So sánh 3 bài thơ thu của nguyễn khuyến năm 2024

Trước đây, ba bài thơ Thu ẩm, Thu điếu, Thu vịnh(1) của Nguyễn Khuyến đã được đánh giá khá nhiều. Những tác phẩm này được coi là biểu tượng của thơ Nôm của Nguyễn Khuyến, xác nhận Nguyễn Khuyến là 'nhà thơ của quê hương làng cảnh Việt Nam'(2). Hầu hết các tác giả thường khẳng định rằng ba bài thơ này là những bức tranh thơ, vẽ đúng tâm hồn của mùa thu ở làng quê đồng bằng Bắc Bộ; chứa đựng trong cảnh thu bình yên là nỗi u hoài thầm kín về nỗi đau thời thế nước mất nhà tan tác mà bản thân bất lực, bế tắc(3). Đúng là những nhận định này không hoàn toàn sai. Mỗi bài thơ thu của Nguyễn Khuyến thực sự là một bức tranh hùng vĩ bằng từ ngữ, diễn đạt đúng bản chất cảnh thu ở đồng bằng Bắc Bộ với những hình ảnh đặc trưng: bầu trời xanh, nước trong, lá vàng, khói trắng, ao, nhà, ngõ... Đọc ba bài thơ, ta có thể dễ dàng cảm nhận được không khí tĩnh lặng, êm đềm của làng quê theo bao đời. Tuy nhiên, nếu tiếp cận từ một góc nhìn khác, ta có thể nhận thấy sự đối lập với vẻ đẹp và yên bình mà ba bài thơ thu mang lại. Một số tác giả đã đề cập đến điều này, nhưng vẫn đề cao vẻ đẹp của bài thơ là hình ảnh tuyệt vời của mùa thu ở làng quê đồng bằng Bắc Bộ và sự thầm lặng, đau thương về thời thế được tác giả kín đáo gửi gắm(4). Trong bài viết này, chúng ta sẽ làm rõ thêm, nhấn mạnh theo một cách cảm nhận mới: ba bài thơ thu của Nguyễn Khuyến thực sự là một kết tinh của những trải nghiệm đau buồn, nỗi khốn cùng, sự thụ động và bế tắc cả về cảnh đẹp và tình cảm. Với ba bài thơ thu, Nguyễn Khuyến trở thành nhà thơ của những cảnh đau khổ, cảm giác tái tê đến ngột ngạt, hòa mình vào nỗi đau đớn của cuộc sống và thời kỳ.

1. Cảnh ngột ngạt, trống trơn, huyền bí, tàn tạ, chìm đắm

Ba tác phẩm thơ thu của Nguyễn Khuyến đồng loạt mô tả cảnh vật ngột ngạt, vắng lặng, hư ảo, tàn tạ, thụ động.

Trạng thái ngột ngạt hiện hữu qua nhiều hình ảnh hẹp hòi, tăm tối và cô đơn. Đó là ao, nhà, ngõ... Những không gian này khác biệt với văn chương truyền thống. Văn học trung đại thường chú trọng đến các không gian rộng lớn như biển, núi sông, đặt con người vào tầm vóc của vũ trụ để thể hiện sức mạnh anh hùng 'dọc ngang trời rộng, vẫy vùng bể khơi' (Truyện Kiều - Nguyễn Du). Nguyễn Khuyến chọn hướng đi khác. Bài Thu điếu mở đầu với hình ảnh cái ao bé nhỏ:

Ao thu lạnh lẽo nước trong veo

Cái ao làng, ao vườn thường là ao tù nước đọng, nhỏ hẹp so với hồ, đầm, phá... Đây là không gian có sự khác biệt đối với văn chương trung đại. Cái ao có bờ quây quanh, con con trong tầm mắt lại bị co lại bởi cái lạnh của mùa thu và độ trong veo của nước. Bằng cách này, với từ 'trong veo', cái ao lộ rõ giới hạn nhỏ của mình về chiều rộng và chiều sâu! Độ nhỏ của cái ao còn được nhấn mạnh thêm bởi vần 'eo' - âm này khi phát âm, miệng co lại! Ngay từ câu thơ mở đầu, vần eo đã xuất hiện ở hai từ: lạnh lẽo, trong veo. 'Eo' còn là vần chủ đạo của bài thơ: veo, teo, vèo, teo, bèo, tạo nên một cảm giác ngột ngạt, vây hãm! Như vậy, trạng thái nhỏ bé được thể hiện tới ba lần trong câu thơ đầu, mỗi từ ngữ sau càng làm cho độ hẹp trở nên rõ ràng hơn. Cái ao đã nhỏ đến cực điểm, thậm chí không thể nhỏ hơn. Tính chất bé nhỏ còn ám ảnh toàn bộ bài thơ khi tác giả chọn vần 'eo' cho toàn bài!

Khi đến câu thứ hai của bài Thu điếu, tính chất nhỏ bé tiếp tục gia tăng:

Một chiếc thuyền câu bé nhỏ xíu.

