phái "Cựu đảng" do sử gia kiêm tể tướng Tư Mã Quang (1019–1086) cầm đầu.[30] Khi người của phe này thay thế phe kia nắm giữ đa số vị trí quan trọng trong triều đình, họ sẽ giáng chức và điều chuyển các quan chức đối thủ tới vùng biên cương xa xôi.[29] Một trong những nạn nhân quyền đấu nổi tiếng nhất là nhà thơ, chính khách Tô Đông Pha (1037–1101), người bị bỏ tù rồi mất chức vì dám chỉ trích cải cách của Vương An Thạch.[29]

Một bức tượng tạc bằng gỗ đa sắc thời nhà Liêu (907–1125), tỉnh Sơn Tây, Trung Quốc.

Trong khi triều đình vẫn đang liên tục chia rẽ chính trị và loay hoay với các vấn đề nội bộ, nhà Tống bắt đầu chú ý tới những sự kiện đáng báo động đang diễn ra ở nhà Liêu. Người Nữ Chân, một bộ tộc thần phục nhà Liêu, đã nổi dậy và tuyên bố khai sinh nhà Kim (1115–1234).[31] Hoạn quan Đồng Quán (1054–1126) khuyên Tống Huy Tông (1100–1125) nên bắt tay với người Nữ Chân. Liên minh Tống–Kim được thiết lập thông qua Hải thượng chi minh, tiến hành một chiến dịch quân sự chung chinh phục hoàn toàn nhà Liêu vào năm 1125. Trong quá trình đó, quân Tống viễn chinh đã phá bỏ cánh rừng phòng thủ dọc biên giới Tống–Liêu.[22]

Tuy nhiên, màn trình diễn tệ hại và nội lực yếu kém của quân đội nhà Tống không thoát khỏi tầm quan sát của người Nữ Chân, họ lập tức phá vỡ liên minh, phát động Chiến tranh Kim–Tống, cao điểm trong hai năm 1125 và 1127. Không phải đối mặt với cánh rừng phòng thủ, quân Kim hành quân nhanh chóng qua đồng bằng Hoa Bắc tiến đến Khai Phong.[22] Trong Sự kiện Tĩnh Khang ở lần xâm lược thứ hai, người Nữ Chân không chỉ chiếm được kinh đô, mà còn bắt sống cả Thượng hoàng Huy Tông và Hoàng đế Khâm Tông cùng hầu hết thành viên triều đình Bắc Tống.[31]

Các lực lượng tàn dư của nhà Tống tập hợp lại dưới quyền Tống Cao Tông (1127–1162), rút về phía nam sông Dương Tử để thành lập một kinh đô mới tại Lâm An. Cuộc chinh phạt Hoa Bắc của người Nữ Chân và chuyến dời đô từ Khai Phong tới Lâm An của triều đình nhà Tống chính là ranh giới phân chia hai thời kỳ Bắc Tống và Nam Tống.

Sụp đổ trước cuộc xâm lược của nhà Kim, nhà Tống mất quyền kiểm soát miền bắc Trung Quốc. Giờ đây, khi đã làm chủ được cái gọi là "Trung Quốc bản thổ", nhà Kim tự coi mình là những người cai trị Trung Quốc chính danh. Họ chọn "thổ" làm nguyên tố đại diện hoàng triều và màu vàng làm màu hoàng gia. Theo thứ tự trong thuyết Ngũ hành, "thổ" theo sau "hỏa", nguyên tố đại diện cho hoàng triều Tống. Động thái mang tính ý thức hệ trên cho thấy nhà Kim coi như thiên mệnh của nhà Tống đã chấm dứt và họ sẽ thay thế nhà Tống trở thành những người cai trị Trung Quốc bản thổ hợp pháp.[32]

Nam Tống, 1127–1279Sửa đổi

Nam Tống vào năm 1142.

