Tại sao việt nam lại cứu nước bằng con đường cách mạng vô sản

Vì sao trong quá trình tìm đường cứu nước Nguyễn ái Quốc lại lựa chọn con đường cách mạng vô sản Nội dung con đường cách mạng vô sản Việt Nam được Người nêu lên trong thời gian từ 1920 – 1927

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (97.07 KB, 10 trang )

Đại học quốc gia Hà Nội
Đại học khoa học xã hội và nhân văn
Khoa lịch sử

Môn: Lịch sử Đảng
Đề bài: Vì sao trong quá trình tìm đường cứu nước Nguyễn ái Quốc
lại lựa chọn con đường cách mạng vô sản? Nội dung con đường cách
mạng vô sản Việt Nam được Người nêu lên trong thời gian từ 1920 –
1927.
1
Những năm 20 của thế kỷ XX là những năm rất quan trọng
trong đời sống chính trị của đất nước, có thể gọi là những năm bản lề
trong lịch sử cận đại Việt Nam gắn chặt với tên tuổi của Nguyễn ái
Quốc”. Đây là thời kỳ đánh dấu sự tìm ra con đường cứu nước đúng
đắn của Người cho dân tộc Việt Nam và bắt đầu hướng dân tộc Việt
Nam đi theo con đường đó - con đường cách mạng vô sản. Vậy tại sao
Nguyễn ái Quốc lại lựa chọn con đường cách mạng vô sản trong quá
trình tìm đường cứu nước và nội dung của con đường cách mạng vô
sản (trong giai đoạn hoạt động 1920-1927) ra sao?
Nguyễn ái Quốc (1890-1969) sinh ra trong một gia đình nhà nho
giàu truyền thống yêu nước, tại một vùng quê giàu tinh thần cách
mạng. ý chí quyết tâm tìm đường cứu nước của Người đã có từ rất
sớm.
Ngay từ khi còn rất trẻ, Nguyễn ái Quốc đã biết đến con đường
cứu nước theo ý thức hệ phong kiến, hay theo tư tưởng dân chủ tư sản
với hai khuynh hướng bạo động của Phan Bội Châu và ôn hoà của
Phan Châu Trinh, rồi sau này trên bước đường hoạt động đầy gian
khổ ở nước ngoài (1911-1919), Người đã tiếp xúc với nhiều con
đường, cách thức đấu tranh của các dân tộc thuộc địa khác hoặc của
ngay bản thân giai cấp công nhân, Đến năm 1920, Nguyễn ái Quốc
bắt đầu biết đến và tiếp xúc với con đường cách mạng vô sản qua “Sơ


thảo luận cương về các vấn đề dân tộc và thuộc địa” của Lênin đăng
trên báo Nhân Đạo - cơ quan ngôn luận của Đảng cộng sản Pháp. Sau
một thời gian tìm hiểu, nghiên cứu con đường cách mạng vô sản,
Nguyễn ái Quốc càng củng cố niềm tin của mình vào con đường cách
đó đối với sự nghiệp giải phóng các dân tộc thuộc địa. Từ đây, Người
hoàn toàn tin và đi theo chủ nghĩa Mác-Lênin, đi theo cách mạng
tháng Mười Nga. Cuối cùng, sau một quá trình nghiên cứu, tìm hiểu
nhiều con đường giải phóng dân tộc khác nhau: con đường theo ý
2
thức hệ phong kiến, ý thức hệ tư sản, ý thức hệ vô sản, Nguyễn ái
Quốc quyết định chọn con đường cách mạng vô sản để giải phóng dân
tộc Việt Nam. Nguyễn ái Quốc đã lựa chọn con đường này là vì:
Thứ nhất, đến cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX, con đường cứu
nước của Việt Nam đi vào giai đoạn bế tắc. Những con đường cứu
nước mà Người biết đến từ rất sớm đều bị thất bại do nó có nhiều hạn
chế, sai lầm lớn: con đường cứu nước theo ý thức hệ phong kiến đã
thất bạị. Năm 1897, ngọn lửa Hương Sơn tắt, phong trào Cần Vương
thất bại chấm dứt thời kỳ đấu tranh dưới sự lãnh đạo của tầng lớp sĩ
phu mang đậm tư tưởng Nho giáo. Đến thế kỷ XX, cầm vũ khí đánh
Pháp tương đối quy mô chỉ còn có Hoàng Hoa Thám ở Yên Thế. Mà
Hoàng Hoa Thám thì không thể đề ra cho mình một phương lược nào
mới, nếu thắng lợi cũng lại thực hiện tư tưởng “khôi phục Đại Nam y
cựu” mang nặng cốt cách phong kiến. Trong khi lịch sử đã vượt qua
mức ấy rồi, yêu cầu chính trị bắt đầu rộng hơn, nước Việt Nam độc
lập trở lại không thể là một nước quân chủ chuyên chế nữa. “Xa xa,
Nhật Bản đã duy tân, trở nên cường thịnh, gần hơn, trí giả Trung
Quốc đang xôn xao bàn luận tư tưởng Âu Mỹ, tiếng dội đến Việt
Nam”. Thất bại của phong trào này đầu thế kỷ XX chứng tỏ sự phá
sản của chủ nghĩa trung quân, sự thất bại hoàn toàn của nó trước các
nhiệm vụ lịch sử. Nguyễn Tất Thành xuất thân trong một gia đình nhà


