Tại sao phải đa phương hóa, đa dạng hóa

1. Tìm hiểu về đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại:

Thuật ngữ quan hệ đa phương hiện đang được sử dụng rộng rãi trong pháp luật Việt Nam và các văn kiện quốc tế. Mặc dù pháp luật nước ta vẫn chưa có quy định cụ thể, nhưng chúng ta có thể hiểu quan hệ đa phương là hình thức ngoại giao giữa nhiều quốc gia, nhằm mục đích giải quyết những vấn đề chung như chiến tranh, hoà bình, hợp tác và đấu tranh để cùng tồn tại và phát triển. Các quốc gia có thể thiết lập quan hệ đa phương thông qua việc ký kết, thừa nhận các điều ước, công ước, hiệp định quốc tế.

Tại Việt Nam, định hướng chính sách đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối ngoại trên thực tế, đã được thực hiện từ giai đoạn đầu thời kỳ đổi mới, có xuất phát điểm từ chính sách kinh tế đối ngoại. Cho đến giai đoạn hiện nay thì quan hệ đối ngoại của Việt Nam bắt đầu được đẩy mạnh theo hướng đa dạng hóa, đa phương hóa. Về lĩnh vực, hoạt động ngoại giao từ quan hệ chính trị là chủ yếu sang quan hệ chính trị – kinh tế. Về đối tác, bên cạnh các nước xã hội chủ nghĩa, Việt Nam hiện nay cũng mở ra quan hệ với các nước Đông Nam Á, các nước phương Tây. Định hướng đa dạng hóa, đa phương hóa chính thức được đưa vào văn kiện trong Đại hội VIII và từ đó được tiếp tục khẳng định trong các văn kiện của Đảng.

Tính đến nay có rất nhiềuđiều ước quốc tế đa phương mà Việt Nam là thành viên, trên nhiều lĩnh vực (chính trị, thương mại, nhân quyền…) có thể kể đến như mốt số các điều ước quốc tế đa phương sau đây:

– Công ước quốc tế các quyền kinh tế, xã hội và văn hoá 1966.

– Công ước quốc tế về quyền dân sự và chính trị 1966.

– Công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em 1989.

– Công ước Berne năm 1971 về việc bảo hộ các tác phẩm văn học và nghệ thuật.

– Công ước Viên về mua bán hàng hóa quốc tế năm 1980 (CISG).

– Và nhiều các điều ước quốc tế đa phương khác.

Các chính sách đối ngoại đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế, cũng như vai trò và sự đóng góp của Việt Nam trong những năm gần đây đối với Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) và khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương và thực chất vị thế của Việt Nam ngày càng được nâng cao trong khu vực và trên thế giới.

Cũng theo đó, hiện nay, trong bối cảnh tình hình thế giới xuất hiện nhiều diễn biến phức tạp, đặc biệt sự bùng phát của đại dịch viêm đường hô hấp cấp COVID-19 đã tác động sâu sắc tới các mối quan hệ quốc tế, nhưng Việt Nam vẫn được tôn vinh khi đảm nhiệm thành công vai trò Chủ tịch ASEAN, góp phần nâng cao vị thế của Việt Nam nói riêng và ASEAN nói chung trong quan hệ với các đối tác, cũng như góp phần vào nỗ lực chung của cộng đồng quốc tế nhằm mục đích để có thể thúc đẩy giải pháp đa phương cho các vấn đề liên quan tới hòa bình, an ninh và phát triển ở khu vực Đông Nam Á nói riêng và khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương nói chung. Và thực chất, chúng ta nhận thấy rằng, điều này không chỉ có ý nghĩa quan trọng đối với riêng Việt Nam, mà nó cũng còn đối với các quốc gia ở châu Á.

Việt Nam hiện nay đã không ngừng nỗ lực, tích cực và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế thông qua việc tham gia ký kết nhiều hiệp định thương mại đa phương quan trọng cụ thể có thể kể đến như các Hiệp định sau: Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương, Hiệp định Thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu, Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực, Hiệp định Thương mại tự do (FTA) giữa Việt Nam và Anh. Điều này xảy đến cũng đã góp phần quan trọng tạo động lực để từ đó Việt Nam phát triển kinh tế.

Bên cạnh việc thúc đẩy hợp tác đa phương, Việt Nam hiện nay cũng chú trọng củng cố và tăng cường quan hệ hợp tác song phương với các nước láng giềng và các đối tác quan trọng như Mỹ, Ấn Độ, Nhật Bản, Pháp, Italy, Anh… nhằm mục đích để có thể từ đó tạo môi trường hòa bình, thuận lợi để nhằm mục đích có thể từ đó bảo vệ lợi ích quốc gia và phát huy tiềm lực đất nước.

Nhằm mục đích để góp phần đảm bảo môi trường hòa bình, ổn định và phát triển ở khu vực Đông Nam Á nói riêng và khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương nói chung, Việt Nam cần chú trọng tăng cường mối quan hệ đối tác với các cường quốc khu vực có lợi ích chung trong việc thúc đẩy khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương tự do và mở.

Về xu hướng hợp tác quốc tế, thế giới đang hướng đến cục diện đa cực với xu thế dân chủ hóa phát triển mạnh mẽ trong quan hệ quốc tế, các quốc gia trên thế giới đa số đều rất coi trọng các thể chế, các phương thức giải quyết đa phương nhằm phục hồi kinh tế, mở rộng không gian phát triển, tạo thêm thế và lực trong cục diện mới. Thực tiễn thời gian qua đã cho thấy, Châu Á – Thái Bình Dương đã tận dụng xu hướng phát triển này, tạo nên sự năng động trong các hoạt động đối ngoại trên mọi lĩnh vực và được đánh giá là dẫn đầu về xu hướng liên kết đa tầng, nhờ đó đã trở thành trung tâm kinh tế, chính trị và động lực tăng trưởng toàn cầu.

Nhận thức được tầm quan trọng của công tác ngoại giao đa phương, cùng với xu thế phát triển chung của khu vực, Việt Nam hiện nay cũng đã có những thay đổi mang tính quyết lược để nắm bắt thời cơ, tận dụng cơ hội, mang lại thế và lực mới cho đất nước trên các diễn đàn hợp tác đa phương.

Thời kỳ ngoại giao Việt Nam đa phương hóa, đa dạng hóa theo tư duy mới

PGS. TS. Hà Minh Hồng 14/10/2021 16:07

Baoquocte.vn. Ngoại giao Việt Nam hiện đại từ khi nền dân chủ cộng hòa được thành lập đến nay, về cơ bản có 3 thời kỳ phát triển; mỗi thời kỳ có ngắn dài về thời gian và khác nhau về cách thức, nhưng đều chung một tiến trình đa phương hóa, đa dạng hóa.

Thực tế lịch sử cho thấy, ngay sau Cách mạng tháng Tám, trong Lời kêu gọi Liên hợp quốc (1946) Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu rõ nguyên tắc trong chính sách đối ngoại của Việt Nam “Đối với các nước dân chủ, nước Việt Nam sẵn sàng thực thi chính sách mở cửa và hợp tác trong mọi lĩnh vực […] Việt Nam chấp nhận tham gia mọi tổ chức hợp tác kinh tế quốc tế dưới sự lãnh đạo của Liên hợp quốc”#_edn1.

trong Lời kêu gọi Liên hợp quốc (1946) Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu rõ nguyên tắc trong chính sách đối ngoại của Việt Nam.

Ngày 14/1/1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tuyên bố với chính phủ các nước trên thế giới: “Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà sẵn sàng đặt quan hệ ngoại giao với Chính phủ nước nào trọng quyền bình đẳng, chủ quyền lãnh thổ và chủ quyền quốc gia của nước Việt Nam, để cùng nhau bảo vệ hoà bình và xây đắp dân chủ thế giới”#_edn2. Đây là cách thức Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sớm tự xác lập nền ngoại giao đa phương hóa, đa dạng hóa phù hợp với tình hình và bản chất mới của thế giới chuyển biến nhanh chóng, toàn diện sau chiến tranh thế giới lần thứ II.

Chính nhờ xác định như thế, cho nên dù lúc còn non trẻ trong thế nước “ngàn cân treo sợi tóc”, hay khi đủ sức làm nên những thắng lợi “lừng lẫy năm châu”, “chấn động địa cầu”, cũng như suốt 30 năm kháng chiến trường kỳ, Việt Nam không chỉ thiết lập và không ngừng mở rộng quan hệ ngoại giao với hàng chục nước trong và ngoài hệ thống xã hội chủ nghĩa; mà còn nhận được ngày càng nhiều sự đoàn kết, giúp đỡ, ủng hộ của các nước anh em, các nước bầu bạn và nhân dân tiến bộ trên toàn thế giới.