Trên bề mặt ao nhỏ, một chiếc thuyền xuất hiện, bé xíu như một chấm nhỏ, tẻo teo và không thể nhỏ hơn nữa! Tình trạng nhỏ bé này đã xuất hiện từ đầu trong bài Thu ẩm:

Năm gian nhà cỏ thấp le te, Ngõ tối đêm sâu đóm lập loè.

Cái nhà năm gian truyền thống của đồng bằng Bắc Bộ cuối thế kỉ XIX ban đầu nhỏ bé với chi tiết về sự nhỏ bé được mô tả bằng từ thấp. Nó thấp đến mức le te - tức là thấp đến cực điểm, hầu như không thể thấp hơn, chỉ đủ cho người cúi đầu ra vào. Trạng thái nhỏ hẹp này tiếp tục được thể hiện qua không gian ngõ. Ngõ mở rộng không gian chiều dài hơn một cái ao, một cái nhà, nhưng vẫn chật chội. Trong bài Thu điếu, ngõ quanh co - không thẳng - tính chất này càng làm tăng lên độ nhỏ hẹp của đường làng ngõ xóm. Trong Thu ẩm, ngõ chìm trong bóng đêm tối - ngõ tối. Độ tối một lần nữa làm tăng thêm độ hẹp của con ngõ! Mọi không gian đều tù túng, nhỏ bé! Từng hình ảnh đều thể hiện tính nhỏ bé: cái ao, cái ngõ, cái lá, chút sóng, bèo, con thuyền... Có thể nói, trạng thái eo hẹp, tăm tối khiến cảnh thơ thu của Nguyễn Khuyến có sắc thái ảm đạm, tù túng của cảnh nông thôn nghèo Bắc Bộ!

Cùng với sự ngột ngạt, tối tăm là trạng thái hư ảo, tàn tạ, thụ động. Ấn tượng này được biểu hiện trong rất nhiều hình ảnh dưới bầu trời xanh. Ba bài thơ thu của Nguyễn Khuyến, bất kỳ bài nào cũng có bầu trời xanh ngắt:

- Tầng mây lơ lửng trên bầu trời xanh ngắt, Ngõ trúc quanh co với không gian trống rỗng. (Thu điếu)

- Da trời nhuộm màu xanh ngắt, Mắt lão không vầy cũng đỏ hoe. (Thu ẩm)

- Bầu trời thu nhuộm một ánh xanh ngắt, Cây cỏ mềm mại, gió thoảng hiu quạnh. (Thu vịnh)

Bầu trời xanh là biểu tượng đặc trưng của mùa thu Bắc Bộ. Nó hiện lên như một hình ảnh thanh khiết, nhẹ nhàng trong tâm hồn nhiều người. Với thế hệ hiện đại, màu xanh đại diện cho hòa bình. Nhưng trong văn chương trung đại, hình ảnh bầu trời xanh còn mang theo ý niệm về một lực lượng siêu nhiên, chi phối mọi sự kiện trên trần gian. Quyền lực của bầu trời khiến con người đau khổ, cảm thấy bất lực trước những nỗi đau không giải thích được. Họ đặt ra những câu hỏi không lời đáp, day dứt, đau đớn trước trời:

Màu xanh kia đậm đặc trên trời, Làm sao mà nỗi đau không giải thích được? (Chinh phụ ngâm khúc - Đặng Trần Côn, Đoàn Thị Điểm)

Màu xanh trong văn chương cũng như vậy, đôi khi nó biểu hiện sự vô tận, khắc nghiệt của thiên nhiên. Khi màu xanh xuất hiện, nhiều nỗi đau buồn lan tỏa:

Trăm năm chẳng có gì lạ, Chỉ là một nấm cổ khâu xanh rì. (Cung oán ngâm khúc - Nguyễn Gia Thiều)

Sau này, thơ Vũ Hoàng Chương (1916-1976) cũng trình bày hai dòng thơ mang hơi thở xanh mát của triết lý:

Từ Trái Đất xuất phát, Lệ chia phôi xanh rì trùng dương. (Nhịp trúc mùa thơ)

Những vẻ xanh của trời, biển, cây cỏ, mồ... gây ám ảnh mạnh mẽ! Chúng là biểu tượng cho sự cao lớn và vĩnh cửu của thiên nhiên, trong khi thời gian tiếp tục trôi, và cây cỏ vẫn sinh sôi... Đối diện với màu xanh lạnh lùng ấy, con người trở nên tận thương, như thể tự nhiên không quan tâm đến những đau đớn của họ!

Quay lại với ba bài thơ thu của Nguyễn Khuyến. Bầu trời xanh giờ trở thành bức tranh nền, làm nổi bật sự hữu hạn, bé nhỏ của mọi thứ nói chung, con người nói riêng. Dưới bức tranh xanh ngắt kia, sự vụng trộm, hữu hạn của mọi sự vật và hiện tượng trở nên rõ ràng, tạo nên cảm giác thụ động, tàn tạ, hư ảo.