Nho nhưng không bị ràng buộc bởi tư tưởng trung quân, kiên quyết
không lựa chọn con đường này vì nó không thể giải phóng dân tộc
Việt Nam.
Con đường cứu nước theo hệ ý thức tư sản cũng thể hiện sự bất lực
trước những nhiệm vụ lịch sử. Ngọn cờ tiên phong được “Duy tân
hội” phất lên đó là vào đầu thế kỷ XX với tư tưởng: phải duy tân,
không duy tân thì không quang phục được. Và chỉ có một con đường
duy tân sang Nhật học hỏi (Đông du) cũng chính là đi cầu viện. Điều
3
này không khác nào là “đuổi hùm cửa trước rước sói” cửa sau. Kết
quả là Phan Bội Châu nhận ra rằng: “đồng văn đồng chủng” không
bằng “đồng bệnh”, tư tưởng chủng tộc lùi bước trước tư tưởng dân
tộc. Trái ngược với đường lối của Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh
chủ trương cách mạng theo đường lối ôn hoà. Tư tưởng cốt lõi là “ỷ
Pháp cầu tiến bộ”, dựa vào Pháp mà đi lên. Song dù có bạo động hay
bất bạo động, dù theo đường lối của Phan Bội Châu hay Phan Châu
Trinh thì kết quả cuối cùng đều bị thực dân Pháp phá hoại, bắt giam
những người lãnh tụ hoặc tìm mọi cách ly khai họ ra khỏi phong trào
và lợi dụng tư tưởng của họ. Nhận thức được những sai lầm trong con
đường cứu nước của cả hai khuynh hướng trên, Nguyễn ái Quốc đã
không tham gia phong trào Đông du (1905) khi cụ Phan Bội Châu
muốn đưa ông và một số thanh niên sang Nhật.
Như vậy, dù rất kính trọng các bậc anh hùng tiền bối, nhưng
Nguyễn Tất Thành không bằng lòng với đường đi nước bước của họ
và không muốn đi theo vết mòn lịch sử. Người không tán thành hoàn
toàn cách làm của một người nào vì Người thấy rõ những hệ tư tưởng
phong kiến hay tư sản mà họ dựa vào để chống thực dân Pháp đã trở
nên lỗi thời, yếu kém hơn rất nhiều so với sự phát triển của chủ nghĩa
tư bản trong giai đoạn đó. Do đó Người không lựa chọn con đường
cứu nước của họ và tự quyết định con đường nên đi.


Mặt khác, Người chọn con đường cách mạng vô sản còn vì tính
đúng đắn của nó đối với cách mạng một nước thuộc địa. Đây là con
đường cách mạng duy nhất có khả năng giải phóng dân tộc Việt Nam,
là con đường phù hợp với hoàn cảnh cụ thể đầy khó khăn của cách
mạng nước ta khi đó. Tính đúng đắn phù hợp của nó được thể hiện rõ
nét qua nội dung con đường cách mạng mà Người đã nêu lên trong
thời gian hoạt động từ 1920-1927. Sự kiện đánh dấu bước ngoặt trong
cuộc đời hoạt động của Nguyễn ái Quốc là việc Người đọc được bản
4
“Sơ thảo luận cương về các vấn đề dân tộc và thuộc địa” của Lênin
đăng trên báo Nhân đạo. Với sự kiện này, lần đầu tiên Nguyễn ái
Quốc tìm thấy và đến với con đường cách mạng vô sản. Trên đường
đi tìm chân lý cho dân tộc, Nguyễn ái Quốc đã đến với chủ nghĩa
Mác-Lênin từ một phương diện hết sức thực tế: chỉ có chủ nghĩa cộng
sản, con đường cách mạng vô sản mới có thể chỉ ra con đường cứu
nước đúng đắn để giải phóng dân tộc và đồng thời thực hiện được ba
cuộc giải phóng vốn là ước mơ từ lâu của nhân loại là giải phóng dân
tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người.
Nếu như luận cương của Lênin làm cho Nguyễn ái Quốc hoàn
toàn tin theo Lênin, tin theo Quốc tế III, lựa chọn con đường cách
mạng vô sản thì một loạt những sự kiện chính trị sau đó đã góp phần
củng cố vững chắc thêm niềm tin ấy. Đó là việc đọc được điều thứ 8
trong 21 điều kiện kết nạp vào Quốc tế Cộng sản làm Nguyễn ái Quốc
thật sự tâm đắc bởi vì nó khẳng định sự giúp đỡ, tinh thần đoàn kết
quốc tế của giai cấp vô sản ở các nước đế quốc đối với các nước
thuộc địa và phụ thuộc: “Về vấn đề thuộc địa và dân tộc bị áp bức thì
các Đảng ở các nước của giai cấp tư sản có thuộc địa và áp bức các
dân tộc khác, phải có một đường lối đặc biệt rõ ràng minh bạch. Đảng
nào muốn gia nhập Quốc tế III đều buộc phải thẳng tay vạch mặt
những thủ đoạn xảo trá của bọn đế quốc nước mình ở các thuộc đại,


ủng hộ bằng thực tế chứ không bằng lời nói mọi phong trào giải
phóng ở thuộc địa, đòi hỏi phải trục xuất bọn đế quốc nước mình ra
khỏi các thuộc địa ấy, gây trong công nhân nước mình thái độ anh em
chân thành với nhân dân lao đọng các nước thuộc đại và các dân tộc
bị áp bức và tiến hành tuyên truyền có hệ thống trong quân đội nước
mình chống mọi sự áp bức các dân tộc thuộc địa”. Mặt khác, trong
Đại hội Quốc tế cộng sản và đại hội các dân tộc phương Đông đã đưa
ra khẩu hiệu về tư tưởng cách mạng quốc tế, về mối quan hệ chặt chẽ
5
giữ giai cấp vô sản phương tây và các dân tộc phương Đông bị áp
bức: Vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại. Như
vậy, con đường cách mạng vô sản ở các thuộc địa không bị cô lập,
luôn được ủng hộ, giúp sức.
Trong quá trình đi tìm đường cứu nước, tiêu chuẩn cao nhất cho
sự lựa chọn và định hướng của Người là kiên quyết đứng về phía học
thuyết và tổ chức cách mạng nào thực sự quan tâm đến quyền lợi và
cuộc sống của các dân tộc bị áp bức, bênh vực, ủng hộ và chỉ ra con
đường đúng đắn để giải phóng dân tộc. Tiêu chuẩn hết sức thiết thực
đó đối với sự nghiệp giải phóng một nước thuộc địa lại phù hợp với
đường lối của cách mạng vô sản - là con đường cách mạng do giai cấp
vô sản lãnh đạo, nhằm dùng bạo lực cách mạng lật đổ ách thống trị
của giai cấp tư sản, lập nên chế độ xã hội chủ nghĩa- và cuối cùng
người thanh niên yêu nước Việt Nam ấy quyết định chọn con đường
cách mạng vô sản cho dân tộc mình đi theo.
Mặt khác, con đường cách mạng vô sản đã có tiền lệ, đã trở
thành hiện thực ở nước Nga và để lại nhiều bài học kinh nghiệm.
Chính con đường cách mạng vô sản đã đưa đến thắng lợi vang dội của
Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917 đánh đổ chủ nghĩa tư bản ở
nước Nga. Lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng thế giới, thành quả
cách mạng đã đưa giai cấp công nhân và nhân dân lao động lên nắm


