(TBTCO) - Theo Báo cáo quốc gia về khí hậu và phát triển cho Việt Nam (CCDR) mới được Ngân hàng Thế giới (WB) công bố, nếu có các chính sách và chiến lược phù hợp, Việt Nam có thể tận dụng những hoạt động khử carbon của mình để đạt được mục tiêu phát triển sao cho phát thải khí nhà kính ròng bằng “0” mà không làm giảm tốc độ tăng trưởng GDP. Các cam kết của Chính phủ cần được củng cố bằng sự tham gia của khu vực tư nhân trong nước và thông qua các nguồn lực tài chính nước ngoài, nhà nước và tư nhân.
Sau hơn 2 thập kỷ tăng trưởng ổn định, Việt Nam đặt ra mục tiêu đầy tham vọng là đạt mức thu nhập cao vào năm 2045. Theo Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2021-2030, kết quả chuyển đổi kinh tế của đất nước sẽ phụ thuộc nhiều vào hiệu quả quản lý nguồn vốn tự nhiên – trữ lượng lớn các nguồn tài nguyên nông nghiệp, rừng và khoáng sản, đã từng giúp thúc đẩy quá trình phát triển tại Việt Nam. Tuy nhiên, Việt Nam là một trong những quốc gia dễ bị tổn thương nhất trên thế giới trước biến đổi khí hậu. Các tác động của biến đổi khí hậu - chủ yếu là nhiệt độ và mực nước biển dâng cao hơn và biến động lớn hơn, đã và đang làm gián đoạn hoạt động kinh tế và suy yếu tăng trưởng. Các tính toán ban đầu cho thấy, Việt Nam mất 10 tỷ USD vào năm 2020, tương đương 3,2% GDP do tác động của biến đổi khí hậu. Các mô hình cho thấy, tổng chi phí kinh tế do biến đổi khí hậu gây ra có thể lên tới 523 tỷ USD vào năm 2050. Nếu không có các biện pháp thích ứng và giảm thiểu phù hợp, ước tính biến đổi khí hậu sẽ khiến Việt Nam mất khoảng 12% đến 14,5% GDP mỗi năm vào năm 2050 và có thể khiến tới một triệu người vào tình trạng nghèo cùng cực vào năm 2030.
Câu hỏi đặt ra là có nhất thiết phải đánh đổi giữa tăng trưởng kinh tế và thích ứng với biến đổi khí hậu hay có thể dung hòa hai mục tiêu trên? Để giúp Việt Nam đạt được các mục tiêu phát triển, đồng thời thực hiện các cam kết về khí hậu, báo cáo CCDR đề xuất nhiều giải pháp trên 2 góc độ quan trọng: nâng cao khả năng chống chịu với các tác động của khí hậu và theo đuổi chiến lược tăng trưởng hướng nền kinh tế giảm dần các nguồn năng lượng thâm dụng carbon. Hai lộ trình này sẽ giúp Việt Nam đạt được các mục tiêu về khí hậu đồng thời tăng GDP bình quân đầu người hơn 5%/năm - tỷ lệ trung bình cần thiết để trở thành quốc gia có thu nhập cao vào năm 2045. Báo cáo CCDR đưa ra các giải pháp và phương án cho cả khu vực nhà nước và tư nhân để nâng cao khả năng thích ứng với khí hậu, hoàn thành cam kết về mức phát thải khí nhà kính ròng bằng “0” vào năm 2050 và thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội; đồng thời đảm bảo một “quá trình chuyển dịch công bằng”, để hỗ trợ các hộ gia đình bị ảnh hưởng bởi quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế carbon thấp và chống chịu với khí hậu. Huy động tài chính trong nước và tìm kiếm hỗ trợ từ bên ngoàiTheo tính toán của WB, các dự án đầu tư ưu tiên cho thích ứng từ nay đến năm 2040 có thể cần khoảng 254 tỷ USD và để giảm tốc độ tăng phát thải sẽ cần ít nhất 81 tỷ USD. Theo đó, lộ trình xây dựng khả năng thích ứng, các biện pháp thích ứng cần tập trung vào những lĩnh vực và địa điểm dễ bị tổn thương nhất của đất nước, đặc biệt là nông nghiệp, giao thông, thương mại và công nghiệp, các vùng ven biển và đồng bằng sông Cửu Long. Các cải cách chính sách bổ trợ trong lĩnh vực tài khóa và tài chính có thể kích thích đầu tư từ cả khu vực công và khu vực tư nhân.