Cảm giác hư ảo, tàn tạ đầu tiên được thể hiện thông qua thời gian trong ba bài thơ. Cả ba đều lấy bối cảnh vào buổi chiều và tối của mùa thu. Những người xưa có quan niệm rõ ràng về yin và yang. Mùa thu, chiều tối thuộc về thời gian âm (yang là mùa xuân, mùa hạ; buổi sáng, buổi trưa...). Nguyễn Khuyến đặt thời gian âm của ngày vào thời gian âm của mùa. Chiều thu trong Thu vịnh. Rồi lại chiều và đêm lần lượt tiếp tục xuất hiện trong Thu ẩm, Thu điếu. Chỉ khác là lúc có trăng (Hòa bình nhìn ánh trăng; Bóng trăng soi bóng trên ao), lúc lại đen đến tận cùng, bóng tối phủ kín đường thôn (Con đường mòn bóng tối lạ thường). Thời gian buổi sáng là khởi đầu, buổi trưa là trung điểm của ngày; đến chiều tối, thời gian trở về âm. Cảm nhận về thời gian chiều tối này mang theo ý niệm về sự tàn lụi. Kèm theo sự tàn lụi là hư ảo (luôn thay đổi, biến đổi, thoắt chốc đã chuyển từ hình dạng này sang hình dạng khác). Trong khoảnh khắc tàn lụi, hư ảo của chiều tối mùa thu đó, những hình ảnh khác nhau liên tục xuất hiện trong chuỗi kết hợp với nó. Đó là cảnh cần trúc trong Thu vịnh:

Cây cần trúc lơ phơ, bị gió hắt hiu

Láy lơ phơ giữa cánh trúc tạo ra hình ảnh cần trúc mong manh, nhẹ nhàng. Trước làn gió hắt hiu, những cành trúc già cỗi, yếu đuối, mất đi sức sống. Hình ảnh lá vàng biểu hiện rõ hơn sự tàn tạ:

Lá vàng trước gió nhẹ nhàng đưa vèo

Chiếc lá vàng, từng tràn đầy sinh khí, giờ chuyển sang màu vàng của tuổi già, cuối đời! Với hình ảnh cần trúc mảnh mai và lá vàng nhẹ nhàng trước gió, sự tàn lụi trong thơ thu Nguyễn Khuyến đã được thể hiện ở cả hai khía cạnh: thời gian và sự vật. Những hình ảnh này mang đến cảm giác hư ảo, sự kết thúc của cuộc sống cây lá!

Trạng thái hư ảo còn được mở rộng ở tập hợp các hình ảnh khác. Là sóng nước, tầng mây, ánh sáng yếu ớt của đom đóm, khói mỏng, ánh trăng lấp lánh. Cả hình ảnh bèo trên ao cũng liên tưởng đến từ 'bèo bọt'! Tất cả những hình ảnh đó khiến mọi tầng không gian, từ cao xa (tầng mây), thấp gần (sóng nước, khói, trăng) đều không ổn định, được mô tả trong trạng thái động với các từ ngữ: gợn, lập loè, phất phơ, lóng lánh... Mọi thứ thay đổi (dù nhỏ) từng khoảnh khắc. Sự thay đổi rõ ràng nhất khiến nhân vật trữ tình thán phục là hình ảnh hoa năm ngoái, chú ngỗng nước nào:

Mấy chùm hoa trước giậu năm ngoái, Một tiếng trong không, ngỗng nước nao nao.

Trong những câu trước, sắc thái giữa thực tại và ảo còn nghiêng về thực. Nhưng ở những câu này, hình ảnh thơ chuyển hoàn toàn sang góc nhìn ảo. Hoa năm ngoái có còn là bông hoa thật, hay chỉ là bức tranh sót lại trong tâm trí của nhân vật trữ tình? Ngỗng nước nào mô tả một trạng thái vô tri, không hiểu biết - không biết, không hiểu. Năm ngoái là một đơn vị thời gian, ngỗng nước là không gian. Cả thời gian và không gian đều chìm trong tâm thái chơi vơi, chơi bời.

Bên cạnh sự tàn lụi, hư ảo, sự vật và hiện tượng trong ba bài thơ thu của Nguyễn Khuyến còn mang đặc điểm thụ động. Tính chất thụ động cũng được thể hiện ở mọi phương diện không gian và tại mọi sự vật, hiện tượng:

Sóng biếc theo làn hơi gợn lên, Lá vàng nhẹ nhàng trước gió đưa vèo. Tầng mây lơ lửng trên trời xanh ngắt, ... Cá đâu động dưới chân bèo. (Thu điếu)