chính quyền. Con đường cách mạng ấy không là lý thuyết chung
chung mà đã trở thành hiện thực ở nước Nga rộng lớn thì ai dám chắc
nó không có cơ hội thành công ở một nước thuộc địa trong đó có Việt
Nam. Vì vậy, Ngyễn ái Quốc đã lựa chọn con đường cách mạng vô
sản.
Như vậy, sự thất bại của phong trào đấu tranh chống thực dân
Pháp cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX vừa chứng tỏ sự lỗi thời của hệ
tư tưởng phong kiến, sự yếu ớt và bất lực của hệ tư tưởng tư sản. Điều
6
này đặt ra yêu cầu lịch sử là phải tìm ra con đường cứu nước mới
đúng đắn, phù hợp với hoàn cảnh Việt Nam. Và trong quá trình tìm
đường cứu nước, Nguyễn ái Quốc thấy rằng: chỉ có cách mạng vô sản,
chỉ có chủ nghĩa Mác- Lênin mới có khả năng giải phóng dân tộc ta,
chỉ có Quốc tế cộng sản mới thực sự quan tâm đến vấn đề giải phóng
các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc. Vì vậy Người đã rất vui sướng khi
lần đầu tiên bắt gặp con đường cứu nước ấy: “Tôi vui mừng đến phát
khóc lên. Ngồi một mình trong buồng mà tôi nói to lên như đang nói
trước quần chúng đông đảo “Hỡi đồng bào bị đoạ đày đau khổ. Đây là
cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta. Từ
đó tôi hoàn toàn tin theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ ba”. Thực tế lịch
sử Việt Nam sau này đã chứng minh sự lựa chọn ấy là hoàn toàn đúng
đắn, sáng suốt với biểu hiện là sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam,
với thắng lợi của cách mạng tháng Tám (1945),
Sau khi khẳng định con đường cách mạng Việt Nam lựa chọn
là con đương cách mạng vô sản, Nguyễn ái Quốc đã tích cực nghiên
cứu, xây dựng một con đường cách mạng vô sản cho phù hợp với
hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam. Vì vậy, có thể khẳng định con đường
cách mạng vô sản ở nước ta là sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-
Lênin của tư tưởng Hồ Chí Minh. Từ năm 1921-1927 hệ thống quan
điểm cách mạng và lý luận của Người về cách mạng giải phóng các


dân tộc thuộc địa nói chung và Việt Nam nói riêng được thể hiện khá
hoàn chỉnh qua những bài tham luận, báo cáo, tác phẩm, bài viết trên
báo chí, và đặc biệt nó được đúc rút, tổng kết sâu sắc nhất qua tác
phẩm “Đường cách mệnh”(1927). Nội dung con đường cách mạng
Việt Nam được thể hiện cụ thể như sau:
Thứ nhất: Đi sâu vạch rõ bản chất phản động của chủ nghĩa thực
dân nhưng nguỵ trang bằng cái gọi là “khai hoá văn minh”. Chủ nghĩa
thực dân là kẻ thù chung của các dân tộc thuộc địa, của giai cấp công
7
nhân và nhân dân lao động toàn thế giới, là kẻ thù trực tiếp, nguy hại
nhất của nhân dân các nứơc thuộc địa. Người đã khơi dậy mạnh mẽ
tinh thần yêu nước, thức tỉnh tinh thần phản kháng dân tộc, kêu gọi
nhân dân các nước thuộc địa phải dựa vào lực lượng của bản thân
mình, phải tự mình đứng lên giải phóng cho mình. “Công cuộc giải
phóng anh em (ở các thuộc địa) chỉ có thể thực hiện được bằng sự nỗ
lực của bản thân anh em”
Thứ hai: Cách mạng giải phóng dân tộc là một bộ phận cách
mạng của thời đại - cách mạng vô sản. Giải phóng dân tộc phải gắn
liền với giải phóng nhân dân lao động, giải phóng giai cấp công
nhân. “Chỉ có giải phóng giai cấp vô sản thì mới giải phóng được dân
tộc, cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của chủ nghĩa
cộng sản và cách mạng thế giới. Vì vậy, phải tiến hành cách mạng
một cách triệt để”.
Thứ ba: Cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa và
cách mạng vô sản ở “chính quốc” có quan hệ khăng khít với nhau như
hai cái cánh của thời đại, luôn phải thực hiện khẩu hiệu của Lênin: vô
sản toàn thế giới liên hiệp lại. Điều đặc biệt quan trọng là Nguyễn ái
Quốc đã nêu rõ cách mạng thuộc địa không phụ thuộc vào mạng vô
sản ở “chính quốc” mà có tính chủ động, độc lập. Cách mạng thuộc
địa có thể thành công trước cách mạng ở “chính quốc” và góp phần