Việt Nam trở thành bộ phận hữu cơ, một ngọn cờ tiên phong của phong trào giải phóng dân tộc và phong trào hòa bình, dân chủ thế giới thế kỷ XX; đối ngoại vì “hoà bình và xây đắp dân chủ thế giới” đã làm thành sức mạnh thời đại, hợp với sức mạnh dân tộc “dựa vào sức mình là chính”, làm nên thắng lợi ngày 30/4/1975.

Sau năm 1975, thế giới sau chiến tranh Việt Nam tiếp tục chuyển biến nhanh chóng và toàn diện, nhất là từ khi kết thúc “Chiến tranh Lạnh”, trật tự lưỡng cực bị phá bỏ và một thế giới đa cực hình thành. Việt Nam vượt qua tình thế khó khăn hiểm nghèo 10 năm (1975-1985) để bước vào công cuộc “Đổi mới”, từng bước xây dựng và phát triển trong thế giới đa cực.

Một thời kỳ mới của ngoại giao Việt Nam đa phương hóa, đa dạng hóa đã hiện hữu như một thực thể logic và tất yếu. Không củng cố quan hệ đối ngoại theo mô hình “hòn đá tảng”#_edn3 nữa; không chỉ chăm chút cho quan hệ “anh em”, láng giềng nữa; cùng với thế và lực mới của quốc gia dân tộc ngày càng được tăng cường, Việt Nam từng bước “là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, góp phần vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới”#_edn4.

Bằng việc thiết lập quan hệ đối ngoại với 189/193 quốc gia thành viên LHQ, trong đó có 30 đối tác chiến lược, đối tác toàn diện (gồm tất cả các nước lớn và 5 nước Ủy viên thường trực Hội đồng bảo an Liên hợp quốc), ngoại giao Việt Nam từng bước “mở rộng và đi vào chiều sâu, tạo khung khổ quan hệ ổn định và bền vững với các đối tác. Chủ động tham gia xây dựng các nguyên tắc, chuẩn mực trong các thể chế đa phương khu vực và toàn cầu; xử lý đúng đắn, hiệu quả quan hệ với các nước láng giềng, các nước lớn, các đối tác chiến lược, đối tác toàn diện và các đối tác khác”#_edn5.

Không chỉ giữ vững độc lập, tự chủ, thế mạnh của đất nước được phát huy, Việt Nam từng bước hội nhập quốc tế, hiểu được cách xử lý các mối quan hệ quốc tế; uy tín, tiếng nói của Việt Nam được bạn bè, đối tác trong khu vực và trên thế giới tôn trọng.

Việt Nam hoàn thành tốt vai trò kép 3 trọng trách: Chủ tịch ASEAN 2020, Chủ tịch Đại hội đồng Liên nghị viện ASEAN 2020, Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an LHQ 2020-2021.

Bước vào thập niên 20 của thế kỷ XXI, một thời kỳ mới của quá trình chuyển biến phát triển đã bắt đầu. Đó là khi thế giới đã và đang trải qua những biến động to lớn, tình hình quốc tế và khu vực tiếp tục có những diễn biến phức tạp, khó lường. Mặc dù hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là các xu thế lớn, nhưng cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn tiếp tục ảnh hưởng mạnh mẽ đến quan hệ quốc tế. Việc ứng phó với đại dịch Covid-19 tác động nhanh và toàn diện đến quá trình phục hồi kinh tế toàn cầu…

Cũng hiện hữu một thời kỳ mới cho Việt Nam xây dựng và phát triển đất nước, nhất là khi xác định rõ các mốc lịch sử trăm năm trọng đại 2030, 2045. Trong bàn cờ địa – chiến lược, địa – kinh tế ở khu vực, Việt Nam đã và đang giữ cân bằng trong quan hệ với các nước để trở thành nhân tố ngày càng quan trọng trong chiến lược khu vực và toàn cầu của các nước lớn, cơ hội và thách thức đối với đất nước ngày càng nhiều.

Việt Nam đã giải quyết hàng loạt nhiệm vụ có tính “vạn sự khởi đầu nan”, ảnh hưởng lớn đến thời kỳ phát triển mới. Đáng kể nhất là: Việt Nam hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế khu vực và toàn cầu, trở thành mắt xích của nhiều liên kết kinh tế lớn, quan trọng ở khu vực và liên khu vực; Việt Nam chuyển từ vị thế tham gia các cơ chế, khuôn khổ do các nước khác dẫn dắt, sang vị thế cùng khởi xướng và kiến tạo cơ chế mới, sân chơi mới. Việt Nam hoàn thành tốt vai trò kép 3 trọng trách: Chủ tịch ASEAN 2020, Chủ tịch Đại hội đồng Liên nghị viện ASEAN 2020, Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an LHQ 2020-2021.

Trong bối cảnh ấy, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII đề ra định hướng phát triển của Việt Nam giai đoạn 2021- 2030 nêu rõ: “Tiếp tục thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hoá, đa dạng hoá; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, có hiệu quả; giữ vững môi trường hoà bình, ổn định, không ngừng nâng cao vị thế, uy tín quốc tế của Việt Nam”#_edn6.

Ngoại giao Việt Nam một lần nữa nhận thức vấn đề đa phương hóa, đa dạng hóa theo tư duy mới. Việc nhận diện trong thách thức luôn có cơ hội, vai trò tiên phong của đối ngoại; việc xác định lợi ích tối cao của quốc gia - dân tộc; đẩy mạnh và nâng tầm đối ngoại đa phương; việc xây dựng nền ngoại giao toàn diện, hiện đại với ba trụ cột (đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước, đối ngoại nhân dân)… được coi là những vấn đề mới trong nhận thức thực tiễn.

Trong bài viết ngày 5/4/2021 với nhan đề "Đường lối đối ngoại Đại hội XIII với khát vọng phát triển của đất nước", Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Bùi Thanh Sơn nhấn mạnh tư duy về đối ngoại song phương và đa phương trong Văn kiện Đại hội XIII có những bước phát triển mới.

Người đứng đầu ngành ngoại giao Việt Nam từng phân tích theo cách xác định yêu cầu nhiệm vụ: “cần tiếp tục đưa các mối quan hệ đối ngoại song phương đi vào chiều sâu”, cần “tạo thế đan xen lợi ích” và “tăng độ tin cậy” trong quan hệ song phương; cần “chủ động tham gia, tích cực đóng góp, nâng cao vai trò của Việt Nam trong xây dựng, định hình các thể chế đa phương và trật tự chính trị - kinh tế quốc tế”#_edn7.

Như vậy, đã có cơ sở thực tiễn để đẩy mạnh và nâng tầm đối ngoại song phương và đa phương, đã có tiền lệ chủ động tham gia và phát huy vai trò của Việt Nam trong nhiều cơ chế quốc tế; do đó mục tiêu của đối ngoại đa phương: “nỗ lực vươn lên đóng vai trò nòng cốt, dẫn dắt hoặc hòa giải tại các diễn đàn, tổ chức đa phương có tầm quan trọng chiến lược đối với đất nước”#_edn8, như Chỉ thị 25 xác định vừa tầm và khả thi. Nhiệm vụ “giữ vững môi trường hòa bình, ổn định và tranh thủ tối đa các nguồn lực bên ngoài để tạo tiền đề thuận lợi cho việc hiện thức hóa khát vọng phát triển”, cũng đủ “thiên thời, địa lợi, nhân hòa” để đạt được mục tiêu “tạo nền tảng” cho Việt Nam “trở thành nước phát triển có thu nhập cao vào năm 2045”#_edn9.

*Tác giả PGS. TS. Hà Minh Hồng thuộc Khoa Lịch sử, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn TP. Hồ Chí Minh.


#_ednref1 Hồ Chí Minh Toàn tập Tập 4. Nxb CTQG H.2011 trang 523

#_ednref2 Hồ Chí Minh Toàn tập Tập 6. Nxb CTQG H.2011 trang 311

#_ednref3 Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ V (1982) khẳng định “Đoàn kết và hợp tác toàn diện với Liên Xô luôn luôn là hòn đá tảng của chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta”. Văn kiện đảng toàn tập, NXB. Chính trị quốc gia, Hà Nội, t.43, tr.142

#_ednref4 Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI. Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr 84

#_ednref5 Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII

#_ednref6 Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII

#_ednref7 Bùi Thanh Sơn, Đường lối đối ngoại Đại hội XIII với khát vọng phát triển của đất nước

#_ednref8 Chỉ thị số 25-CT/TW (ngày 8-8-2018) của Ban Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam về đẩy mạnh và nâng tầm đối ngoại đa phương đến năm 2030

#_ednref9 Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII

Đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (140.5 KB, 11 trang )

MỤC LỤC
Trang


MỞ BÀI
Nếu muốn tồn tại thì cách duy nhất đối với mọi cá thể là hòa nhập với cộng
đồng, cùng nhau vận động, giao lưu và phát triển, với một đất nước cũng vậy. Từ
khi đất nước chưa thống nhất, Đảng và Nhà nước đã đều xác định nước ta là một bộ
phận không thể tách rời của thế giới, gắn liền với tiến trình phát triển của thế giới.
Cô lập mình với thế giới chính là cánh cửa dẫn tới sự diệt vong của quốc gia. Việt
Nam chúng ta đã từng có một thời kỳ như vậy, chỉ bó hẹp quan hệ với các nước xã
hội chủ nghĩa mà không quan tâm đến tình hình của các nước khác cũng như thế
giới nói chung, bị bao vây, cô lập bởi chính các nước trong khu vực. Nhưng rất
may, Đảng ta đã có những điều chỉnh kịp thời trong chính sách ngoại giao, giúp
đưa đất nước thoát khỏi tình thế đó. Trong đó phải kể đến Chủ trương về đa
phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ đối ngoại của Đảng ta lúc bấy giờ.
A.
I.
1.