Về lộ trình khử carbon, các chuyên gia WB cho rằng, đưa Việt Nam tiến tới mục tiêu phát thải khí nhà kính ròng bằng “0” vào năm 2050 cần đầu tư lớn vào năng lượng, giao thông, nông nghiệp và công nghiệp. Trong lộ trình khử carbon, tổng nhu cầu vốn cho giai đoạn 2022 – 2040 lên tới 114 tỷ USD, chủ yếu để hỗ trợ quá trình chuyển dịch năng lượng (khoảng 64 tỷ USD), một phần cho công nghiệp, giao thông và nông nghiệp (17 tỷ USD) và các chương trình hỗ trợ xã hội (33 tỷ USD). Thuế carbon hoặc các quy định hình thành hệ thống mua bán khí thải sẽ là chìa khóa để Việt Nam đạt được các mục tiêu phát triển và khí hậu đầy tham vọng. Công cụ này sẽ thay đổi hành vi và giúp huy động vốn cho quá trình chuyển đổi. Ví dụ, việc tăng thuế carbon lên 29 USD trên mỗi tấn CO2 tương đương vào năm 2030 và 90 USD trên mỗi tấn CO2 vào năm 2040 sẽ tạo ra nguồn thu bổ sung 80 tỷ USD. Theo ước tính, giá trị hiện tại của các khoản đầu tư thêm để thích ứng và giảm nhẹ các tác động biến đổi khí hậu tại Việt Nam từ nay đến năm 2040 là 368 tỷ USD, tương đương 6,8% GDP mỗi năm. Trong đó, tài chính cho thích ứng tương đương khoảng 4,7% GDP mỗi năm và cho khử carbon là 2,1% GDP mỗi năm. Vì vậy, để đáp ứng nhu cầu vốn, cần phân bổ lại tiết kiệm từ khu vực tư nhân trong nước sang các dự án liên quan đến khí hậu, tăng tiết kiệm từ khu vực công và huy động hỗ trợ tài chính từ bên ngoài (khoảng 54 triệu USD, tương đương 1% GDP mỗi năm). Nguồn vốn đầu tư công có thể chiếm khoảng 1/3 tổng vốn đầu tư (130 tỷ USD, tương đương 2,4% GDP mỗi năm) và có thể được tài trợ thông qua thuế carbon hoặc đi vay trên thị trường trong nước. Nguồn vốn tư nhân tương đương khoảng 3,4% GDP mỗi năm (184 tỷ USD) có thể được huy động thông qua tín dụng xanh từ các ngân hàng, cổ phiếu xanh và trái phiếu xanh, cũng như áp dụng các công cụ giảm thiểu rủi ro.
(TN&MT) - Tại Hội nghị lần thứ 26 các Bên tham gia Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu (COP26), việc Việt Nam cam kết đưa phát thải ròng về “0” vào năm 2050 đã phát đi tín hiệu mạnh mẽ với cộng đồng quốc tế. Qua đó, khai thông cơ hội cho quốc gia tận dụng sự dịch chuyển của nguồn tài chính toàn cầu cho phát triển ít phát thải, thúc đẩy phát triển kinh tế tuần hoàn, thích ứng với biến đổi khí hậu (BĐKH). Để hiểu rõ hơn về những nỗ lực của Việt Nam, phóng viên Báo TN&MT đã phỏng vấn TS. Tăng Thế Cường - Cục trưởng Cục Biến đổi khí hậu (Bộ TN&MT) xung quanh nội dung này. PV: Trước những tác động ngày càng nghiêm trọng của BĐKH, COP26 - Hội nghị toàn cầu lớn nhất về BĐKH vừa qua đã đạt được nhiều kết quả quan trọng, ông có thể điểm lại những kết quả đó? TS. Tăng Thế Cường: Hội nghị COP26 và các sự kiện có liên quan được tổ chức vào tháng 11/2021 tại Glasgow, Vương quốc Anh. Tham dự Hội nghị có gần 124 nguyên thủ quốc gia, người đứng đầu chính phủ và gần 40 nghìn đại biểu đến từ các cơ quan, tổ chức trên toàn cầu. Hội nghị diễn ra trong bối cảnh thế giới đang chịu tác động nặng nề của đại dịch Covid-19 và tác động ngày càng gia tăng của BĐKH, đòi hỏi loài người phải hành động khẩn cấp trước khi quá muộn. Chính vì thế, các kết quả của Hội nghị đều mang tầm tác động to lớn. TS. Tăng Thế Cường Về giảm phát thải khí nhà kính, 147 quốc gia chiếm gần 90% lượng phát thải khí nhà kính và trên 90% GDP toàn cầu đã cam kết đưa mức phát thải ròng về “0” vào giữa thế kỷ. 103 quốc gia (chiếm 40% tổng lượng phát thải mê-tan toàn cầu) đã tham gia Cam kết giảm 30% phát thải mê-tan toàn cầu vào năm 2030 so với năm 2020; 141 quốc gia với hơn 90% diện