thúc đẩy cách mạng chính quốc tiến lên. Đây là một quan điểm cách
mạng độc lập, sáng tạo của Người.
Thứ tư là về đường lối cách mạng: Tư tưởng về đường lối chiến
lược của cách mạng ở thuộc địa là tiến hành cách mạng giải phóng
dân tộc rồi tiến lên cách mạng xã hội chủ nghĩa. Song nhiệm vụ trước
mắt và quan trọng hàng đầu là hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ của
“dân tộc cách mệnh” đánh đổ đế quốc và bọn phong kiến tay sai,
giành độc lập dân tộc.
8
Thứ năm là về giai cấp lãnh đạo và lực lượng cách mạng: Giải
phóng dân tộc là việc chung của cả dân chúng chứ không phải là việc
của vài người. Tuy nhiên, trong đó “công - nông là người chủ cách
mệnh”, “là gốc cách mệnh”, “còn học trò, nhà buôn nhỏ, điền chủ
cũng bị tư bản áp bức song không cực khổ bằng công-nông, ba hạng
ấy chỉ là bầu bạn cách mạng của công-nông thôi”. Đây là một nhận
thức sáng suốt, một chủ trương đúng đắn, không phải người macxít
nào thời đó cũng quan niệm được rõ ràng như vậy.
Thứ sáu là về đoàn kết quốc tế: Đi đôi với đại đoàn kết dân tộc,
cách mạng Việt Nam phải thực hiện đoàn kết quốc tế. “Cách mạng An
Nam cũng là một bộ phận trong cách mạng thế giới. Ai làm cách
mạng thế giới đều là đồng chí của dân An Nam cả”. “Dân An Nam là
đương lúc tranh đấu với đế quốc chủ nghĩa phải cần anh em trong
thế giới giúp giùm”. Tuy nhiên, không được ỷ lại vì đây là cuộc cách
mạng của chúng ta, vì chúng ta: “muốn người ta giúp cho thì trước
mình phải tự giúp lấy mình đã ”.
Thứ bảy là về phương pháp cách mạng: quần chúng phải được
giác ngộ và được tổ chức mới tạo nên sức mạng của cách mạng. Phải
tiến hành triệt để phương pháp bạo lực cách mạng mà trước hết là bạo
lực chính trị của quần chúng: “Dân khí mạnh thì quân lính nào, súng
ống nào cũng chống lại”. Kiên quyết phê phán cách làm: xúi giục bạo


động mà không bày cách tổ chức hoặc làm cho dân quen tính ỷ lại, mà
quên tính tự cường, hay các phương pháp ám sát, cải lương.
Cuối cùng là về công tác xây dựng Đảng: được đặt lên hàng
đầu. Cách mạng muốn thắng lợi, trước hết phải có Đảng cách mạng,
“Đảng có vững cách mạng mới thành công Đảng muốn vững thì phải
có chủ nghĩa làm cốt Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người
không có trí khôn”. Chủ nghĩa đó chính là chủ nghĩa Mác-Lênin:
“Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân
9
chính nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất là chủ nghĩa Lênin”.
Đảng vững là nhờ ở chủ nghĩa, đồng thời còn ở phẩm chất chính trị
của mỗi Đảng viên, phải đẩy mạnh xây công tác xây dựng Đảng viên
cả về số lượng và chất lượng. Phẩm chất được đặc biệt nhấn mạnh
đối với mỗi Đảng viên phải là phải “giữ chủ nghĩa cho vững, hi sinh,
ít lòng ham muốn về vật chất ”.
Trên đây chính là lý do tại sao Nguyễn ái Quốc trong quá trình
đi tìm đường cứu nước lại chọn con đường cách mạng vô sản và nội
dung cơ bản của con đường cách mạng vô sản trong thời gian hoạt
động của Người từ 1920-1927. Nội dung con đường cách mạng vô sản
mà Người xây dựng được trong thời gian này đã trở thành tư tưởng
chỉ đạo, xuyên suốt con đường cách mạng Việt Nam sau này. Và thực
tế lịch sử cách mạng Việt Nam sau đó đã chứng minh cho sự lựa chon
đúng đắn và sáng suốt của Người. Đây không chỉ là con đường cách
mạng Việt Nam mà nó còn rất phù hợp với con đường cách mạng giải
phóng cho các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc nói chung. Vì vậy, nó
được phong trào cách mạng một số nước thuộc địa và phụ thuộc học
tập và noi theo.
10

Hồ Chí Minh với việc đi tìm chân lý thời đại: “Muốn cứu nước không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”

(ĐCSVN) - Trong hệ thống luận điểm cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, có một luận điểm lớn mang tầm chân lý thời đại mà giá trị và sức sống của nó còn mãi với tiến trình phát triển của xã hội loài người, đặc biệt là đối với các dân tộc thuộc địa. Đó là luận điểm: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”. Để khái quát được luận điểm đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phải trải qua gần 50 năm hoạt động cách mạng, trong đó có 30 năm ra nước ngoài tìm đường cứu nước, 18 năm trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam chống thực dân, phong kiến, giành độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân, xây dựng một nước Việt Nam mới do nhân dân lao động làm chủ.

Sinh ra và lớn lên trong hoàn cảnh đất nước bị thực dân xâm lược, nhân dân bị hai tầng áp bức nặng nề, người thanh niên Nguyễn Tất Thành sớm bộc lộ tinh thần yêu nước, thương dân mới, có chí muốn cứu giúp nhân dân thoát khỏi cảnh lầm than. Anh tích cực tham gia các hoạt động cứu nước do các nhà cách mạng tiền bối tổ chức. Trong quá trình đó, Nguyễn Tất Thành đã suy nghĩ nhiều về con đường cứu nước của Hoàng Hoa Thám, Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh…, chủ nghĩa Tam Dân của Tôn Dật Tiên. Dù rất quý trọng và khâm phục lòng yêu nước, đánh giá cao những cống hiến của họ, nhưng với một dự cảm chính trị thiên tài, Nguyễn Tất Thành nhận thấy ở các con đường cứu nước ấy còn có nhiều hạn chế và bế tắc về mục tiêu và phương pháp. Anh quyết định đi tìm con đường cứu nước mới.