NỘI DUNG

Hoàn cảnh lịch sử
Tình hình thế giới
Từ giữa những năm 80 của thế kỷ XX tình hình thế giới có nhiều biến động.
cuộc cách mạng khoa học và công nghệ phát triển nhanh chóng đã tác động sâu sắc
đến nền kinh tế thế giới. Xu thế chạy đua phát triển kinh tế đã dẫn đến cục diện hòa
hoãn giữa các nước lớn. Các nước đang phát triển cũng dần đổi mới chính sách đối
ngoại, thực hiện chủ trương đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế để
tranh thủ sự hỗ trợ về vốn, kỹ thuật và công nghệ. Hai xu hướng toàn cầu hóa và
khu vực hóa cũng có những ảnh hưởng không nhỏ đến chính sách ngoại giao của


các nước, trong đó có các nước Đông Nam Á.
Trong khi đó, hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa lâm vào khủng hoảng sâu
sắc. Đến đầu những năm 90, chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ
hoàn toàn. Trật tự thế giới hai cực theo đó cũng tan rã, mở ra thời kỳ mới với việc
hình thành trật tự thế giới đa cực.
Tư duy về sức mạnh trên thế giới cũng có sự thay đổi. Sức mạnh của một quốc
gia không chỉ bó hẹp ở mặt quốc phòng, chính trị, quân sự mà phải là tổng thể của


sự phát triển tất cả các mặt: kinh tế, văn hóa – xã hội, khoa học công nghệ,… trong
đó, kinh tế phải được đặt lên vị trí hàng đầu.
Những thành tựu của cuộc cách mạng kỹ thuật và công nghệ thông tin trong
những năm cuối thế kỷ 20 đã làm tăng tốc sự phát triển của lực lượng sản xuất,đưa
loài người từ xã hội công nghiệp sang xã hội hậu công nghiệp và đang bướcvào
ngưỡng cửa của xã hội thông tin, nền kinh tế tri thức. chính sự phát triểnmạnh mẽ
này, về khách quan đã dặt ra yêu cầu mở rộng thị trường lên một tầmmức mới,
bằng những phương cách mới. Quan hệ kinh tế vượt qua rào cản về địa lí lan ra
toàn cầu. Hàng hóa, tiền tệ, thông tin,… lưu thông khắp các nước. Hình thành
mạng lưới kinh tế đa chiều.
2.

Tình hình trong nước và những tác động của tình hình thế giới đến việc hình thành
chính sách đổi mới
Trước đổi mới do không nhận thức rõ được tầm quan trọng của việc hội nhập
quốc tế và thiết lập quan hệ ngoại giao với các nước trên thế giới, chưa bắt kịp
vowisxu hướng quốc tế mà Việt Nam vẫn trong thế bị bao vây, cô lập. Lấy cớ “Sự
kiện Campuchia”1 các nước ASEAN và một số nước khác thực hiện cấm vận chúng
ta; Mỹ ba lần phủ quyết chúng ta gia nhập Liên hợp quốc… bị cô lập lại bị các thế
lực thù địch chống phá, cộng với các chính sách phát triển sai lầm, không phù hợp
với hoàn cảnh khiến nước ta lâm vảo cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội nghiêm


trọng.
Những biến động của tình hình thế giới cũng tác động sâu sắc đến nhận thức và
tư duy của Đảng, là cơ sở cho sự đổi mới các chính sách. Đặc biệt sự sụp đổ của hệ
thống xã hội chủ nghĩa đứng đầu là Liên Xô là bài học quý giá cho chúng ta. Đảng
nhận định rằng sự sụp đổ đó không phải là sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội nói
chung mà là sự sụp đổ của một mô hình xã hội chủ nghĩa đã bị biến dạng, mang
nhiều khuyết tật. Từ đó Đảng đã rút ra nhiều kinh nghiệm cho công cuộc xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Đối với xu hướng toàn cầu hóa, Đảng khảng định: toàn cầu hóa là một xu thế
khách quan, có cả mặt tích cực và tiêu cực. Chúng ta cần phải tham gia quá trình


toàn cầu hóa, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực nhưng vẫn đảm bảo
độc lập, tự chủ.
Xuất phát từ tình hình cụ thể trong và ngoài nước và nhu cầu phát triển của
nước ta, những đánh giá về cục diện thế giới và khu vực nói trên, tại Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng diễn ra vào tháng 12/1986, Đảng ta bắt đầu đã
có những đổi mới sâu sắc và mang tính chiến lược về đường lối và chính sách đối
ngoại, đó là đường lối đổi mới xã hội về mọi mặt. Đại hội VIII của đảngchủ trương
“đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ đối ngoại”. Cụ thể như sau:
Nội dung đường lối đối ngoại thời kì đổi mới
1. Những nội dung chính
Có thể nêu ra một số chủ trương, chính sách lớn được đề cập trong các văn kiện

II.

-

của Đảng liên quan đến đối ngoại như:
Đưa các quan hệ quốc tế đã được thiết lập đi vào chiều sâu, ổn định, bền vững;


Mở rộng thêm các quan hệ đối ngoại theo hướng đa phương hóa, đa dạng hóa;
Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế theo lộ trình phù hợp;
Bổ sung và hoàn thiện hệ thống pháp luật và thể chế kinh tế phù hợp với các

-

nguyên tắc, quy định của WTO;
Đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu quả, hiệu lực của bộ máy nhà nước;
Nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, doanh nghiệp và sản phẩm trong hội nhập

-

kinh tế quốc tế;
Giải quyết các tốt các vấn đề văn hóa, xã hội và môi trường trong quá trình hội

-

nhập;
Tăng cường hợp tác quốc tế trong các lĩnh vực an sinh xã hội như giáo dục, bảo

-

hiểm, y tế, từ đó đẩy mạnh công tác xóa đói giảm nghèo;
Giữ vững và tăng cường quốc phòng, an ninh trong quá trình hội nhập;
Phối hợp chặt chẽ hoạt động đối ngoại của Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại

-

nhân dân; chính trị đối ngoại và kinh tế đối ngoại;
Đối mới và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lí của Nhà nước đối với các


hoạt động đối ngoại.
2. Chủ trương đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ đối ngoại
Trong đường lối ngoại giao thời kì đổi mới của Đảng không thể không nhắc đến
chủ trương đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ đối ngoại. Đây là một trong
những chủ trương quan trọng, thể hiện rõ nét sự đổi mới của Đảng trong quan điểm
và tư duy về công tác đối ngoại. Có thể nói việc đa phương hóa, đa dạng hóa các


quan hệ đối ngoại là cơ sở tiền đề để chúng ta thực hiện được các chủ trương khác
như hội nhập kinh tế quốc tế hay nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
a. Nội dung
Trước thời kì đổi mới, chúng ta đánh giá các quốc gia, các dân tộc khác chỉ đơn
thuần theo tiêu chí chính trị; cách mạng và phản cách mạng, xã hội chủ nghĩa và
phi xã hội chủ nghĩa, tốt và xấu, bạn và thù; có khuynh hướng đánh giá một cách
chủ quan về sức mạnh tuyệt đối của chủ nghĩa xã hội mà không nhận thấy chủ
nghĩa tư bản với khoa học công nghệ đã và đang phát triển mạnh mẽ, đặc biệt là
nền kinh tế. Do đó, Đảng chủ trương tập trung phát triển quan hệ ngoại giao với các
nước trong khu vực Đông Nam Á và các xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là Liên Xô – coi
quan hệ với Liên Xô là hòn đá tảng trong chính sách ngoại giao. Điều này khiến
cho quan hệ đối ngoại của Việt Nam bị bó hẹp trong hệ thống xã hội chủ nghĩa và
trong khu vực.
Tại Đại hội VI, lần đầu tiên Đảng đặt cơ sở cho việc mở rộng quan hệ kinh tế ra
ngoài các nước xã hội chủ nghĩa bằng chủ trương: “Chúng ta cần tranh thủ những
điều kiên thuận lợi mới về hợp tác kinh tế và khoa học kĩ thuật, tham gia ngày càng
rộng rãi việc phân công và hợp tác trong Hội đồng tương trợ kinh tế, đồng thời
tranh thủ mở rộng quan hệ với các nước khác”. Triển khai chính sách này, tháng
12/1987, ta đã ban hành Luật đầu tư nhằm thu hút vốn từ các nước trên thế giới,
không phân biệt chế độ chính trị - xã hội. Đại hội VI cũng đưa ra nhiều điều chỉnh
quan trọng khác trong đó có chủ trương bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc.
Đây là những chủ trương mở đầu cho quá trình đa phương hóa, đa dạng hóa các