Tại sao lại nói là thụ động? Vì sóng, lá, mây, bèo đều không tự quyết định. Chúng không thể tự di chuyển hoặc tự giữ nguyên mà luôn phụ thuộc vào yếu tố khác. Sóng, lá, mây đều bị chi phối bởi gió. Sóng theo hơi ấm! Lá cũng không còn bám trên cây mà đã rơi bởi gió. Chiếc lá không thể kiểm soát sẽ đi về đâu mà gió thổi. Tầng mây cũng không thể tự quyết định hướng đi giữa không gian. Nó còn phải trôi nổi nhiều hơn cả sóng và lá. Bởi sóng trên mặt ao có bờ, lá vàng chắc chắn sẽ về đất. Còn mây sẽ đi đâu, về đâu giữa bầu trời mênh mông, vô tận? Nối tiếp ý của những câu thơ trên, hình ảnh tầng mây thêm một lần nữa tăng cường yếu tố thụ động ở mức độ cao hơn, toàn diện hơn. Bởi trên cao có mây, dưới thấp có bèo: mây trôi, bèo nổi - ở đâu cũng lênh đênh, phiêu dạt! Hình ảnh tầng mây lơ lửng giữa bầu trời xanh bổ sung thêm một ý nữa vào tính chất của các sự vật trong bài thơ: sự trôi nổi không định, không có hướng! Một mặt khác, tầng mây lơ lửng giữa trời xanh còn làm nổi bật sự đối lập giữa cái nhỏ bé hữu hạn (tầng mây) với cái mênh mông vô hạn (trời xanh).

Nguyễn Khuyến, với tài năng bậc thầy, đã tạo ra ba bức tranh thu như những kiệt tác 3D, 5D bằng ngôn ngữ, mở ra cái nhìn đa chiều. Mỗi chiều mang một sắc thái khác nhau, tạo cho độc giả trải nghiệm 'khúc xạ' đa dạng. Những bức tranh thu thơ mộng nổi bật, nhưng nếu quay sang góc độ khác, ba bài thơ không còn vẻ thanh bình và đẹp mộng nữa. Người đọc có thể cảm nhận sự ngột ngạt, vắng lặng, hư ảo, tàn tạ, và thụ động trong cảnh vật.

2. Tình đời đơn độc, chí khí kiệt tác với sự buồn thảm tê tái

Văn chương thời trung đại thường chú trọng vào cảnh ngụ tình. Đặc điểm nhỏ bé, hư ảo, thụ động của cảnh vật là biểu tượng cho sự nhỏ bé, hư ảo, và thụ động của cuộc sống. Hình ảnh con người trong ba bài thơ thu của Nguyễn Khuyến được thể hiện qua sự già nua, rầu rĩ, cô đơn giữa cảnh tàn, thời tàn, đời tàn. Để hiểu rõ hơn, đặt bài thơ vào ngữ cảnh sáng tác và cảm nhận chúng qua đặc điểm của văn chương trung đại với những đặc trưng như ước lệ, sử dụng điển tích, điển cố...

Nguyễn Khuyến sáng tác ba bài thơ thu vào cuối thế kỉ XIX. Khi đó, nước mất nhà tan, Nguyễn Khuyến về quê Bình Lục - Hà Nam, mang theo nỗi đau lớn của một con người xuất sắc nhưng trở thành kẻ bất lực trước thời cuộc. Ba bài thơ thu chân dung chân thực nỗi đau của Tam nguyên Yên Đổ giữa thời kỳ loạn lạc.

Nỗi cô độc hiện hữu đầu tiên qua nhiều hình ảnh, đặc biệt là chiếc thuyền bé xíu, góc nhỏ nhà cỏ và ngõ trúc vắng vẻ.

- Chiếc thuyền câu nhỏ bé xíu đắp nặng nỗi cô độc - Năm gian nhà cỏ thấp le te, càng làm sâu thêm nỗi lạc lõng - Ngõ trúc uốn cong, vắng lặng teo lại nhiều hơn - Ánh đèn đêm hiên ngang, làm tăng lên cảm giác cô đơn

- Ngõ tối bí ẩn, chỉ lấp lánh ánh đóm mờ loè - Một thế giới 'một' con thuyền và 'năm' gian nhà bỗng trở thành 'vắng teo' - Vùng ngõ tối vắng ngắt, không bóng người hiện diện

Chỉ có một chiếc thuyền, năm gian nhà - một không gian cá nhân. Thế giới mở rộng tới ngõ, nhưng đột nhiên, vắng teo. Sự trống vắng đưa con người từ cái ao, cái nhà vào một cảnh đơn độc, hiện tại đầy cô đơn.

Có điều đáng lưu ý, trong văn chương trung đại, trúc thường là biểu tượng của bậc quân tử. Ngõ trúc vắng vẻ như thế nói lên rằng thế giới anh hùng quân tử không còn ai. Những hình ảnh tượng trưng như trúc, cúc, mai xanh tươi, khoẻ mạnh trong thơ Nguyễn Trãi giờ đây lại trở nên mờ ám, buồn tẻ trong thơ Nguyễn Khuyến. Trúc, từ vắng teo đến lơ phơ, hình ảnh này khiến ta nghĩ ngay đến bậc quân tử mất đi năng lực và tinh thần 'quân tử cố cùng'! Cô đơn trong hiện tại, nhân vật trữ tình trải qua sự kết nối với quá khứ trong bài Thu vịnh. Nhưng:

Nhân hứng, bút nâng ngợi toan Tưởng tri kỉ, lại thẹn với ông Đào.

Không thể gì tri kỉ với người xưa! Không tìm thấy sự tương giao giữa hiện tại và quá khứ. Hình ảnh con người đơn độc đến tột cùng. Chỉ còn cách giải sầu bằng rượu, nhưng trớ trêu:

Rượu hát điệu nhẹ, độ đã say Ba chén đã đủ, mê say nhè.