tích rừng trên thế giới đã tham gia Tuyên bố Glasgow của các nhà lãnh đạo về rừng và sử dụng đất. Gần 50 quốc gia đã ký tham gia Tuyên bố toàn cầu về chuyển đổi điện than sang năng lượng sạch; 25 quốc gia và các định chế tài chính quốc tế tuyên bố không hỗ trợ cho phát triển năng lượng sử dụng nhiên liệu hóa thạch từ cuối năm 2022 trở đi. Về huy động tài chính cho ứng phó với BĐKH, mặc dù tỷ lệ huy động tài chính có tăng lên, song chưa đạt mục tiêu cam kết đạt 100 tỷ USD mỗi năm như đã thỏa thuận tại Hội nghị COP21 tại Paris. Hội nghị thống nhất cần có đóng góp mang tính đột phá trong thời gian tới, cũng như cân bằng về tài chính cho giảm phát thải và thích ứng với BĐKH. Nhiều sáng kiến đã được công bố tại COP26 thu hút nhiều quốc gia tham gia, trong đó có các sáng kiến quan trọng như: Cam kết giảm phát thải mê-tan toàn cầu; Tuyên bố Glasgow của các nhà lãnh đạo về rừng và sử dụng đất; Tuyên bố toàn cầu về chuyển đổi điện than sang năng lượng sạch; Tuyên bố chấm dứt sản xuất phương tiện giao thông chạy xăng, dầu từ nay đến năm 2040; Liên minh hành động về thích ứng với BĐKH; một số sáng kiến trong lĩnh vực nông nghiệp, giao thông vận tải, xây dựng… PV: Việt Nam sẽ hưởng lợi gì từ những kết quả này, thưa ông? TS. Tăng Thế Cường: Đạt mức phát thải ròng bằng "0" vào năm 2050 là mục tiêu phát triển tất yếu của thế giới, thực hiện chủ yếu thông qua chuyển đổi năng lượng mạnh mẽ, phát triển phát thải thấp. Đây cũng là “luật chơi” mới về thương mại, đầu tư toàn cầu đã được xác lập kể từ sau Hội nghị COP26. Giảm phát thải khí nhà kính, chuyển đổi năng lượng từ sử dụng nhiên liệu hóa thạch sang năng lượng sạch, tái tạo là cơ hội để thúc đẩy tái cấu trúc nền kinh tế theo hướng bền vững, nắm bắt thời cơ nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế và tận dụng các cơ hội hợp tác thương mại, đầu tư cho phát triển. Phát triển năng lượng sạch và nhanh chóng chấm dứt sử dụng than, thoát ly dần nguồn năng lượng hóa thạch khác như dầu và khí đốt được thúc đẩy mạnh mẽ. Các nguồn tài chính quốc tế sẽ sớm chuyển dịch từ đầu tư phát triển điện than sang phát triển năng lượng tái tạo đồng thời với việc thúc đẩy kinh tế tuần hoàn, duy trì và phát triển rừng, bảo vệ các hệ sinh thái. Trước xu thế BĐKH và bối cảnh toàn cầu mới, ứng phó với BĐKH ở nước ta phải chuyển sang một giai đoạn mới, cần được đặt ở vị trí trung tâm, hướng tới thực hiện mục tiêu toàn cầu và được thực hiện hiệu quả, thực chất và minh bạch, đồng thời thúc đẩy xây dựng nền kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn. Việt Nam cam kết “sẽ xây dựng và triển khai các biện pháp giảm phát thải khí nhà kính mạnh mẽ bằng nguồn lực của chính mình cùng với sự hợp tác và hỗ trợ của cộng đồng quốc tế, nhất là các nước đang phát triển. Kể cả tài chính và chuyển giao công nghệ, trong đó thực hiện các cơ chế theo Thỏa thuận Paris, để đạt mức phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050”. Việt Nam cũng tham gia Cam kết giảm phát thải khí mê-tan toàn cầu; Tuyên bố toàn cầu về chuyển đổi từ điện than sang năng lượng sạch; Tuyên bố Glasgow của các nhà lãnh đạo về rừng và sử dụng đất; Liên minh thích ứng toàn cầu. Tranh cổ động về thúc đẩy phát triển kinh tế tuần hoàn, thích ứng với BĐKH. Cam kết và những ý kiến đóng góp có trách nhiệm của Việt Nam tại Hội nghị được cộng đồng quốc tế đánh giá cao, mở ra nhiều cơ hội hợp tác về tăng trưởng ít phát thải, thúc đẩy phát triển kinh tế tuần hoàn, thích ứng với BĐKH. Các đối tác phát triển, các định chế tài chính quốc tế đã thể