Mặc dù đã suy yếu và bị đẩy về phía nam sông Hoài, Nam Tống vẫn tìm ra những phương án mới để củng cố nền kinh tế vững mạnh và tự vệ trước nhà Kim. Quân đội Nam Tống được chỉ huy bởi những tướng lĩnh có năng lực như Nhạc Phi và Hàn Thế Trung. Chính quyền tài trợ cho các dự án đóng tàu và cải thiện bến cảng quy mô, đồng thời tiến hành xây dựng nhiều mốc hiệu và kho tàng cảng biển để hỗ trợ thương mại hàng hải với nước ngoài. Những cảng biển quốc tế lớn như Tuyền Châu, Quảng Châu và Hạ Môn, là điểm tựa của ngành thương mại Trung Quốc.[33][34][35]

Để bảo vệ và hỗ trợ cho vô số tàu thuyền qua lại vì lợi ích hàng hải ở Biển Hoa Đông, Hoàng Hải, Đông Nam Á, Ấn Độ Dương và Biển Đỏ, cần phải có hải quân thường trực.[36] Do đó, năm 1132, triều đình Nam Tống đã thành lập lực lượng hải quân thường trực đầu tiên trong lịch sử Trung Quốc,[35] có trụ sở chính đặt tại Định Hải.[37] Với hải quân chuyên nghiệp, năm 1161, Nam Tống sẵn sàng đối đầu với nhà Kim trên sông Dương Tử. Trong trận Đường Đảo và Thái Thạch, hải quân Nam Tống đã sử dụng tàu chiến mái guồng trang bị máy trebuchet phóng bom thuốc súng.[37] Mặc dù có tới 7 vạn binh sĩ, hơn 600 tàu chiến, nhưng hải quân Kim do Hoàn Nhan Lượng (Hải Lăng vương) chỉ huy vẫn nhận thất bại trong cả hai trận chiến với hải quân Nam Tống chỉ có vỏn vẹn 3 nghìn binh sĩ và 120 tàu chiến,[38] khi phải hứng chịu những đợt tấn công chớp nhoáng bằng bom thuốc súng từ các tàu chiến mái guồng.[39] Nam Tống tiếp tục phát triển sức mạnh hải quân. Một thế kỷ sau khi thành lập, quân chủng hải quân của đế quốc này đã có tới 52 nghìn lính thủy đánh bộ.[37]

Chính quyền Nam Tống tịch thu đất đai của thân sĩ để tăng huê lợi, phục vụ cho các dự án quốc gia kể trên, một hành động gây ra sự bất bình và làm mất đi lòng trung thành trong nội bộ tầng lớp lãnh đạo, nhưng không ngăn cản được tâm thế sẵn sàng phòng thủ của nhà Tống.[40][41][42] Vấn đề tài chính công trở nên tồi tệ hơn bởi thực tế là nhiều gia đình chủ đất giàu có – một số có quan chức làm việc cho triều đình – đã sử dụng mối quan hệ xã hội với những người đang tại chức để được miễn thuế.[43]

Tượng Bồ Tát bằng gỗ trong tư thế ngồi, nhà Kim (1115–1234).

Mặc dù Nam Tống có thể kiềm chế được nhà Kim, nhưng họ lại sắp sửa phải đối mặt với một thế lực mới thống trị vùng thảo nguyên, sa mạc và đồng bằng phía bắc nhà Kim. Người Mông Cổ, do Thành Cát Tư Hãn (trị.1206–1227) lãnh đạo, ban đầu mới chỉ xâm lược nhà Kim vào hai năm 1205 và 1209 thông qua nhiều cuộc đột kích lớn khắp biên giới, nhưng tới năm 1211, họ quyết định tập hợp một lực lượng khổng lồ để tổng lực chinh phạt nhà Kim.[44] Nhà Kim thất trận, buộc phải phục tùng và cống nạp cho Mông Cổ như một nước chư hầu; khi người Nữ Chân đột ngột dời đô từ Bắc Kinh đến Khai Phong, người Mông Cổ liền cho rằng đây là một động thái nổi loạn.[45] Dưới sự chỉ huy của Oa Khoát Đài (trị.1229–1241), người Mông Cổ chinh phục cả nhà Kim lẫn Tây Hạ trong hai năm 1233, 1234.[45][46]