Cô đơn, bi thương nhất là hình ảnh người đàn ông thu mình trên chiếc thuyền nhỏ giữa cái ao nhỏ:

Tựa gối ôm cần lâu không thành, Cá đâu đớp động dưới chân bèo.

Hình ảnh này gợi nhớ đến câu chuyện Lã Vọng câu cá, nhưng đây là phiên bản đối lập, hoàn toàn khác biệt về bản chất. Thời đại đảo lộn, Khương Tử Nha - Lã Vọng, quay về sống ẩn cùng với thác sâu và rừng thẳm. Tuy nhiên, ông biết nắm bắt thời cơ, hiểu rõ thời vận. Hàng ngày, ông ra đánh cá ở bờ sông Vị, chờ đợi thời cơ để đạt được thành công lớn. Lưỡi câu thẳng, không mồi vì ông không câu cá mà đi 'câu' minh chủ, công hầu, khanh tướng. Ông đã 'câu' được Cơ Xương. Nhờ tài trí và sự an bang, Khương Tử Nha đã đóng góp nhiều cho việc xây dựng triều đại nhà Chu và được phong làm hầu tại đất Tề, tức là Tề Thái Công sau này. Một câu chuyện hùng vĩ, toàn diện về sự kiên trì chờ đợi thời cơ, tạo nên một sự nghiệp lớn mà hậu thế phải tôn kính.

Bậc Tam nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến, cũng như Khương Tử Nha, sống ẩn và câu cá. Nhưng, đây là câu chuyện trong mùa thu với lá vàng - thời kỳ của sự tàn tệ, sự hạn chế như ao tù nước đọng; là câu chuyện với sự cô đơn, bất lực; là câu chuyện trong sự bi quan khi không thể đoán trước thời cuộc. Hình ảnh kết hợp những đau đớn không lường trước của một tri thức bất lực trước thực tế và không thể đoán trước tương lai của thời đại. Nơi đâu còn lại khí phách của người quân tử trong văn chương trung đại? Đâu còn tư thế: Hoành sóc giang san cáp kỉ thu (Cầm ngang ngọn giáo trấn giữ non sông đã mấy thu - Phạm Ngũ Lão)? Đâu còn khí thế:

Đã ghi tên trong hư vô vạn vật, Dư danh gì giữa núi sông. (Nguyễn Công Trứ)

Chí và lực kiệt, Tam nguyên Yên Đổ chìm đắm trong cảnh: bức tranh buồn bã ảm đạm; rượu chẳng giải được nỗi buồn, người vắng teo, hiu quạnh, cố nhân thậm thừa. Không có ai làm bạn. Nhìn chằm chằm vào bản thân, như chiếc lá vàng lạc giữa thời gian, giữa cuộc sống... Mọi thứ khiến Tam nguyên Yên Đổ đau đớn tới cùng. Ông nhìn hoa, như nhìn vào quá khứ, nghe tiếng chim trên trời, lòng tự hỏi:

Những chùm trước giậu hoa năm ngoái, Một tiếng trên cao ngỗng nước nào?

vì là thời đẹp đã qua, cả cái tôi và quê hương đều thuộc về quá khứ. Nay, đất nước bị che phủ bởi bóng tối, bởi sự chinh chiến. Ngỗng nước ở đâu? Vì mọi thứ trên mảnh đất này không còn là của chúng ta. Trời đất đã rơi vào tay kẻ thù, cỏ cây, chim muông cũng là nô lệ của kẻ thù. Câu thơ là lời than khóc đau đớn của một tâm hồn trí thức mất nước!

Trong ba bài thơ thu của Nguyễn Khuyến, chú ý đến sự kết hợp tinh tế của nhiều biểu tượng, tượng trưng như: thi đề mùa thu, Đào Tiềm lặn xuống ẩn, Lã Vọng câu cá, lều cỏ Khổng Minh (thảo lư), rồi mộc, diệp, hoa, điểu, tửu... từ những câu:

- Ngô đồng nhất diệp rụng, Thiên hạ biết mùa thu đã đến. (Một chiếc lá ngô đồng rơi, Cả thiên hạ đều cảm nhận mùa thu) (Sách Quảng quần phương phả, Mộc phả)

- Cảm thời hoa rơi lệ, Hận biệt li, chim đau đớn lòng. (Nhìn hoa rơi, nhớ lại mối ân hận, Biệt li, chim cảm thấy đau đớn lòng) (Xuân vọng - Đỗ Phủ)

Nguyễn Khuyến đã 'chế biến' các tác phẩm Hán học một cách sáng tạo, gần như làm mất đi dấu vết của từ điển. Đồng thời, ông đã 'làm mới' một số từ ngữ, làm chúng trở nên khác biệt về tính chất so với ý nghĩa ban đầu. Lã Vọng câu cá an nhàn biến thành hình ảnh của một người ngồi câu cá trong cảnh tàn tạ, tuyệt vọng. Thảo lư - lều cỏ trong rừng trở thành ngôi nhà cỏ thấp 'le te' giữa xóm ngõ tối tăm, ngột ngạt. Trúc, biểu tượng của sức khỏe, thẳng tắp trong thơ Nguyễn Khuyến trở thành hình ảnh 'lơ phơ', hiu quạnh... Điều này làm cho ba bài thơ thu trở nên đầy ý niệm, góp thêm một chút châm biếm và đắng cay vào nụ cười tươi của Nguyễn Khuyến. Bằng cách nhìn nhận những biểu tượng, tượng trưng đó trong ba bài thơ thu, người đọc sẽ cảm nhận rõ hơn những nỗi đau sâu sắc của Tam nguyên Yên Đổ sau khi cáo quan về việc ẩn cư.