hiện mong muốn và cam kết hợp tác, đồng hành với Chính phủ Việt Nam để triển khai thực hiện các cam kết. PV: Việt Nam đã triển khai thực hiện các cam kết tại COP26 như thế nào, thưa ông? TS. Tăng Thế Cường: Ngay sau Hội nghị COP26, Thủ tướng Chính phủ đã thành lập Ban Chỉ đạo quốc gia triển khai thực hiện cam kết của Việt Nam tại Hội nghị COP26 do Thủ tướng Chính phủ làm Trưởng ban chỉ đạo. Các bộ, cơ quan liên quan đã tập trung xây dựng các chiến lược, chương trình, kế hoạch hành động để triển khai thực hiện cam kết. Đến nay, các bộ đã trình Thủ tướng Chính phủ xem xét phê duyệt Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2045; Đề án về những nhiệm vụ, giải pháp triển khai kết quả Hội nghị COP26; Chiến lược quốc gia về BĐKH giai đoạn đến năm 2050; Chương trình hành động về chuyển đổi năng lượng xanh, giảm phát thải khí carbon và khí mê-tan của ngành giao thông vận tải; Kế hoạch hành động quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021 - 2030; Kế hoạch hành động giảm phát thải khí mê-tan đến năm 2030… Một số bộ, ngành đã xây dựng kế hoạch hành động của ngành triển khai cam kết tại COP26. Nhiều bộ, ngành đã ký kết các thỏa thuận hợp tác thực hiện cam kết COP26 với Cơ quan Hợp tác quốc tế Hàn Quốc (KOICA), Bộ Môi trường Hàn Quốc, Bộ Khoa học Trái đất Ấn Độ, Tổ chức Tài chính quốc tế (IFC), Ngân hàng Citi Bank, Ngân hàng BIDV; xúc tiến trao đổi với Ngân hàng HSBC, Ngân hàng Standard Chattered về các nội dung hợp tác để triển khai các cam kết của COP26. Các định chế tài chính trong và ngoài nước như ADB, CitiBank, HSBC, SCB, BIDV, IFC… cũng đang hỗ trợ Việt Nam triển khai các cam kết tại COP26.
Các địa phương đã nhận thức và tổ chức triển khai, quán triệt về các cam kết của Việt Nam tại Hội nghị COP26 thông qua thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật và hướng dẫn bảo vệ môi trường, ứng phó với BĐKH; tăng cường năng lực và nhận thức của đội ngũ cán bộ; tuyên truyền các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân sử dụng các nguồn năng lượng xanh; đôn đốc, hướng dẫn các cơ sở trên địa bàn thuộc đối tượng phải kiểm kê khí nhà kính xây dựng kế hoạch, lộ trình giảm phát thải khí nhà kính phù hợp với điều kiện sản xuất, kinh doanh. Nhiều địa phương có biển đã giao các khu vực biển để thực hiện các dự án điện gió gần bờ theo thẩm quyền (Cà Mau 8 dự án; Bạc Liêu 3 dự án; Trà Vinh 5 dự án; Sóc Trăng 3 dự án; Bến Tre 4 dự án; Tiền Giang 1 dự án…), đồng thời, xúc tiến kêu gọi các doanh nghiệp tiếp tục đầu tư phát triển các dự án năng lượng tái tạo. Các Tổng công ty, Tập đoàn Nhà nước bước đầu đã nghiên cứu và giảm dần các nguồn năng lượng hóa thạch. Các doanh nghiệp, tập đoàn tư nhân trong nước cũng hành động ngay cùng Chính phủ. Một số tập đoàn đa quốc gia sẵn sàng hợp tác với các cơ quan thuộc Chính phủ để thực hiện mục tiêu đạt phát thải ròng bằng “0” trong các hoạt động của doanh nghiệp. Như vậy, trong thời gian ngắn kể từ Hội nghị COP26 đến nay, Chính phủ, các bộ, ngành, cơ quan có liên quan đã triển khai nhiều hành động thực hiện cam kết, nhận được sự ủng hộ vào cuộc của các cơ quan, tổ chức trong nước và quốc tế, các địa phương và doanh nghiệp. Việc thực hiện mục tiêu cam kết của Việt Nam tại COP26 đòi hỏi phải quyết tâm, nỗ lực cao; huy động mọi nguồn lực, toàn xã hội, toàn dân vào cuộc, trong đó kết nối và vận động thu hút nguồn lực từ quốc tế, các dòng tài chính xanh, chuyển giao công nghệ, tri thức, kinh nghiệm của các nước, các tổ chức quốc tế là rất quan trọng. PV: Trân trọng cảm ơn ông! |