quan hệ đối ngoại.
Nối tiếp tinh thần của Đại hội VI, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3 Khóa VII
tháng 6/1992 về chính sách đối ngoại là một Nghị quyết hết sức quan trọng, đã cơ
bản hoàn chỉnh đường lối, chính sách đối ngoại đổi mới của nước ta. Mục tiêu đối
ngoại của ta là giữ vững hòa bình, mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác tạo điều
kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ tổ quốc,
đồng thời góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa


bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Để thực hiện được mục tiêu đó
một trong những việc chúng ta cần làm đó là đẩy mạnh đa phương hóa, đa dạng
hóa các quan hệ quốc tế song song với giữ vững nền độc lập tự chủ. Độc lập tự chủ,
phát huy cao độ nội lực là nền tảng để phát triển các quan hệ quốc tế và hội nhập
quốc tế. độc lập tự chủ không có nghĩa là biệt lập, trái lại, phải mở rộng, đa dạng
hóa và đa phương hóa các quan hệ quốc tế, xây dựng được thế đứng vững chắc trên
trường quốc tế.
Chúng ta mở rộng quan hệ đối ngoại theo các nguyên tắc: tôn trọng độc lập, chủ
quyền, toàn vẹn lãnh thổ của nhau; không dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực;
giải quyết các mâu thuẫn bằng biện pháp hòa bình; không can thiệp vào công việc
nội bộ của nhau, bình đẳng và cùng có lợi.Chúng ta mở rộng quan hệ với mọi quốc
gia và mọi vùng lãnh thổ trên thế giới không phân biệt chế độ chính trị - xã hội và ý
thức hệ; trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, khoa học – công nghệ, văn hóa, giáo
dục, y tế, quốc phòng, an ninh,…; cả quan hệ song phương và đa phương; cả quan
hệ ngoại giao của Quốc hội, Chính phủ, quan hệ đối ngoại của Đảng và đối ngoại
nhân dân. Chúng ta coi trọng phát triển quan hệ hòa bình, hợp tác, hữu nghị với các
nước lánh giềng, khu vực, mở rộng quan hệ ngày càng sâu, ổn định, bền vững với
các nước lớn, các trung tâm kinh tế - tài chính quốc tế lớn là những lực lượng ảnh
hưởng đáng kể đến an ninh và phát triển của nước ta. Đồng thời ta không xem nhẹ
phát triển quan hệ với các nước khác, các nước bè bạn truyền thống, các lực lượng
cách mạng và tiến bộ, những người yêu chuộng hòa bình và công lí trên thế giới.


Nghị quyết Đại hội VIII của Đảng tháng 6/1996 quyết định đẩy nhanh tiến trình
hội nhập kinh tế quốc tế, hướng hoạt động đối ngoại sang phục vụ phát triển kinh tế
là chủ yếu và Nghị quyết Đại hội IX tháng 4/2001 nâng lên một mức cao hơn, chủ
trương “Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng
quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển”.
Từ chính sách đối ngoại chủ yếu dựa vào Liên Xô và các nước Xã hội chủ
nghĩa, ta đã chuyển sang chính sách đối ngoại mở rộng, đa phương hóa, đa dạng
hóa các quan hệ quốc tế, với phương thức tập hợp lực lượng rất linh hoạt, theo từng


vấn đề và từng thời điểm cụ thể. Trong quan hệ quốc tế, chúng ta không đơn giản
phân định địch – ta, thù – bạn mà nhận định một cách biện chứng hơn: những ai
chủ trương tôn trọng độc lập, chủ quyền, thiết lập và mở rộng quan hệ bình đẳng,
cùng có lợi với Việt Nam đều là đối tác của chúng ta. Bất kể thế lực nào có âm
mưu và hoạt động chống phá mục tiêu của nước ta trong sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ tổ quốc đều là đối tượng đấu tranh. Trong mỗi đối tượng vẫn có mặt cần
tranh thủ hợp tác; trong một số đối tác quan trọng nhưng vẫn có thể có sự khác biệt,
mâu thuẫn với lợi ích của ta thì vẫn phải đấu tranh; xác định đối tương, đối tác tùy
theo tình huống, hoàn cảnh, tránh mơ hồ, cứng nhắc.
Với chủ trương đa phương hóa, đa dạng hóa trong các quan hệ ngoại giao của
Đảng, chúng ta đã đạt được một số thành tựu nhất định cũng như gặp phải một số
hạn chế.
b. Kết quả
- Thành tựu
Ta đã phá được thế đất nước bị bao vây, cấm vận, cô lập; thiết lập quan hệ ngoại
giao với hầu hết các nước trên thế giới không phân biệt chế độ chính trị, trên mọi
phương diện từ chính trị, kinh tế đến an ninh, quốc phòng.
Đến nay, VIệt Nam đã có quan hệ ngoại giao khoảng 180 quốc gia3(tính đến hết
năm 2013), có quan hệ thương mại với gần 230 quốc gia và vùng lãnh thổ, là thành
viên tích cực của hơn 70 tổ chức khu vực và quốc tế. Chúng ta đã có 98 cơ quan đại


diện tại các quốc gia và vùng lãnh thổ khắp 5 châu lục trên thế giới.. Thế và lực của
đất nước ngày càng vững mạnh, vai trò và vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế
được nâng cao hơn bao giờ hết. Tất cả đều là minh chứng cho chủ trươngđa dạng
hóa, đa phương hóa các quan hệ quốc tế.
Ta đã đi từ bình thường hóa quan hệ đến xác lập khuôn khổ quan hệ ổn định, lâu
dài với các nước lớn như Trung Quốc, Mỹ, Liên minh châu Âu. Nhìn chung, quan
hệ giữa ta với các nước lớn đã có những tiến bộ rõ rệt. Việt Nam hiện nay dưới
chính thể Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với hơn
180 nước thuộc tất cả các châu lục và có quan hệ bình thường với tất cả các nước
lớn. Đặc biệt, lần đầu tiên trong lịch sử ngoại giao dân tộc, chúng ta đã đảm nhiệm


thành công cương vị ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc
nhiệm kỳ 2008-2009 và Chủ tịch ASEAN năm 2010
Trong số các nước đã thiết lập quan hệ ngoại giao, Việt Nam đã tuyên bố thiết
lập quan hệ đối tác chiến lược với 10 quốc gia gồm: Liên bang Nga (2001), Nhật
Bản (2006), Ấn Độ (2007), Trung Quốc (2008), Hàn Quốc, Tây Ban Nha (2009),
Vương quốc Anh (2010), Đức (2011), Ý (2013). Trong đó mối quan hệ như với
Trung Quốc và Nga đã được nâng lên tầm đối tác chiến lược toàn diện….2 Từ năm
2009, Việt Nam cũng đã thiết lập quan hệ đối tác toàn diện với Úc. Cả Pháp và Việt
Nam cũng thống nhất sẽ sớm nâng quan hệ song phương lên tầm đối tác chiến lược
thậm chí là Việt Nam cũng có ý định tương tự với Mỹ và một vài quốc gia trong
khu vực Đông Nam Á. Các nước lớn, trong đó có cả Mỹ, đều đã cử nguyên thủ
sang thăm chính thức nước ta và các đồng chí lãnh đạo cấp cao của Đảng và Nhà
nước ta ngược lại cũng đã đi thăm chính thức các nước đó. Với Trung Quốc, ta đã
ký Tuyên bố chung, Thông cáo chung Việt Nam – Trung Quốc với phương châm
“láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai”. Với
Mỹ, ta đã ký Hiệp định Thương mại Việt Nam – hoa kỳ và nhiều văn bản hợp tác
khác. Ta cũng đã ký Hiệp định về hợp tác với Liên minh châu Âu, Tuyên bố về
quan hệ đối tác chiến lược với Nga và Khuôn khổ quan hệ đối tác tin cậy và ổn


định lâu dài với Nhật Bản.
Trong khu vực, việc rút quân tình nguyện khỏi Campuchia và chủ động tham
gia giải pháp chính trị cho vấn đề Campuchia là bước đi lớn, tạo tiền đề thuận lợi
để gia nhập ASEAN. Các vấn đề về biên giới, lãnh thổ, biển đảo với các nước trong
khu vực như Philippine, Thái Lan, Malaysia…phần lớn cũng được chúng ta giải
quyết trong hòa bình bằng các biện pháp ngoại giao, góp phần xây dựng một khu
vực Đông Nam Á hòa bình, ổn định và thịn vượng lâu dài. Đồng thời cùng với
ASEAN, chúng ta cũng tích cực giải quyết các tranh chấp trên biển Đông với
Trung Quốc.