Tam bài thơ thu của Nguyễn Khuyến khéo léo kết hợp nhiều nỗi đau mà ông từng bày tỏ. Đây là nỗi cô đơn, nỗi buồn của chiều tà cuộc đời:

Cuộc đời hỗn loạn như hạc độc, Chạnh lòng tuổi già, bóng hình như mây côi.

(Tri âm)

Nỗi đau mất nước: Năm canh máu chảy, hè vắng dần, Sáu khắc hồn tan, bóng trăng mờ bay. (Quốc hận tri âm)

Nỗi xấu hổ với danh vọng, học vị ở đỉnh cao nhưng lại bất lực, vô dụng:

- Tự xem mình như một kịch bản kinh tởm, Đồng thời là bảng vàng, tấm bia xanh vẻ vang. (Tự châm chọc)

- Sách vở còn đem lại lợi ích gì cho buổi đó, Áo xiêm nghĩ lại thấy thẹn thùng trước thân già... (Nhắc nhở các thế hệ trẻ)

Có thể nói, Nguyễn Khuyến đã diễn đạt một cách thô quá sự thảm hại của bản thân. Ông sử dụng những hình ảnh quen thuộc như thi đề mùa thu, bức tranh đồng bằng Bắc Bộ, cùng với tài nghệ thơ văn độc đáo để gói ghém nỗi đau sâu sắc về số phận! Sự khéo léo của Nguyễn Khuyến không chỉ là ở việc sáng tạo và kết hợp những yếu tố truyền thống, mà còn ẩn sau cách ông không trực tiếp sử dụng những từ ngữ nặng nề để diễn đạt nỗi đau, nhưng người đọc vẫn cảm nhận được sự đau thắt từng chữ, từng hình ảnh! Sự đau khổ và buồn bã trong cả ba bài thơ đều là hình ảnh mạnh mẽ của một Tam nguyên Yên Đổ đầy đau đớn, tràn ngập cay đắng về bản thân và thời cuộc!

Tác phẩm nghệ thuật thường mang nhiều ý nghĩa, và ba bài thơ thu của Nguyễn Khuyến không nằm ngoài quy luật đó. Những tác phẩm xuất sắc của những tác giả lớn thường ẩn chứa nhiều tầng ý nghĩa, mời độc giả khám phá từ khám phá này đến khám phá khác. Hãy xem xét ba bài thơ thu của Nguyễn Khuyến dưới góc độ ước lệ của văn chương trung đại và hoàn cảnh sáng tác. Cảnh sắc trong ba bài thơ không chỉ thơ mộng và tâm sự không chỉ u hoài thầm kín. Ngược lại, chúng thể hiện trạng thái tù túng, ngột ngạt vây hãm, là sự nổi trôi, hư ảo, vô định của thế giới hiện tượng và sự nhỏ nhoi đơn độc, bất lực của con người trước cảnh tàn, đời tàn, thời tàn. Ba bài thơ thu này kết tụ sắc thái đau buồn, chán nản, tuyệt vọng của thơ Nôm Nguyễn Khuyến, thống nhất với đặc điểm con người trong sáng tác của ông: 'Nhà nho xưa thường tự lí tưởng hoá mình, tự vận với các bậc danh sĩ quá khứ. Nguyễn Khuyến bước sang giai đoạn tự trào, tự phủ nhận'(5); 'Ông là nhà thơ cổ điển đầu tiên thấy cái rỗng không của con người lí tưởng truyền thống, là nhà thơ mở đầu sự đổi thay các ý nghĩa tượng trưng của hệ thống thi pháp cổ xưa'(6). Chỉ riêng với ba bài thơ thu này, Nguyễn Khuyến đã vừa chứng tỏ một tài năng thi ca bậc thầy vừa thể hiện thấm thía nỗi lòng nhức nhối của một trí thức tự thấy mình bất lực, vô nghĩa trước thời cuộc!

Dưới đây là phần Phân tích hình ảnh mùa thu trong 3 bài thơ Thu của Nguyễn Khuyến. Tiếp theo, hãy chuẩn bị trả lời câu hỏi trong SGK, Soạn bài Thương vợ và cùng với phần Phân tích tâm trạng Nguyễn Khuyến qua Thu điếu để nắm vững kiến thức môn Ngữ Văn lớp 11.