Mông Cổ từng liên minh với Nam Tống, nhưng liên minh này nhanh chóng đổ vỡ khi Nam Tống chiếm lại ba cố đô là Khai Phong, Lạc Dương và Trường An ngay khi nhà Kim diệt vong. Sau cuộc xâm lược Đại Việt lần đầu vào năm 1258, tướng Mông Cổ Ngột Lương Hợp Thai tấn công Quảng Tây từ Thăng Long, như một phần chiến lược phối hợp tác chiến vào năm 1259 của người Mông Cổ với các đạo quân chia làm hai nhóm, một nhóm giáp công Tứ Xuyên dưới sự lãnh đạo của Đại hãn Mông Kha, nhóm còn lại tấn công Sơn Đông và Hà Nam. Ngày 11 tháng 8 năm 1259, Mông Kha qua đời giữa cuộc vây hãm pháo đài Điếu Ngư ở Trùng Khánh.[47]

Cái chết của Mông Kha và cuộc khủng hoảng kế vị ngay sau đó đã buộc Húc Liệt Ngột kéo phần lớn lực lượng Mông Cổ ra khỏi Trung Đông, nơi họ sẵn sàng chiến đấu với các chiến binh Mamluk (những người đã chặn đứng nhóm quân Mông Cổ còn lại tại Ain Jalut). Dù liên minh với Hốt Tất Liệt, nhưng người của Húc Liệt Ngột cũng chẳng thể giúp gì nhiều trong cuộc chinh phạt Nam Tống do vướng vào cuộc nội chiến với Hãn quốc Kim Trướng.[48]

Hốt Tất Liệt tiếp tục nỗ lực tấn công Nam Tống, giành được một chỗ đứng tạm thời ở bờ nam sông Dương Tử.[49] Mùa đông năm 1259, Ngột Lương Hợp Thai lên phía bắc để hội quân với Hốt Tất Liệt lúc này đang bao vây Ngạc Châu, Hồ Bắc. Dù đã sẵn sàng để giành lấy Ngạc Châu, nhưng vì cuộc nội chiến đang chờ xử lý với người em trai A Lý Bất Ca, Hốt Tất Liệt đành phải trở lại phía bắc với phần lớn lực lượng của mình.[50] Khi Hốt Tất Liệt vắng mặt, quân Nam Tống thừa lệnh Thừa tướng Giả Tự Đạo, lập tức tổ chức phản kích và đã thành công trong việc đẩy quân Mông Cổ quay trở lại bờ bắc sông Dương Tử.[51] Tiếp tục có những giao tranh nhỏ dọc biên giới Tống–Mông cho đến năm 1265, khi Hốt Tất Liệt thắng một trận quan trọng ở Tứ Xuyên.[52]

Từ năm 1268 đến 1273, Hốt Tất Liệt triển khai hải quân phong tỏa sông Dương Tử và bao vây Tương Dương, chướng ngại vật cuối cùng trên con đường xâm lược lưu vực sông Dương Tử trù phú.[52] Năm 1271, Hốt Tất Liệt chính thức tuyên bố thành lập nhà Nguyên. Năm 1275, 13 vạn quân Nam Tống dưới quyền Giả Tư Đạo bị "tổng tư lệnh" mới bổ nhiệm của Hốt Tất Liệt là tướng Bá Nhan đánh bại.[53] Năm 1276, quân Nguyên kiểm soát hầu hết lãnh thổ Nam Tống, bao gồm cả kinh đô Lâm An.[46]