Trong lĩnh vực kinh tế, việc mở rộng quan hệ với nhiều nước, đặc biệt là các
nước lớn đã giúp chúng ta tranh thủ được nhiều nguồn vốn ODA và FDI, mở rộng
thị trường ngoài nước, tăng cường hội nhập kinh tế quốc tế. Năm 2011, giải ngân
ODA của Việt Nam đạt 3,65 tỷ USD. Con số này chỉ chiếm chưa đầy một nửa số
vốn 7,9 tỷ USD cam kết tại Hội nghị CG năm 2010, nhưng đã tăng 10% so với mức
giải ngân hơn 2,9 tỷ USD của năm 2010. Tại Hội nghị CG tháng 12/2011, các nhà
tài trợ tiếp tục cam kết cho Việt Nam trong năm tài khoá 2012 là 7,4 tỷ USD.
Không chỉ vậy, chúng ta còn tiếp thu các kĩ thuật khoa học, công nghệ tiên tiến của
nước ngoài để áp dụng vào trong nước, tăng sức sản xuất và cạnh tranh cho các
doanh nghiệp trong nước. Tất cả là động lực to lớn thúc nền kinh tế của chúng ta
không ngừng phát triển với tốc độ nhanh chóng trong suốt thời gian qua, kể từ khi
Đảng thực hiện chính sách đổi mới. Theo thống kê của viện chiến lược và chính
sách tài chính, tốc độ tăng trưởng kinh tế của chúng ta tăng tương đối đồng đều quá
các năm, nhất là về cuối năm. GDP cả nước năm 2011 tăng 5,89% ; quy mô nền
kinh tế ước đạt 119 tỷ USD, với mức GDP bình quân đầu người đạt 1.300
USD/năm.
- Khó khăn
Những thực tế trên đã chứng tỏ đường lối đối ngoại đổi mới của Đảng là đúng
đắn, thể hiện sự trưởng thành về nhận thức, quan điểm. Tuy nhiên không phải là


không có những khó khăn, thử thách mà chúng ta phải đối mặt.
+ Thứ nhất, cùng với quá trình mở rộng quan hệ ngoại giao những lo ngại về an
ninh trong nước cũng gia tăng với nhiều mầm mống nguy hại như sự can thiệp từ
bên ngoài, các lực lượng khủng bố, cực đoan…
+ Thứ hai, trong quan hệ với các nước, đặc biệt là các nước lớn, chúng ta còn
lúng túng, bị động, dễ bị chi phối, áp đặt. Thứ ba, hội nhập kinh tế quốc tế cũng
đem lại nhiều thách thức cho nền kinh tế trong nước như sự cạnh tranh của hàng
ngoại, hàng giả, hàng nhái…
+ Thứ ba, việc mở rộng giao lưu văn hóa khiến du nhập vào Việt Nam nhiều
yếu tố văn hóa không lành mạnh, không phù hợp với văn hóa truyền thống người
Việt, thậm chí còn mang tính chất phản động.


Và còn rất nhiều khó khăn, thách thức nữa chờ chúng ta khi tiến hành mở rộng
quan hệ ngoại giao, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế, đòi hỏi Đảng
phải thật tỉnh táo, đúng đắn khi đề ra các chính sách, đường lối tiếp theo.
B.

KẾT BÀI

Chủ trương đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ đối ngoại là một trong số
các chủ trương được đề ra và thực hiện trong suốt thời gian qua. Tuy còn bộc lộ
những hạn chế, nhưng nó vẫn đóng góp một phần to lớn vào quá trình thực hiện
đường lối đối ngoại, hội nhập kinh tế quốc tế từ năm 1986 đến nay. Có ý nghĩa rất
quan trọng: góp phần đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, nền kinh
tế Việt Nam có bước phát triển mới; thế và lực của Việt Nam được nâng cao trên
thương trường cũng như chính trường quốc tế. Các thành tựu đối ngoại trong suốt
quá trình qua đã chứng minh đường lối đối ngoại, hội nhập kinh tế quốc tế nói
chúng, chủ trương đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ đối ngoại nói riêng của
Đảng và Nhà nước trong thời kỳ đổi mới là đúng đắn và sáng tạo.


CHÚ THÍCH
1. Sự kiện campuchia
Nội chiến Campuchia là cuộc chiến giữa lực lượng của Đảng Cộng sản Campuchia (được biết đến
với tên gọi Khmer Đỏ) và đồng minh của họ, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Mặt trận Dân tộc
Giải phóng miền Nam đối chọi với lực lượng chính phủ Campuchia (và sau tháng 10 năm 1970 là
Cộng hòa Khmer), được Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng hòa hỗ trợ.
Cuộc nội chiến này cũng dẫn đến cuộc diệt chủng Campuchia, một trong số các cuộc diệt chủng
đẫm máu nhất trong lịch sử.
Tìm hiểu thêm tại http://vi.wikipedia.org/wiki/N%E1%BB%99i_chi%E1%BA%BFn_Campuchia
2. Cập nhật số liệu từ http://vi.wikipedia.org/wiki/Quan_h%E1%BB%87_ngo%E1%BA
%A1i_giao_c%E1%BB%A7a_Vi%E1%BB%87t_Nam
3. Cổng thông tin điện tử sở ngoại vụ http://haiphong.gov.vn/Portal/Detail.aspx?
Organization=SNV&MenuID=441&ContentID=18928
4.
5.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1.

Bộ giáo dục và đào tạo, Giáo trình đường lối cách mạng của Đảng cộng sản

2.

Việt Nam, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2009.
Hội đồng biên soạn giáo trình quốc gia các môn khoa học Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, Giáo trình lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam, Nxb.

3.



CTQG, Hà Nội, 2004.
Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam

4.

(hệ trung cấp), Nxb. CAND, Hà Nội, 2001.
Báo cáo chính trị của BCH Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam tại Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng, Văn kiện Đại hội Đảng thời kì đổi

5.

mới (Đại hội VI, VII, VIII, IX), Nxb. CTQG, Hà Nội, 2005.
Báo cáo chính trị của BCH Trung ương (khoá VII), Văn kiện Đại hội Đảng

6.

thời kì đổi mới (Đại hội VI, VII, VIII, IX), Nxb. CTQG, Hà Nội, 2005.
Báo cáo chính trị của BCH Trung ương khoá VII tại Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ VIII của Đảng, Văn kiện Đại hội Đảng thời kì đổi mới (Đại hội

7.

VI, VII, VIII, IX), Nxb. CTQG, Hà Nội, 2005.
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Văn kiện Đại hội Đảng thời

8.
9.

kì đổi mới (Đại hội VI, VII, VIII, IX), Nxb. CTQG, Hà Nội, 2005.


Trang web: http://www.cpv.org.vn
Trang web:

http://tapchicongsan.org.vn/Home/The-gioi-van-de-su-kien/2008/3089/Xu-theda-dang-hoa-da-phuong-hoa-hoi-nhap-khu-vuc.aspx
10.

Trang web:
http://luanvan.net.vn/luan-van/tieu-luan-van-de-da-phuong-hoa-da-danghoa-trong-chinh-sach-doi-ngoai-cua-nuoc-ta-58407/



Đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ" và "là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (167.24 KB, 19 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế đã và đang trở thành một trong
những xu thế chủ yếu của quan hệ kinh tế quốc tế hiện đại. Những phát triển
mạnh mẽ về khoa học và công nghệ đã góp phần đẩy nhanh quá trình quốc tế
hoá nền kinh tế thế giới. Thương mại thế giới đã tăng lên nhanh chóng. Với sự
ra đời của các thể chế toàn cầu và khu vực như WTO (Tổ chức thương mại thế
giới), EU (Cộng đồng châu Âu), APEC (Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu á - Thái
Bình Dương), NAFTA (Hiệp định mậu dịch tự do Bắc Mỹ)…, thế giới ngày nay
đang sống trong quá trình toàn cầu hoá mạnh mẽ. Quá trình này thể hiện không
chỉ trong lĩnh vực thương mại mà cả trong các lĩnh vực sản xuất, dịch vụ, tài
chính, đầu tư cũng như các lĩnh vực văn hoá, xã hội, môi trường với các hình
thức đa dạng và mức độ khác nhau. Toàn cầu hoá kinh tế tạo ra những quan hệ
gắn bó, sự tuỳ thuộc lẫn nhau và những tác động qua lại hết sức nhanh nhạy
giữa các nền kinh tế. Thông qua quá trình tự do hoá, toàn cầu hoá tạo ra những
lợi thế mới thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, đẩy mạnh giao lưu kinh tế
giữa các nước, góp phần khai thác tối đa lợi thế so sánh của các nước tham gia
vào nền kinh tế toàn cầu.
Quá trình toàn cầu hoá là qúa trình vừa hợp tác vừa đấu tranh giữa các
quốc gia, không chỉ giữa nước giàu và nước nghèo mà còn ngay cả giữa các
nước giàu với nhau nhằm giành vị trí có lợi nhất cho mình trong phân công lao
động và quan hệ kinh tế quốc tế. Toàn cầu hoá với mặt trái của nó là cuộc cạnh
tranh gay gắt trên quy mô thế giới đã và đang làm nảy sinh những vấn đề xã hội
như thất nghiệp gia tăng, phân hoá giàu nghèo ngày một sâu thêm, đồng thời
toàn cầu hoá cũng mở đường cho sự du nhập những văn hoá và lối sống không
phù hợp truyền thống và bản sắc dân tộc của mỗi quốc gia…
Quá trình toàn cầu hoá đang thúc đẩy mạnh mẽ sự hội nhập của các nước
vào nền kinh tế thế giới và khu vực. Hoà trong bối cảnh đó cùng với phương
châm "đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ" và "là bạn với tất cả các nước
trong cộng đồng thế giới phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển", Việt Nam
1
đã thiết lập quan hệ ngoại giao với hơn 160 nước và hầu hết các tổ chức quốc tế


và khu vực quan trọng. Với việc gia nhập ASEAN (7 - 1995), ký Hiệp định
khung về hợp tác kinh tế với EU (7 - 1995), tham gia APEC (11- 1998) và đang
chuẩn bị tích cực cho các cuộc đàm phán gia nhập Tổ chức thương mại thế giới
(WTO). Việt Nam đã và đang từng bước vững chắc hội nhập sâu rộng vào nền
kinh tế khu vực và thế giới.
Hơn lúc nào hết, quá trình toàn cầu hoá không chỉ là sự quan tâm của mỗi
quốc gia, mỗi tổ chức mà còn đối với mỗi cá nhân chúng ta, có rất nhiều các
bài viết của các nhà nghiên cứu và các chuyên gia đầu ngành trong và ngoài
nước đề cập đến các khía cạnh khác nhau của quá trình toàn cầu hoá và hội nhập
kinh tế quốc tế. Đây là vấn đề rộng lớn, phức tạp và có nhiều biến động; có cả
những nhận thức và quan điểm khác nhau, thậm chí đối lập nhau.
Qua việc tham khảo tài liệu cùng với những kiến thức đã được lĩnh hội
trong nhà trường, tôi đã lựa chọn báo cáo tóm tắt về đề tài "Toàn cầu hoá và
hội nhập kinh tế: xu thế, thời cơ và thách thức".
Nội dung của báo cáo được trình bày trong ba phần:
Phần 1: Nhận thức về toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế
Phần 2: Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế: thời cơ và thách thức.
Phần 3: Việt Nam với toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế.
2
I. NHẬN THỨC VỀ TOÀN CẦU HÓA VÀ HỘI NHẬP KINH TẾ
1. Toàn cầu hoá
Toàn cầu hoá. Nó đề cập tới một thế giới đang xích lại gần nhau hơn, tới
việc vượt qua những khoảng cách và sự khác biệt, tới việc mọi người cùng chia
sẻ hứa hẹn của tương lai.
Toàn cầu hoá là gì, và tại sao điều đó gây ra nhiều tranh cãi? Thông
thường đề tài này được đưa ra liên quan đến thương mại quốc tế, nhưng nó đang
vượt qua ngoài vấn đề đó. Toàn cầu hoá thực ra có nghĩa là thay đổi cách thức
mà mọi việc làm trong nước. Nhưng thay đổi không phải lúc nào cũng là điều
tốt. Giờ đây đối với một số người, từ này hiện thân cho thị trường tài chính tàn
phá các nền kinh tế, các đối thủ cạnh tranh nước ngoài nghiền nát các doanh


nghiệp trong nước, các quan chức hành chính xa vời đưa ra các quyết định làm
đảo lộn xã hội.
Có người cho rằng hiện nay đã nhất thể hoá kinh tế thế giới (toàn cầu) rồi.
Cách nói này thiếu chính xác. Chỉ khi toàn bộ các yếu tố sản xuất (nguồn vốn,
hàng hoá, nhân viên, dịch vụ lao động) đều được lưu thông tự do trong quy tắc
thống nhất của toàn cầu, mới có thể gọi là "nhất thể hoá kinh tế toàn cầu". Trong
tình trạng các nước vẫn tồn tại lợi ích khác nhau thì khi thực hiện "nhất thể hoá
kinh tế thế giới" nên chúng ta chỉ có thể sử dụng những khái niệm tương đối
chuẩn xác như "toàn cầu hoá kinh tế" hay "hợp tác kinh tế toàn cầu". Cần nhận
thấy rằng "Toàn cầu hoá" không có chữ "kinh tế" đi kèm thì hàm nghĩa của nó
rộng hơn nhiều bao gồm mọi vấn đề có liên quan tới hợp tác toàn cầu. Vì thế lại
nảy sinh quan niệm cho rằng "toàn cầu hoá" sẽ trở thành một loại hình thái ý
thức và văn hoá thống nhất toàn cầu. Chúng ta không phản đối, thậm chí còn
thúc đẩy trao đổi hợp tác giữa các quốc gia, mong muốn học tập và thu hút mọi
tinh hoa văn hoá có lợi của các nước. Nhưng chúng ta không thể nhập khẩu hình
thái ý thức của nước khác, càng không được Tây hoá hoàn toàn. Vì vậy, phải sử
dụng thận trọng chữ "toàn cầu hoá", chúng ta cũng phải tính toán rằng lĩnh vực
nào có thể toàn cầu hoá, lĩnh vực nào phải hợp tác có lựa chọn thậm chí không
hợp tác.
3
Vậy toàn cầu hoá kinh tế là dưới sự tác động của quốc tế hoá sản xuất và
cách mạng khoa học kỹ thuật không ngừng phát triển, tính dựa dẫm vào nhau, bổ
sung cho nhau của nền kinh tế các nước ngày càng gia tăng, yếu tố cản trở sản
xuất đang ngày càng mất đi bởi sự tự do lưu thông toàn cầu.
Mặc dù vậy, toàn cầu hoá kinh tế vẫn ở trong giai đoạn đầu của nó. Lĩnh
vực then chốt hợp tác toàn cầu hoá kinh tế vẫn chỉ là mậu dịch, tự do lưu thông
nguồn vốn và sức lao động còn là vấn đề trong tương lai.
2. Nhận thức chung về hội nhập
Trong bối cảnh hiện nay, người ta đều thấy rằng, nhận thức về hội nhập
vẫn là một vấn đề thời sự. Các quốc gia đều khẳng định cần xây dựng nhận thức


thống nhất trong nội bộ rằng hội nhập là cần thiết, phù hợp với xu thế chung,
nhất là tham gia WTO sẽ tạo thuận lợi cho sự phát triển của đất nước.
- Hội nhập là một quá trình tất yếu, một xu thế bao trùm mà trọng tâm là
mở cửa kinh tế, tạo điều kiện kết hợp tốt nhất nguồn lực trong nước và quốc tế,
mở rộng không gian để phát triển và chiếm lĩnh vị trí phù hợp nhất có thể trong
quan hệ kinh tế quốc tế. Như vậy hội nhập vừa là đòi hỏi khách quan vừa là nhu
cầu nội tại của sự phát triển kinh tế mỗi nước. Cần phải hội nhập sớm, nhất là
tham gia WTO, để tranh thủ các cơ hội kinh doanh, để có tiếng nói trong quá
trình hình thành luật lệ kinh tế, thương mại quốc tế có lợi cho mình. Hội nhập
muộn sẽ phải chấp nhận nhiều quy định đã rồi, nghĩa vụ phải thực hiện sẽ lớn
hơn và thời gian chuyển tiếp ngắn hơn.
- Không thể né tránh việc hội nhập mà vấn đề then chốt là cần phải nhận
thức trước, tính toán đầy đủ cái giá phải trả cho việc tổ chức và vận hành các
hiệp định quốc tế, phải đề ra được những chính sách, biện pháp đúng để hạn chế
trả giá ở mức thấp nhất và tranh thủ cao nhất những cơ hội để phát triển.
- Hội nhập thực chất là tham gia cạnh tranh trên quốc tế và ngay trong thị
trường nội địa. Để hội nhập có hiệu quả, phải ra sức tăng cường nội lực, cải cách
và điều chỉnh cơ chế, chính sách, luật lệ, tập quán kinh doanh, cơ cấu kinh tế
trong nước để phù với "luật chơi chung" của quốc tế. Điều này không có nghĩa
là các nước bị ép phải cải cách, mở cửa, hội nhập nhưng thực ra cải cách, hội
4
nhập là vì sự phát triển của mình. Chính sách hội nhập phải dựa và gắn chặt với
chiến lược phát triển của đất nước, đồng thời cải cách kinh tế, hành chính phải
gắn chặt với yêu cầu của quá trình hội nhập. Cải cách trong nước và hội nhập là
"Con đường hai chiều". Cải cách bên trong quyết định tốc độ và hiệu quả hội
nhập, đồng thời hội nhập sẽ hỗ trợ, thúc đẩy tiến trình cải cách trong nước, qua
đó nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế. Cần phải nhận thức rằng dù có hội
nhập hay không thì vẫn tiếp tục cải cách, cải cách mạnh hơn, nhanh hơn vì sự
phát triển của mình. Điều quan trọng là phải duy trì ổn định chính trị, xã hội để
phát triển kinh tế và hội nhập có hiệu quả.