Bài mẫu số 2: Phân tích hình ảnh mùa thu trong 3 bài thơ Thu của Nguyễn Khuyến

Nguyễn Khuyến, nhà thơ cổ điển lớn của Việt Nam, đã tạo ra những sáng tác đa dạng về nhiều đề tài, thể hiện nhiều cảm xúc phong phú. Trong số đó, miêu tả cảnh sắc và sinh hoạt thôn quê là một đề tài nổi bật. Từ những bài thơ của ông, hình ảnh những làng quê yên bình và thơ mộng, nơi ông mến mộ và gắn bó, hiện lên rõ nét. Xuân Diệu từng nhận xét rằng 'Nguyễn Khuyến là nhà thơ của làng cảnh Việt Nam'. Chùm ba bài thơ thu của Nguyễn Khuyến thực sự là minh chứng sinh động cho nhận định này. Đây cũng là những tác phẩm xuất sắc nhất về mùa thu trong thơ ca Việt Nam từ xưa đến nay.

  1. Nguyễn Khuyến sáng tạo bức tranh mùa thu đậm cảm xúc, tận dụng nguồn cảm hứng dồi dào từ quê hương. Cảm nhận tinh tế của ông đã tạo nên giá trị đặc sắc trong ba bài thơ về mùa thu, không giống ai khác. Những hình ảnh như bầu trời xanh, ao thu trong veo, cần trúc hắt hiu trong gió, ngõ xóm quanh co, nhà tranh mái rạ, hàng giậu phất phơ bóng khói ban chiều... là những cảnh quen thuộc của làng quê Việt Nam, nơi tâm hồn bình dị và thanh cao hiện lên.
  1. Trong bức tranh tổng hợp về mùa thu, Nguyễn Khuyến sử dụng từ ngôn ngữ tinh tế, mô tả một cách nhẹ nhàng và thanh thoát. Bức tranh của ông không chỉ đơn thuần là miêu tả mùa thu từ một góc nhìn cụ thể mà còn là sự tổng hợp khéo léo, tạo nên một không gian mùa thu trọn vẹn. Cảnh trời xanh, cần trúc lơ phơ, nước biếc như tầng khói phủ, hoa trước giậu... đều làm nổi bật cái hồn thu trong từng cảnh vật. Tâm hồn nhẹ nhàng, buồn bàng của Nguyễn Khuyến lưu lại trong không khí yên bình, phảng phất u hoài của làng quê mùa thu.
  1. Thu điếu (câu cá mùa thu) - Bài thơ tận dụng không gian mùa thu xinh xắn, thơ mộng từ góc độ đặc biệt là người câu cá. Mô tả cảnh ao thu trong veo, chiếc thuyền câu bé tẻo teo tạo nên bức tranh yên bình, tĩnh lặng. Những chuyển động nhẹ nhàng và âm thanh như làn sóng biếc 'gợn tí', lá vàng nhẹ nhàng 'đưa vèo trong gió thu' tạo nên không khí thu đọng kết và buồn bàng.
  1. Thu ẩm (uống rượu mùa thu) - Bức tranh thu được cảm nhận qua tâm trạng của người uống rượu. Sử dụng từ lấp láy và vần 'oe', bài thơ không miêu tả cụ thể một cảnh thu tại một thời điểm nhất định mà tập trung vào sự 'tổng hợp nhiều cảnh thu ở nhiều thời điểm'. Bức tranh mùa thu trong buổi sáng sớm, chiều tối, và đêm với hình ảnh của mái nhà tranh, con đom đóm, mặt ao lóng lánh, trời xanh ngắt... tạo ra ấn tượng về sự ngưng đọng và tĩnh mịch trong làng quê Việt Nam.

Bài mẫu số 3: Phân tích hình ảnh mùa thu trong 3 bài thơ Thu của Nguyễn Khuyến

Nguyễn Khuyến, nhà thơ lớn của cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, để lại những tác phẩm đậm chất dân tộc, mang đặc điểm riêng biệt. Chùm ba bài thơ Thu vịnh, Thu điếu, và Thu ẩm là minh chứng cho tài năng sáng tạo của ông. Những bức tranh thu tuyệt vời này thể hiện sự yêu mến quê hương và tình yêu cuộc sống thanh cao, tĩnh lặng trong chốn thôn quê của cụ Tam nguyên Yên Đổ.

Lưu ý rằng các chi tiết trong ba bài thơ này, cũng như nhiều tác phẩm khác, được trích từ cảnh vật quê hương của tác giả. Một vùng đồng chiêm trũng quanh năm ngập nước, trong làng có vô số ao chuôm với những bờ tre quanh co bao bọc những mái rạ nghèo.

Tình yêu quê hương, sự hiểu biết sâu sắc về làng quê kết hợp với tâm hồn thơ đằm thắm, tinh tế của tác giả đã tạo ra những vần thơ bất hủ về mùa thu ở thôn dã của đồng bằng Bắc Bộ. Thiên nhiên trong thơ Nguyễn Khuyến không chỉ là hình ảnh trừu tượng, ước lệ thường thấy trong thơ cổ điển mà còn là những cảnh vật bình dị, thân quen ở nông thôn. Hồn của cảnh vật thấm sâu vào tâm hồn nhà thơ, đồng điệu với tâm trạng u buồn, trăn trở của ông.