Việc Nguyễn Tất Thành chọn hướng đi sang phương Tây, sang một nền văn minh mới khác với văn minh phương Đông, sang tận nơi có cái gọi là “Tự do”, “Bình đẳng”, “Bác ái” mà người Pháp thực dân tuyên truyền để tìm hiểu ngọn nguồn của chế độ thực dân đô hộ dân tộc Việt Nam, và cũng là để học hỏi tinh hoa thế giới, sau về giúp đồng bào, đó là một đột phá mới trong tư duy chính trị lúc bấy giờ.

Trong thời gian 10 năm đầu, từ 1911 đến 1920, Nguyễn Tất Thành vừa phải tìm việc làm để kiếm sống, vừa tự học tập và tham gia hoạt động yêu nước ở nước ngoài. Anh đã đi qua nhiều nước, nhiều châu lục; ở đâu anh cũng quan sát, so sánh, nhận xét, đi sâu tìm hiểu thực chất, không dừng lại ở hình thức bên ngoài. Vì thế, điều mà nhiều người yêu nước Việt Nam lúc đó không phát hiện được thì Nguyễn Tất Thành đã nhận ra: Ở đâu trên thế giới cũng có kẻ giàu, người nghèo, cũng có kẻ bóc lột và người bị bóc lột, bị áp bức. Ở các nước chính quốc hay các nước bị thuộc địa vẫn có những người Pháp, người Mỹ tốt và cũng có những người Pháp, người Mỹ không tốt; cũng có người da trắng áp bức, bóc lột và những người da trắng bị áp bức, bóc lột. Anh đi đến kết luận: “Dù màu da có khác nhau, trên đời này chỉ có hai giống người: giống người bóc lột và giống người bị bóc lột. Mà cũng chỉ có một tình hữu ái là thật mà thôi: Tình hữu ái vô sản”[1]. Khi sang Mỹ, tìm hiểu cuộc đấu tranh giành độc lập của nhân dân Mỹ với bản Tuyên ngôn Độc lập nổi tiếng, Nguyễn Tất Thành nhìn thấy ở cách mạng Mỹ có một số giá trị tích cực, nhưng vẫn nhận xét đó là cuộc cách mạng “không đến nơi”, không triệt để vì không nói gì đến giải phóng tầng lớp nhân dân lao động. Ở Pháp, nghiên cứu cách mạng tư sản Pháp, nghiên cứu bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền, Anh cũng tìm thấy được một số giá trị tích cực, nhưng cũng phê phán tính chất nửa vời, không triệt để của nó.

Tháng 6 năm 1919, Nguyễn Ái Quốc đã cùng Phan Chu Trinh, Phan Văn Trường viết bản Yêu sách của nhân dân An Nam gồm tám điểm gửi Hội nghị Véc xây (hội nghị của các nước thắng trận sau Chiến tranh thế giới thứ nhất) nhằm kêu gọi các nước giúp đỡ sự nghiệp giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam, nhưng không được hội nghị xem xét. Bản Yêu sách không được chấp nhận, Nguyễn Ái Quốc[2] càng nhận rõ bản chất của chủ nghĩa đế quốc. Sau này, Người viết: “Chủ nghĩa Uyn xơn chỉ là trò bịp bợm lớn”[3] và “Muốn được giải phóng, các dân tộc chỉ có thể trông cậy vào mình, trông cậy vào lực lượng của bản thân mình”[4]. Phân tích cách mạng tư sản Mỹ 1776 và cách mạng tư sản Pháp 1791, Nguyễn Ái Quốc đi đến kết luận: Không thể đi theo con đường cách mạng tư sản vì con đường đó không giải phóng dân tộc thuộc địa, không giải phóng nhân dân lao động bị áp bức, bóc lột; những cuộc cách mạng kiểu đó, sớm muộn thì nhân dân phải làm cách mạng một lần nữa mới xong.

Thế rồi, điều gì đến phải đến. Như một tất yếu lịch sử, vào một ngày tháng 7 năm 1920, đọc được bản Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I.Lênin đăng trên báo Nhân đạo (Pháp), Nguyễn Ái Quốc lập tức bị cuốn hút vì tính chất cách mạng triệt để của nó, vì nó đã giải đáp thỏa đáng những điều mà bấy lâu nay anh hằng mong ước, đợi chờ.

Luận cương của V.I.Lênin như luồng ánh sáng chiếu rọi vào trí tuệ và tâm hồn của Nguyễn Ái Quốc, đem đến cho anh một nhãn quan chính trị mới. Nhà lãnh đạo Đảng, nhà lý luận chính trị Trường Chinh nhận xét: “Luận cương về những vấn đề dân tộc và thuộc địa đến với Người như một ánh sáng kỳ diệu nâng cao về chất tất cả những hiểu biết và tình cảm cách mạng mà Người hằng nung nấu”[5]. Từ đó, anh hoàn toàn tin theo V.I.Lênin và quyết đi con đường cách mạng mà V.I.Lênin đã vạch ra. Từ lập trường của một người yêu nước, anh chuyển sang lập trường của một người cộng sản. Sau này, Người kể lại rằng: “Lúc đầu chính là chủ nghĩa yêu nước, chứ chưa phải là chủ nghĩa cộng sản đã đưa tôi tin theo Lênin.…Từng bước một, trong cuộc đấu tranh, vừa nghiên cứu lý luận Mác - Lênin, vừa làm công tác thực tế, dần dần tôi hiểu được rằng chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”[6]. Năm 1923, Nguyễn Ái Quốc tìm đường sang nước Nga, trực tiếp nhìn thấy những thành quả to lớn của Cách mạng Tháng Mười đem lại cho giai cấp công nhân, nông dân và các tầng lớp lao động khác, Người càng quyết tâm theo con đường đã chọn.