- Hội nhập không phải để được hưởng ưu đãi, nhân nhượng đặc biệt. Hội
nhập là mở rộng các cơ hội kinh doanh, thâm nhập thị trường, có môi trường
pháp lý và kinh doanh ổn định dựa trên quy chế, luật lệ của các thể chế hội nhập,
không bị phân biệt đối xử, không bị các động cơ chính tị hay những lý do khác
cản trở việc giao lưu hàng hoá, dịch vụ và đầu tư. Từ ổn định về thị trường, các
nước sẽ có điều kiện thuận lợi để xây dựng kế hoạch đầu tư, sản xuất, kinh
doanh ổn định dựa trên quy chế, luật lệ của các thể chế hội nhập, không bị phân
biệt đối xử, không bị các động cơ chính trị hay những lý do khác cản trở việc
giao lưu hàng hoá, dịch vụ và đầu tư. Từ ổn định về thị trường, các nước sẽ có
điều kiện thuận lợi để xây dựng kế hoạch đầu tư, sản xuất, kinh doanh ổn định,
giải quyết việc làm phát triển kinh tế. Ngoài ra, các nước có thể sử dụng những
luật lệ, quy định, cơ chế giải quyết tranh chấp của các thể chế hội nhập để bảo
vệ lợi ích chính đáng của mình.
- Phải tăng cường thông tin, tuyên truyền, giải thích để giới kinh doanh
nhận thức sâu sắc và ủng hội hội nhập, chuẩn bị thật tốt mọi mặt để chủ động
hội nhập từng bước, tận dụng những lợi thế so sánh của mỗi nước để cạnh tranh
chiếm lĩnh thị trường. Đặc biệt quan tâm đến việc thông tin, giải thích cho doanh
nghiệp và nhân dân, đặc biệt các thành phần bị ảnh hưởng bởi mở cửa và tự do
hoá, về lợi ích của hội nhập và tham gia WTO. Cần tham khảo và thu hút giới
doanh nghiệp tham gia xây dựng chính sách, lộ trình, các biện pháp hội nhập vì
chính họ sẽ thực hiện các cam kết và bảo đảm hiệu quả của quá trình hội nhập.
5
II. TOÀN CẦU HÓA VÀ HỘI NHẬP KINH TẾ: THỜI CƠ VÀ
THÁCH THỨC
1. Toàn cầu hoá và những động lực
Theo thuật ngữ kinh tế, động lực của quá trình toàn cầu hoá có thể được
biểu hiện thông qua 3 xu hướng chủ đạo sau đây:
- Xu hướng thứ nhất, và là xu hướng có tác động sâu sắc nhất là sự thay
đổi về khoa học - công nghệ. Khoa học và công nghệ có vai trò quyết định lợi
thế cạnh tranh và tốc độ phát triển của các quốc gia.


- Xu hướng thứ hai là việc ngày càng có nhiều Chính phủ theo đuổi chính
sách tự do hoá, mở cửa thị trường và loại bỏ những cản trở về mặt luật lệ đối với
các hoạt động kinh tế.
- Xu hướng thứ ba là sự kết hợp của những công nghệ mới và những thị
trường tự do hơn, tạo điều kiện cho các khu vực kinh doanh ở nhiều nước có thể
quốc tế hoá các hoạt động của mình, dệt nên một mạng lưới phức tạp hơn bao
giờ hết các hoạt động liên kết với nhau trên bình diện toàn cầu.
Cả 3 xu hướng này: tiến bộ công nghệ, tự do hoá kinh tế, quốc tế hoá sản
xuất - đã làm cho các quốc gia trở nên phụ thuộc lẫn nhau hơn về mặt kinh tế,
tạo ra những cơ hội cũng như những thách thức về kinh tế, xã hội, chính trị chưa
từng có.
2. Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế: Những lợi ích
Toàn cầu hoá là xu hướng tất yếu của quá trình tập trung, chuyên môn hoá
sản xuất và phân công lao động quốc tế. Khi nền kinh tế thế giới phát triển thành
một thị trường thống nhất thì không một quốc gia nào có thể đứng ngoài tiến
trình này mà có thể tồn tại và phát triển được.
Toàn cầu hoá và khu vực hoá đã trở thành một trong những xu thế chủ
yếu của quan hệ quốc tế hiện đại và sẽ tiếp tục phát triển mạnh trong thế kỷ tới.
Toàn cầu hoá và khu vực hoá được thể hiện rõ trong sự gia tăng rất nhanh trao
đổi quốc tế về hàng hoá, dịch vụ, tài chính và các yếu tố sản xuất.
Toàn cầu hoá và khu vực hoá còn được thể hiện qua sự hình thành và
củng cố của các tổ chức kinh tế quốc tế và khu vực.
6
Toàn cầu hoá và khu vực hoá được quyết định bởi nhiều yếu tố liên quan
tới công nghệ, thị trường và chính sách, nổi lên là: sự cạnh tranh gia tăng trong
kinh tế thế giới thúc đẩy tìm kiếm những thị trường có lợi nhất cho hàng xuất
khẩu và nguồn nhập khẩu rẻ nhất; những yếu tố thúc đẩy các công ty xuyên
quốc gia phân bố lại dây chuyền sản xuất, tiêu thụ, hình thành nên các mạng
lưới toàn cầu và khu vực. Sự phát triển trong công nghệ thông tin, thị trường tài
chính, dịch vụ và giao thông vận tải…


Toàn cầu hoá và khu vực hoá có tác dụng hỗ trợ, bổ sung cho nhau và
cùng nhằm mục tiêu thúc đẩy trao đổi hàng hoá, dịch vụ, vốn và lao động. Liên
kết khu vực vừa củng cố quá trình toàn cầu hoá vừa giúp các nước trong từng
khu vực bảo vệ lợi ích của mình. Mặt khác, toàn cầu hoá, khu vực hoá cũng làm
cho sự cạnh tranh giữa các thực thể kinh tế trở nên gay gắt chưa từng có.
Toàn cầu hoá đã và đang mang lại những cơ hội to lớn cho nền kinh tế thế
giới và cho mỗi quốc gia tham gia vào quá trình hội nhập:
- Hội nhập quốc tế tạo điều kiện để phát huy lợi thế so sánh, thúc đẩy việc
tham gia vào phân công lao động quốc tế, tranh thủ được lợi ích của việc phân
bổ nguồn tài lực hợp lý trên bình diện quốc tế từ đó phát huy cao độ nhân tố sản
xuất hữu dụng của từng quốc gia.
- Tự do hoá luân chuyển hàng hoá, dịch vụ và vốn với việc hạ thấp hàng
rào thuế quan, đơn giản hoá trong khâu thủ tục, cắt giảm kiểm soát hành chính
sẽ góp phần giảm chi phí sản xuất, đầu tư, tăng sản lượng, giảm thất nghiệp và
tăng thêm lợi ích cho người tiêu dùng.
- Toàn cầu hoá tạo ra nhiều cơ hội đầu tư mới, tăng nhanh vòng quay vốn
và tạo điều kiện để đa dạng hoá các loại hình đầu tư nhờ đó vừa nâng cao hiệu
quả vừa hạn chế rủi ro đầu tư.
- Toàn cầu hoá thúc đẩy quá trình chuyển giao công nghệ, chuyển giao
vốn, kỹ năng quản lý, qua đó mở rộng địa bàn đầu tư cho các nước phát triển,
đồng thời giúp các nước tiếp nhận đầu tư có thêm nhiều cơ hội phát triển.
3. Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế: Những thách thức
7

Đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa dạng hoá, đa phương hoá: Sự kế thừa và phát triển của Đại hội XIII

03:24 PM - 19/04/2021 1793

Đại hội XIII của Đảng đã nêu ra nhiều quan điểm và chủ trương mới trong chiến lược phát triển đất nước đến giữa thế kỷ XXI. Trong lĩnh vực đối ngoại, Đại hội Đảng xác định thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối ngoại. Đây là sự kế thừa, đồng thời có sự phát triển nhận thức của Đảng về đường lối đối ngoại, trái với những luận điệu cố tình phủ nhận những điểm mới trong văn kiện Đại hội XIII.