Ba bài thơ, ba bức tranh thu khác nhau nhưng hòa quyện thành một bức tranh toàn diện về mùa thu với những đặc trưng riêng biệt nhất.

Thu vịnh mô tả cảnh thu với bầu trời xanh ngọc, cao vút, những cành tre cong cong, nhẹ nhàng đung đưa trước làn gió hắt hiu. Không khí thu se lạnh, sương khói bảng lảng phủ trên mặt ao hồ lúc bình minh và hoàng hôn, tạo nên bức tranh huyền bí:

Bầu trời thu xanh ngắt cao vút, Cánh tre lơ phơ, gió hắt hiu. Nước biếc như tầng khói phủ, Nhưng mảnh đêm, bóng trăng xua vào.

Nét đẹp của mùa thu hiện hữu trong bức tranh bầu trời xanh ngọc, đám sương mỏng khuất nhòa, ánh trăng thu bạc tỏa qua song cửa, tạo nên hình ảnh quen thuộc của một quê hương yên bình, thanh thoát.

Nhà thơ quan sát sự biến đổi tinh tế của cảnh vật trong các thời điểm khác nhau trong một ngày. Tất cả đều gần gũi, liên kết với tâm hồn nhạy cảm của thi sĩ.

Trong Thu điếu, khung cảnh không mở rội mà thu nhỏ lại. Ao nhỏ, chiếc thuyền câu tẻo teo: Chiếc thuyền câu nhỏ bé tẻo teo. Mọi hoạt động diễn ra nhẹ nhàng: Sóng biếc theo làn hơi gợn tí, Lá vàng trước gió nhẹ nhàng đưa vèo. Gió nhẹ chỉ đủ sức thổi lá tre, lá trúc vàng úa và lá rơi mà không tạo ra tiếng ồn. Trên cao, bầu trời xanh ngắt, tầng mây lơ lửng như đứng im và ông câu với tư thế ngồi tựa gối ôm cần câu cũng như cố thu mình cho nhỏ lại. Yên bình lan tỏa khắp nơi, nghe thấy tiếng cá đâu đớp động dưới chân bèo. Âm thanh đó tăng thêm phần tĩnh lặng, ông câu thu mình bất động, có lẽ để hòa mình vào không gian xung quanh.

Mùa thu trong bài thơ Thu ẩm trình bày một vẻ đẹp khác biệt. Nhà thơ ngồi uống rượu một mình dưới ánh trăng. Cảnh quê hiện ra dưới góc nhìn của tâm hồn ngập tràn trong men rượu, vẫn là ba gian nhà cỏ thấp, ngõ tối, làn ao, bóng trăng, da trời... những hình ảnh quen thuộc hàng ngày, nhưng chúng là những phần không thể thiếu của thôn quê này, nếu thiếu chúng, có lẽ làng xóm sẽ mất đi bản sắc xưa cũ. Dù vậy, với tâm trạng u buồn, nước rượu ngấm vào tâm hồn, nhà thơ thấy cảnh vật mờ dần qua con mắt mờ mịt: nhà thấp, đóm lập loè, bóng trăng lạnh lẽo, đôi mắt đỏ hoe và tâm hồn say sưa.

Ba gian nhà cỏ thấp le te, Ngõ tối đêm sâu, đóm lập lòe. Lưng giậu phất phơ màu khói nhạt, Làn ao lóng lánh bóng trăng loe.

Nghĩa là cảnh vật trở nên lảo đảo, xoay tròn trong sự chói lọi của rượu. Người đắm chìm không chỉ vì men rượu, mà còn vì nỗi buồn, sự thất vọng và cảm giác bất lực trước cuộc sống. Việc ngừng viết thơ, chìm đắm trong giấc mơ, hay uống rượu để quên đi những đau thương... tất cả đều phản ánh tâm trạng ẩn sau vẻ ngoài.

Điểm chung của ba bài thơ Thu là sự miêu tả chân thực, dễ thương của cảnh quê, giản dị nhưng đầy ý nghĩa, trong lòng của làng cảnh Việt Nam. Cái nhìn ẩn sau bề mặt cùng với tình cảm với quê hương hiện lên rõ ràng qua từng dòng chữ. Tâm hồn của nhà thơ hiện lên sâu sắc và tinh tế. Trong những thời kỳ khó khăn khi ông sống ẩn dật tại quê nhà, chỉ có thiên nhiên mộc mạc, trong lành mới làm dịu dàng tâm hồn ông giữa những trăn trở của thời cuộc.

Chùm thơ Thu vịnh, Thu điếu, Thu ẩm là một tác phẩm tuyệt vời, thể hiện tài năng xuất sắc của cụ Tam Nguyên. Hồn thơ trong những bài này là sự kết hợp của sự đơn giản, sâu sắc, và tràn đầy trữ tình. Những ai yêu thơ Nguyễn Khuyến, yêu quê hương, không thể không bị cuốn hút bởi những bài thơ này.

Nội dung được phát triển bởi đội ngũ Mytour với mục đích chăm sóc và tăng trải nghiệm khách hàng.

Chủ đề