Sau khi tìm được con đường cứu nước, Nguyễn Ái Quốc trở về nước lãnh đạo nhân dân làm cách mạng giải phóng dân tộc, đúng như ước nguyện khi Người ra đi. Người thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, thành lập Mặt trận đoàn kết dân tộc, tổ chức lực lượng vũ trang, vận động nhân dân đấu tranh giành độc lập, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, xây dựng chế độ dân chủ nhân dân, giải phóng nhân dân lao động khỏi ách áp bức bóc lột của thực dân, phong kiến, đưa nhân dân lao động từ thân phận nô lệ trở thành người làm chủ, từng bước đưa đất nước lên chủ nghĩa xã hội để xóa bỏ tận gốc bóc lột, bất công. Thắng lợi vĩ đại của cách mạng Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo trong 15 năm đấu tranh giành chính quyền, trong 30 năm kháng chiến chống xâm lược, giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc từ 1976 đến nay, cũng như bài học thành công và chưa thành công của phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới trong thế kỷ XX đã khẳng định sự lựa chọn con đường cách mạng vô sản của Chủ tịch Hồ Chí Minh là hoàn toàn đúng đắn.

Năm 1967, trong bài viết cho Báo Pravđa (Liên Xô) nhân kỷ niệm 50 năm Cách mạng Tháng Mười Nga, Chủ tịch Hồ Chí Minh khái quát một số vấn đề có tính quy luật về cách mạng giải phóng dân tộc. Người chỉ rõ: “Trong thời đại ngày nay, cách mạng giải phóng dân tộc là một bộ phận khăng khít của cách mạng vô sản trong phạm vi toàn thế giới; cách mạng giải phóng dân tộc phải phát triển thành cách mạng xã hội chủ nghĩa thì mới giành được thắng lợi hoàn toàn. Thắng lợi của cuộc đấu tranh vì độc lập, tự do của các dân tộc gắn liền với sự ủng hộ và giúp đỡ tích cực của phe xã hội chủ nghĩa và của phong trào công nhân ở các nước tư bản chủ nghĩa”[7].

Luận điểm "Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản" là một luận điểm nền tảng của cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam; định hướng phương hướng, đường lối và phương pháp cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam. Ngay khi thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam vào tháng 2 năm 1930, trong “Chánh cương vắn tắt của Đảng”, Đảng đã đề ra quan điểm "làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Quan điểm này được Đảng ta phát triển trong Luận cương chính trị tháng 10 năm 1930, đặc biệt là được thể hiện rất rõ trong Đại hội II của Đảng năm 1951, khẳng định cách mạng Việt Nam mang tính chất cách mạng dân tộc, dân chủ, nhân dân do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng tiếp tục khẳng định con đường cách mạng Việt Nam là con đường cách mạng vô sản với việc xác định nhiệm vụ của cách mạng cả nước là xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ, giàu mạnh, giải phóng miền Nam, đưa miền Bắc lên chủ nghĩa xã hội. Sau khi thống nhất đất nước, hoàn thành công cuộc giải phóng dân tộc, năm 1976, tại Đại hội IV Đảng ta chủ trương đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Trong thời kỳ đổi mới, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991, bổ sung, phát triển năm 2011 của Đảng tiếp tục khẳng định con đường phát triển của dân tộc Việt Nam là đi lên chủ nghĩa xã hội; khẳng định mục tiêu lớn của thời đại là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no tự do hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới”[8]. Việc Đảng ta kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là vì, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói, chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ.

Bằng việc nêu lên luận điểm mang tầm chân lý thời đại, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã làm phong phú lý luận Mác - Lênin về cách mạng vô sản ở các nước thuộc địa, làm cho chủ nghĩa Mác - Lênin trở nên phổ biến đối với mọi dân tộc trên thế giới trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Trong bài “Giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh”, nguyên Phó Giám đốc Học viện Chính trị - Trường Đảng Êtiôpia Têshôm Kêbêđe đã viết: “Những tư tưởng của Hồ Chí Minh có ảnh hưởng to lớn trong việc khuyến khích và cung cấp tri thức cho các lãnh tụ của giai cấp công nhân và các nhà cách mạng ở Á, Phi và Mỹ Latinh giải quyết một cách triệt để vấn đề dân tộc”[9].

Hiện nay, tuy cách mạng vô sản thế giới đang đứng trước những thách thức to lớn do sự chống phá quyết liệt của chủ nghĩa tư bản; không ít dân tộc gặp khó khăn trong việc chọn định hướng đi lên chủ nghĩa xã hội do tác động tiêu cực của tình hình sau khi Liên Xô tan rã, chế độ xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu sụp đổ. Tuy vậy, nhiều nước ở châu Á, Phi, Mỹ Latinh vẫn giương ngọn cờ độc lập dân tộc đi lên chủ nghĩa xã hội dưới nhiều hình thức. Trong khi một số mô hình chủ nghĩa xã hội ở một số nước Đông Âu sụp đổ, một số mô hình chủ nghĩa xã hội mới - sản phẩm của quá trình đổi mới chủ nghĩa xã hội - như Trung Quốc, Việt Nam, Cu Ba với những thành tựu to lớn, khẳng định sức sống của chủ nghĩa xã hội đổi mới, trở thành tấm gương sáng để các dân tộc khác noi theo. Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của các dân tộc dù có khó khăn, phức tạp, nhưng theo quy luật tiến hóa của lịch sử, loài người nhất định tiến tới chủ nghĩa xã hội.