Tình hình thế giới vào những năm cuối của thập kỷ 80 thế kỷ XX tác động mạnh mẽ đến việc điều chỉnh chính sách, chiến lược đối ngoại của các quốc gia. Trong bối cảnh đó, Đảng ta đã không ngừng đổi mới tư duy, phát triển đường lối đối ngoại cho phù hợp. Từ định hướng coi “đoàn kết và hợp tác toàn diện với Liên Xô luôn là hòn đá tảng của chính sách đối ngoại”, Đảng ta đã từng bước chuyển sang đa dạng hóa, đa phương hóa các quan hệ đối ngoại; từ chỗ chú trọng nhân tố chính trị - quân sự, sang ưu tiên cho nhân tố kinh tế, giữ vững hòa bình, độc lập và phát triển.

Điểm khởi đầu cho quá trình đổi mới tư duy đối ngoại của Đảng được đánh dấu bởi Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VI (năm 1986) và Nghị quyết 13-NQ/TW của Bộ Chính trị (năm 1988) khi khẳng định, lợi ích cao nhất của Đảng và nhân dân ta là phải củng cố và giữ vững hòa bình để tập trung xây dựng, phát triển kinh tế vì một nền kinh tế mạnh, một nền quốc phòng vừa đủ mạnh cùng với sự mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, chúng ta sẽ có nhiều khả năng giữ vững độc lập và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.

Tại sao phải đa phương hóa, đa dạng hóa

Đại hội VI khởi đầu cho quá trình đổi mới tư duy đối ngoại của Đảng. Ảnh tư liệu

Như vậy, từ yêu cầu của việc bảo vệ độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia và phát triển đất nước, Đảng ta đã đổi mới nhận thức về tình hình thế giới và khu vực, chuyển sang cách tiếp cận toàn diện hơn, coi thế giới như môi trường tồn tại, phát triển của đất nước. Trên cơ sở đó, Đảng cũng phải có sự đổi mới về tư duy đối ngoại để thích nghi với những biến đổi và yêu cầu của thực tiễn. Kết quả của quá trình đó là sự hình thành những hệ thống quan điểm đánh giá tình hình thế giới sát hơn, từ đó xây dựng chính sách đối ngoại ngày càng có hiệu quả phục vụ lợi ích quốc gia, dân tộc trong các giai đoạn cách mạng cụ thể.

Bước sang đầu thập niên 90 của thế kỷ XX, tình hình thế giới đòi hỏi chúng ta cần nhận thức nhạy bén và dự báo được những diễn biến phức tạp, những thay đổi sâu sắc trong quan hệ quốc tế để có sự chỉ đạo phù hợp về đối ngoại. Trong bối cảnh ấy, Đảng ta chủ trương hợp tác bình đẳng và cùng có lợi với tất cả các nước không phân biệt chế độ chính trị - xã hội khác nhau, trên cơ sở cùng tồn tại hòa bình. Vì vậy, Đại hội Đảng lần thứ VII (năm 1991) tuyên bố thực hiện chính sách đối ngoại rộng mở, “Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển”.

Để cụ thể hóa chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa với tất cả các nước theo nguyên tắc đã được xác định, Đại hội VIII (năm 1996) của Đảng chủ trương: “Thực hiện chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở, đa phương hóa và đa dạng hóa với tinh thần Việt Nam muốn là bạn của tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển”. Trong đó, Đảng dành ưu tiên lớn, xác định trọng tâm của mối quan hệ quốc tế là tăng cường quan hệ với các nước láng giềng và các nước ASEAN.

Trên cơ sở quan điểm của Đại hội VII và VIII, Đại hội IX của Đảng (năm 2001) đã bổ sung, phát triển thành: “Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của tất cả các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển”. Sự bổ sung và phát triển mới này vừa thể hiện đường lối đối ngoại hòa bình, hữa nghị của Đảng, Nhà nước ta, mong muốn chân thành sẽ là bạn với những ai mong muốn là bạn của Việt Nam, đồng thời biểu thị thái độ trách nhiệm cao của nước ta trong quan hệ quốc tế.

Tại sao phải đa phương hóa, đa dạng hóa

11 quốc gia trong đó có Việt Nam đã chính thức ký kết Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) tại thủ đô Santiago - Chile ngày 8/3/2018. Ảnh: Internet

Đại hội X của Đảng (năm 2006) tiếp tục nhấn mạnh quan điểm nhất quán của Việt Nam khi khẳng định: “Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực”. Sau đó, các Đại hội XI, XII của Đảng tiếp tục khẳng định và bổ sung thêm quan điểm của Đại hội X.

Đến Đại hội XIII, Đảng xác định: “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối ngoại.Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi. Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng; Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng đồng quốc tế”.

Có thể nói, từ chủ trương “muốn là bạn” đến “sẵn sàng là bạn”, “là bạn, là đối tác tin cậy”, “là thành viên tích cực, có trách nhiệm” trong cộng đồng quốc tế là cả một quá trình bổ sung, hoàn thiện đường lối đối ngoại của Đảng ta, thể hiện sự phát triển nhận thức của Đảng ta về đối ngoại qua mỗi thời kỳ lịch sử, tiến kịp với sự phát triển của thời đại, tranh thủ tối đa các nguồn lực bên ngoài để phát triển đất nước, nâng cao đời sống nhân dân.

Tại sao phải đa phương hóa, đa dạng hóa

Việt Nam chủ trì Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 37, tháng 11-2020

Sự phát triển tư duy và quan điểm đối ngoại của Đảng còn thể hiện ở việc đổi mới nhận thức về hợp tác và đấu tranh, từ quan niệm “địch - ta”, chuyển sang cách nhìn nhận có tính biện chứng về đối tác và đối tượng trên cơ sở lợi ích quốc gia - dân tộc trong từng hoàn cảnh cụ thể. Theo đó, những ai chủ trương tôn trọng độc lập chủ quyền, thiết lập và mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác bình đẳng cùng có lợi với Việt Nam đều là đối tác của chúng ta. Và bất kể thế lực nào có âm mưu và hành động chống phá sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đều là đối tượng đấu tranh. Với sự nhìn nhận biện chứng này thì trong một số đối tác, có thể có mặt khác biệt, mâu thuẫn với lợi ích của ta nên cần có biện pháp và hình thức đấu tranh thích hợp; còn trong mỗi đối tượng vẫn có mặt cần tranh thủ, hợp tác.

Đảng ta cũng nhận thức thực tế hơn về hội nhập quốc tế. Từ chỗ “phá thế bao vây, cấm vận” tiến đến “hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới”, và tiếp theo là “chủ động và tích cực hội nhập quốc tế” một cách toàn diện, sâu rộng. Theo đó, Việt Nam không ngừng phát triển quan hệ với các nước xã hội chủ nghĩa, các nước bạn bè truyền thống và quan hệ với các nước láng giềng, khu vực, các nước lớn; đưa các mối quan hệ đi vào chiều sâu. Bên cạnh đó, đổi mới tư duy còn giúp chúng ta thấy rõ quan hệ giữa các nước lớn với nhau, quan hệ giữa các nước lớn với các nước nhỏ, cũng như quan hệ giữa các nước láng giềng. Đó là những quan hệ chằng chịt, phức tạp đòi hỏi phải có chính sách đối ngoại mềm dẻo, cùng với sự ứng biến khéo léo với tinh thần bảo vệ bằng được độc lập dân tộc, lợi ích quốc gia và gìn giữ hòa bình để phát triển.

Có thể nói, Đảng ta đã nhận thức một cách nhanh nhạy và kịp thời những biến đổi nhanh chóng, liên tục của tình hình thế giới, từ đó tích cực, chủ động đổi mới tư duy đối ngoại và từng bước hoàn thiện đường lối đối ngoại đổi mới, chủ động hội nhập khu vực và thế giới. Thông qua đó, Việt Nam thúc đẩy mạnh mẽ các mối quan hệ đối ngoại song phương và đa phương, tham gia và phát huy tốt vai trò của mình tại các diễn đàn quốc tế và khu vực như: Liên hợp quốc, Phong trào Không liên kết, ASEAN, ARF, ASEM... Nhờ vậy, Việt Nam đã tận dụng được các nguồn lực của thế giới để đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; đồng thời, duy trì được môi trường hòa bình, ổn định để phát triển, bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc gia và nền độc lập của dân tộc.

Bá Tuyên

Hay!!

Việt Nam thịnh vượng