Năm 1279, trong trận Nhai Môn, Trương Hoằng Phạm chỉ huy quân Nguyên dập tắt nỗ lực kháng chiến cuối cùng của Nam Tống trên đồng bằng Châu Giang. Hoàng đế Nam Tống cuối cùng, Tống Thiếu Đế, khi đó mới 13 tuổi, đã tự sát cùng Thừa tướng Lục Tú Phu và 1.300 thành viên hoàng tộc.[54] Bá Nhan theo lệnh Hốt Tất Liệt, không làm hại những thành viên hoàng tộc Nam Tống còn lại; Tống Cung Đế bị phế xuống làm "Doanh quốc công" nhưng rồi cũng bị đày tới Tây Tạng, nơi ông chọn con đường xuất gia. Tống Cung Đế buộc phải tự sát theo lệnh chắt nội của Hốt Tất Liệt, Cách Kiên Hãn, người sợ rằng cựu hoàng Nam Tống sẽ lãnh đạo một cuộc đảo chính.[55] Nhiều hoàng thân Nam Tống vẫn tiếp tục sinh sống và làm việc dưới thời nhà Nguyên, chẳng hạn như Triệu Mạnh Phủ và Triệu Ung.

Mục lục

  • 1 Lịch sử
    • 1.1 Thống nhất giang sơn
    • 1.2 Đinh Tiên Hoàng
    • 1.3 Đinh Phế Đế
  • 2 Nội trị
    • 2.1 Bộ máy chính quyền
    • 2.2 Quân đội
    • 2.3 Pháp luật
  • 3 Đối ngoại
  • 4 Nhận định
  • 5 Di tích thời nhà Đinh
  • 6 Chú thích
  • 7 Tham khảo
  • 8 Liên kết ngoài

Lịch sửSửa đổi

Thống nhất giang sơnSửa đổi

Năm 944, Ngô Quyền (vua tự xưng là Ngô Vương) mất, anh/em vợ là Dương Tam Kha cướp ngôi của nhà Ngô, xưng Dương Bình Vương. Các nơi không chịu thuần phục, nhiều thủ lĩnh nổi lên cát cứ các vùng thường đem quân đánh lẫn nhau.

Con trưởng của Ngô Quyền là Ngô Xương Ngập bỏ trốn. Dương Tam Kha nhận Ngô Xương Văn - con thứ của Ngô Quyền - làm con nuôi. Năm 950, Ngô Xương Văn lật đổ Dương Tam Kha, trở thành Nam Tấn Vương. Ngô Xương Ngập được đưa về, cũng làm vua, là Thiên Sách Vương. Đó là thời Hậu Ngô Vương.

Năm 954, Ngô Xương Ngập chết. Đến năm 965, Ngô Xương Văn chết, con Ngô Xương Ngập là Ngô Xương Xí nối nghiệp. Nhưng vì thế lực suy yếu nên lui về giữ đất Bình Kiều. Quý tộc nhà Ngô, các tướng nhà Ngô cùng các thủ lĩnh địa phương đều nổi dậy chiếm cứ một vùng. Bắt đầu từ đó hình thành thế cục mà sử sách gọi là loạn 12 sứ quân.

Trong số các lực lượng nổi dậy chống triều đình, nổi lên Đinh Bộ Lĩnh (Đinh Hoàn). Ông là người Hoa Lư, châu Đại Hoàng. Có cha là Đinh Công Trứ - nha tướng của Dương Đình Nghệ, giữ chức Thứ sử Hoan Châu(Nghệ An, Hà Tĩnh ngày nay).

Thời kỳ đó, Đinh Bộ Lĩnh đã cùng những người thân thiết tổ chức lực lượng, rèn vũ khí, xây dựng căn cứ ở Hoa Lư. Sau vì bất đồng với người chú, Đinh Bộ Lĩnh cùng con trai Đinh Liễn sang đầu quân trong đạo binh của Sứ quân Trần Minh Công (Trần Lãm) ở Bố Hải Khẩu. Sau khi Trần Minh Công chết,[3] Đinh Bộ Lĩnh thay quyền, chiêu mộ binh lính, chiêu dụ được sứ quân Phạm Bạch Hổ cùng nhiều sứ quân khác chống nhà Ngô và tiến đánh các sứ quân còn lại.