Chủ nghĩa tư bản đã từng có vai trò lịch sử trong các thế kỷ trước, cho dù hiện nay vẫn còn khả năng tồn tại do biết lợi dụng sự phát triển khoa học kỹ thuật, công nghệ và bóc lột các nước thuộc thế giới thứ ba, nhưng nó đã bộc lộ những khiếm khuyết và mâu thuẫn nội tại không thể giải quyết; đã và đang bộc lộ những hạn chế không thể khắc phục nổi trong việc giải quyết các vấn đề dân tộc, giai cấp, vấn đề xóa bỏ chế độ người bóc lột người, chiến tranh, bảo vệ môi trường, bảo đảm công bằng, bình đẳng xã hội, chăm lo phát triển con người, giữ gìn bản sắc văn hóa của các dân tộc. Do bản chất của mình, ngày nay, chủ nghĩa tư bản hiện đại vẫn không từ bỏ chính sách thực dân xâm lược với nhiều biến tướng mới rất tinh vi và xảo quyệt nhằm bóc lột các nước kém phát triển, chậm phát triển. Những cuộc chiến tranh và can thiệp quân sự của các nước phương Tây vào các quốc gia độc lập có chủ quyền trong những thập niên 90 của thế kỷ XX và thập niên đầu của thế kỷ XXI, đặc biệt gần đây, cuộc tấn công quân sự của Liên quân do NATO lãnh đạo chống Libi, cho dù cố che đậy với những lý do gì, thì về thực chất vẫn là các cuộc xâm lược nhằm mục đích phân chia lại thị trường thế giới, giành giật tài nguyên, môi trường, duy trì hoặc áp đặt ảnh hưởng của họ lên các nước đang lựa chọn con đường phát triển của dân tộc mình, ngăn cản quá trình vận động, phát triển lên chủ nghĩa xã hội của các quốc gia đã giành được độc lập, buộc các quốc gia này phải phụ thuộc vào chủ nghĩa tư bản.

Bài học lịch sử trong thế kỷ XX và thập kỷ đầu của thế kỷ XXI cảnh tỉnh chúng ta rằng, còn chủ nghĩa tư bản là còn nguy cơ bị xâm lược; độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, sự thống nhất đất nước còn bị đe dọa. Do đó, chủ nghĩa tư bản quyết không phải là sự lựa chọn của nhân loại trong thời đại ngày nay. Chỉ có đi theo con đường cách mạng vô sản, gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội thì độc lập dân tộc mới được giữ vững, nhân dân lao động mới được giải phóng thực sự. Đó cũng chính là chân lý thời đại mà cách đây 100 năm, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lĩnh hội được ở chủ nghĩa Mác - Lênin trên hành trình đi tìm đường cứu nước, cứu dân của mình.

[1] Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb CTQG, H. 2000, tập 1, tr. 266.

[2] Khi viết bản Yêu sách của nhân dân An Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh lấy tên là Nguyễn Ái Quốc, tên Nguyễn Ái Quốc được dùng từ đó.

[3] Hồ CHí Minh Toàn tập, Nxb CTQG, H. 2000, tập 1, tr. 416.

[4] Trần Dân Tiên, Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Nxb ST, H. 1975, tr. 33.

[5] Trường Chinh, Chủ tịch Hồ Chí Minh - Sự nghiệp vĩ đại, gương sáng đời đời, Nxb ST, H. 1980, tr. 11.

[6] Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb CTQG, H. 2000, tập 10, tr. 128.

[7] Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb CTQG, H. 2000, tập 12, tr. 304-305.

[8] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H. 2011, tr. 70.

[9] Dẫn theo sách "Hồ Chí Minh - Một người châu Á của mọi thời đại”, Nxb CTQG, H. 2010, tr. 218.

Tầm nhìn thời đại và tư duy độc lập, sáng tạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh trên hành trình tìm đường cứu nước, giải phóng dân tộc

10/09/2021 | 08:15

Với tầm nhìn thời đại, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã làm sáng rõ con đường cách mạng Việt Nam, soi đường, chỉ lối cho Đảng và dân tộc ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Một hành trình cứu nước qua ba đại dương, bốn châu lục và gần ba mươi quốc gia trong khoảng thời gian ba mươi năm là một hành trình đầy gian khổ nhưng càng cho thấy tấm lòng yêu nước cao cả, thương dân vô bờ bến cùng ý chí kiên cường, bất khuất và đặc biệt là tư duy độc lập, sáng tạo của một bậc đại chí, đại nhân, đại dũng trong công cuộc giải phóng dân tộc.

Nhân tố thôi thúc quyết tâm ra đi tìm đường cứu nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh

Truyền thống gia đình, đặc biệt là nhân cách và những tư tưởng tiến bộ của cụ thân sinh Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc chính là cội nguồn cho chí hướng cách mạng và hoài bão ra đi tìm đường cứu nước, cứu dân của Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc. Nguyễn Tất Thành sinh ra và lớn lên trên quê hương Nghệ An giàu truyền thống văn hiến và cách mạng. Không chỉ giàu truyền thống hiếu học, cần cù trong lao động, trọng tình nghĩa trong cuộc sống, người dân nơi đây còn giàu truyền thống yêu nước, kiên cường, bất khuất chống giặc ngoại xâm với nhiều tấm gương lưu sử sách, như Mai Thúc Loan, Nguyễn Biểu, Đặng Dung, Phan Đình Phùng, Phan Bội Châu, Hoàng Xuân Hành, Nguyễn Sinh Quyết... Chính truyền thống yêu nước tốt đẹp của quê hương, của dân tộc là nền tảng để Nguyễn Tất Thành sau này đã gặp gỡ và tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tinh hoa tư tưởng, văn hóa của nhân loại, một học thuyết khoa học, cách mạng triệt để nhất, qua đó thể hiện tầm nhìn rộng mở mang tính thời đại của Người trong hành trình đi tìm đường cứu nước.

Ngày 5-6-1911, từ bến Nhà Rồng, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành rời Tổ quốc, ra đi trên con tàu Đô đốc Latouche-Tréville để thực hiện hoài bão giải phóng nước nhà khỏi ách nô lệ của thực dân, đế quốc_Ảnh: Tư liệu

Những tư tưởng tiến bộ của các thầy giáo, các bậc sĩ phu yêu nước đã tiếp thêm sức mạnh và thôi thúc người thanh niên Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước. Nhờ những ảnh hưởng của các thầy giáo tân học và những trang sách báo tiến bộ mà ý muốn sang phương Tây để tìm hiểu tình hình các nước và học hỏi thành tựu văn minh nhân loại đã từng bước lớn dần lên trong tâm trí của Nguyễn Tất Thành.Thực tiễn Việt Nam khi đó là nhân tố tác động và ảnh hưởng trực tiếp đến quyết định ra đi tìm đường cứu nước của Nguyễn Tất Thành.