Trong hơn 3 năm, nhờ tài năng của mình, Đinh Bộ Lĩnh được nhân dân nhiều địa phương giúp sức, ủng hộ, đánh đâu thắng đấy, được tôn là Vạn Thắng vương. Các sứ quân lần lượt bị đánh bại hoặc xin hàng. Tình trạng cát cứ chấm dứt. Cuối năm 967, đất nước trở lại bình yên, thống nhất.

Đinh Tiên HoàngSửa đổi

Năm 968, Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi Hoàng đế, tự xưng là Đại Thắng Minh Hoàng đế, tức là Đinh Tiên Hoàng, đặt quốc hiệu là Đại Cồ Việt, đóng đô ở Hoa Lư.

Đinh Bộ Lĩnh có ba con trai: Đinh Liễn, Đinh Toàn (Đinh Tuệ) và Đinh Hạng Lang. Đinh Liễn là con cả, đã cùng Đinh Bộ Lĩnh đánh dẹp 12 sứ quân. Năm 978, Đinh Bộ Lĩnh lập con út là Hạng Lang làm thái tử. Đinh Liễn quá tức giận nên giết chết Hạng Lang vào mùa xuân năm 979.

Cuối năm 979, Đinh Tiên Hoàng và Đinh Liễn bị sát hại trong cung. Sử ghi thủ phạm là nội nhân Đỗ Thích, nhưng các nhà nghiên cứu gần đây đặt ra giả thiết khác, cho rằng chủ mưu là Lê Hoàn (sau này làm vua và gọi là Lê Đại Hành) và Dương hậu.

Đinh Phế ĐếSửa đổi

Năm 979 Đinh Toàn, con trai còn lại của Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi, là Đinh Phế Đế.

Đinh Toàn khi đó mới 6 tuổi. Quyền lực thực tế nằm trong tay Thập đạo tướng quân Lê Hoàn, là nhiếp chính. Các đại thần Đinh Điền, Nguyễn Bặc, Phạm Hạp thấy vậy, lại nghi Lê Hoàn tư thông cùng Thái hậu Dương Vân Nga nên cử binh đến đánh. Lê Hoàn dẹp tan, Đinh Điền, Nguyễn Bặc, Phạm Hạp đều bị giết chết. Phò mã Ngô Nhật Khánh bỏ trốn vào nam sang Chăm Pa, sau đó cùng vua Chăm Pa với hơn nghìn chiến thuyền định đến đánh kinh đô Hoa Lư nhưng bị bão chết.

Năm 980, nhà Tống rục rịch điều quân sang đánh Đại Cồ Việt, Thái hậu Dương Vân Nga cùng triều thần tôn Lê Hoàn lên làm vua, tức vua Lê Đại Hành. Nhà Đinh kết thúc, truyền được đến đời thứ hai, trị vì 12 năm (968-980).

Lê Hoàn sau khi lên ngôi lập ra nhà Tiền Lê đã đánh thắng quân Tống (tháng 4 năm 981). Đinh Toàn trở thành Vệ Vương có mặt trong triều đình Tiền Lê 20 năm. Năm 1001, trong lần cùng vua Lê Đại Hành đi dẹp loạn Cử Long thuộc vùng Cầm Thủy Thanh Hóa, Đinh Toàn bị trúng tên chết.

Nội trịSửa đổi

Bộ máy chính quyềnSửa đổi

Năm 971, Đinh Tiên Hoàng bắt đầu quy định cấp bậc văn võ trong triều đình. Trong triều có sự tham gia của các nhà sư vì những đóng góp của họ trong quá trình dẹp loạn 12 sứ quân[4]. Vua Đinh phong cho các quan văn võ:

  • Nguyễn Bặc làm Định quốc công
  • Đinh Điền làm Ngoại giáp
  • Lưu Cơ làm Đô hộ phủ sĩ sư (chức vụ coi việc hình án)
  • Lê Hoàn làm Thập đạo tướng quân
  • Tăng thống Ngô Chân Lưu được ban hiệu là Khuông Việt đại sư
  • Trương Ma Ni làm Tăng lục
  • Đạo sĩ Đặng Huyền Quang được trao chức Sùng chân uy nghi.

Năm 975 vua Đinh ban quy định áo mũ cho các quan văn võ[5]. Bộ máy chính quyền nhà Đinh vẫn được xem là còn đơn sơ[6].

Quân độiSửa đổi

Theo sử sách, quân đội nhà Đinh có mười đạo: mỗi đạo có 10 quân, 1 quân 10 lữ, 1 lữ 10 tốt, 1 tốt 10 ngũ, 1 ngũ 10 người. Như vậy tổng số theo lý thuyết là 1 triệu người.[cần dẫn nguồn]

Tuy nhiên, trong các nhà nghiên cứu có nhiều ý kiến cho rằng con số đó không có thực. Chữ Thập, theo Lê Văn Siêu, chỉ mang tính khái quát toàn thể về cách tổ chức kiểu "ngụ binh ư nông" như nhà Lý sau này, thời bình cho làm ruộng, chỉ huy động khi cần[7]; còn Trần Trọng Kim ước đoán quân đội nhà Đinh nhiều nhất chỉ có đến 10 vạn người[8].

Pháp luậtSửa đổi

Do ảnh hưởng nhiều năm từ thời loạn lạc, có nhiều người quen thói lúc loạn, không chịu tuân theo luật lệ. Do đó vua Tiên Hoàng dùng pháp luật nghiêm ngặt để trừng trị.

Đại Việt sử ký toàn thư ghi về việc này:

Vua [Đinh Tiên Hoàng] muốn dùng uy chế ngự thiên hạ, bèn đặt vạc lớn ở sân triều, nuôi hổ dữ trong cũi, hạ lệnh rằng: "Kẻ nào trái phép phải chịu tội bỏ vạc dầu, cho hổ ăn". Mọi người đều sợ phục, không ai dám phạm[5].

Trần Trọng Kim cho rằng "hình uy nghiêm như thế, thì cũng quá lắm, nhưng nhờ có những hình luật ấy thì dân trong nước mới dần dần được yên".[8]

Đối ngoạiSửa đổi

Nhà Tống đang trên đường thống nhất Trung Quốc sau hơn 50 năm loạn lạc. Quân Tống do Phan Mỹ chỉ huy đã áp sát nước Nam Hán ở cạnh nước Đại Cồ Việt. Năm 970 Đinh Tiên Hoàng sai sứ sang giao hảo với Tống Thái Tổ. Việc ngoại giao với phương Bắc từ đó được duy trì khá đều đặn và hòa bình.

Sang năm 972, Tiên Hoàng lại sai con cả Đinh Liễn đi sứ sang Biện Kinh. Năm 973, Đinh Liễn trở về, nhà Tống lại sai sứ sang phong cho Tiên Hoàng làm Giao Chỉ quận vương, Đinh Liễn làm Kiểm hiệu thái sư Tỉnh Hải quân Tiết độ sứ An Nam đô hộ[5].

Đầu năm 975, Tiên Hoàng lại sai Trịnh Tú đem vàng, lụa, sừng tê, ngà voi sang triều cống nhà Tống. Ngay mùa thu năm đó, nhà Tống sai Hồng lô tự khanh Cao Bảo Tự cùng Vương Ngạn Phù sang gia phong cho Nam Việt Vương Liễn làm Khai phủ nghi đồng tam ty, Kiểm hiệu thái sư, Giao Chỉ quận vương. Từ đó về sau, Đinh Liễn được giao làm chủ việc ngoại giao với nhà Tống[5].

Đến năm 976, vua Đinh sai em Trần Lãm là Phò mã Trần Nguyên Thái sang nhà Tống đáp lễ. Năm sau (977), ông lại sai sứ sang mừng vua Tống mới là Tống Thái Tông lên ngôi. Đó cũng là lần ngoại giao cuối cùng giữa nhà Đinh và nhà Tống mà sử sách đề cập.