Vào giữa thế kỷ XIX, thực dân Pháp tiến hành chiến tranh xâm lược Việt Nam. Chính sách thuộc địa của thực dân Pháp ở Việt Nam là chuyên chế về chính trị, bóc lột nặng nề về kinh tế, kìm hãm và nô dịch về văn hóa. Dưới ách thống trị và bóc lột của thực dân Pháp, Việt Nam từ một chế độ phong kiến độc lập chuyển thành chế độ thuộc địa, mất hẳn chủ quyền, phụ thuộc vào thực dân Pháp; kinh tế bị kìm hãm nặng nề, mâu thuẫn xã hội ngày càng tăng và gay gắt; người dân lâm vào cảnh đói nghèo, khổ ải, lầm than. Thực dân Pháp ra sức vơ vét tài nguyên của đất nước; bọn quan lại đặt ra đủ các thứ thuế, bọn hào lý thì tham nhũng vô độ, bóc lột nhân dân không thương tiếc. Trước tình hình chính trị - xã hội như vậy, nhiều phong trào đấu tranh yêu nước nổ ra, như phong trào chống Pháp ở Nam Kỳ (1861 - 1868), phong trào Cần Vương ở Trung Kỳ và Bắc Kỳ (1885 - 1895), khởi nghĩa Yên Thế ở Bắc Kỳ (1885 - 1913)…, nhưng đều bị thực dân Pháp đàn áp dã man và bị thất bại. Đầu thế kỷ XX, các sĩ phu yêu nước tiếp thu trào lưu tư tưởng mới, tiến hành cuộc vận động cứu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản…, nhưng cũng không thành công. Sự nghiệp giải phóng dân tộc lâm vào tình trạng khủng hoảng sâu sắc về đường lối.

Tiếp thu truyền thống yêu nước của gia đình và quê hương, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành sớm có chí đánh đuổi thực dân Pháp, giải phóng đồng bào thoát khỏi cảnh nô lệ, lầm than. Người rất khâm phục tinh thần yêu nước nhưng không tán thành con đường cứu nước của các bậc tiền bối và chính điều nàyđã thôi thúc Nguyễn Tất Thành ra đi tìm con đường cứu nước mới cho dân tộc. Và cũng chính lòng yêu nước vô bờ bến ấy là cội nguồn sức mạnh giúp Người vượt qua mọi khó khăn nơi đất khách quê người để tìm ra con đường cứu nước, giải phóng dân tộc.

Tầm nhìn thời đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong hành trình tìm đường cứu nước

Với tầm nhìn rộng mở, Nguyễn Ái Quốc đã đến với chủ nghĩa Mác - Lê-nin, trở thành người cộng sản, chiến sĩ quốc tế xuất sắc, tìm thấy con đường cứu nước duy nhất đúng đắn cho dân tộc Việt Nam. Quyết định sang Pháp là một quyết định có ý nghĩa lịch sử, thể hiện rõ tầm nhìn rộng mở, sẵn sàng tìm hiểu và học hỏi thế giới phương Tây, tiếp xúc, tiếp thu nền văn minh, tinh hoa trí tuệ của nhân loại.Người tham gia nhiều sự kiện lớn của thế giới, ủng hộ các cuộc cách mạng xã hội, đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân, đế quốc, giành độc lập dân tộc và tham gia các buổi diễn thuyết của nhiều nhà chính trị và triết học; tiếp xúc văn hóa và các danh nhân văn hóa, chính trị của Pháp, tiếp xúc với những tư tưởng nhân đạo, nhân văn qua văn học Pháp, Nga, Anh, Mỹ,… Tại Pa-ri (lúc này được coi là “trung tâm liên minh thế giới của bọn đế quốc”), Người đã có một bước phát triển mới trong nhận thức về con đường cứu nước, giải phóng dân tộc khi tiếp nhận ảnh hưởng của Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại năm 1917.Từ năm 1911 đến năm 1920, bằng việc khảo cứu các nước thuộc địa và các nước tư bản lớn, như Mỹ, Anh, Pháp, Nguyễn Ái Quốc đã có những nhận thức quan trọng trong việc tìm kiếm con đường giải phóng và mô hình thể chế chính trị tương lai cho đất nước. Ngay từ thời niên thiếu, Người đã bộc lộ những phẩm chất giàu lòng nhân ái, ham hiểu biết, có hoài bão lớn, có chí cứu nước,…; những phẩm chất đó đã được rèn luyện và phát huy trong quá trình hoạt động cách mạng của Người. Nhờ vậy, giữa nhiều học thuyết, quan điểm khác nhau, Người đã phân tích, lựa chọn để cuối cùng đi tới chân lý: “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”(1).

Cuối năm 1917, mặc dù vừa hoạt động chính trị, vừa phải kiếm sống một cách chật vật, nhưng Nguyễn Ái Quốc vẫn lạc quan, say sưa học tập, nghiên cứu Cách mạng Mỹ (năm 1776), Cách mạng Pháp (năm 1789), Cách mạng Nga (năm 1917). Người rút ra kết luận rằng: Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản. Năm 1919, Nguyễn Ái Quốc gia nhập Đảng Xã hội Pháp. Tháng 7-1920, Người sung sướng khi đọc “Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa”của V.I. Lê-nin. Luận cương đã mở ra cánh cửa để Người đến với chủ nghĩa Mác - Lê-nin và cách mạng vô sản.

Cuối năm 1920, tại Đại hội Đảng Xã hội Pháp, với việc bỏ phiếu tán thành gia nhập Quốc tế Cộng sản và là một trong những người tham gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp, Người khẳng định sự lựa chọn dứt khoát, đứng hẳn về chủ nghĩa Mác - Lê-nin và Quốc tế Cộng sản.

Nguyễn Ái Quốc phát biểu tại Đại hội toàn quốc Đảng Xã hội Pháp ở thành phố Tours, năm 1920_Ảnh: Tư liệu

Với tầm nhìn thời đại, Người đã làm sáng rõ con đường cách mạng Việt Nam, soi đường, chỉ lối cho Đảng và dân tộc ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Cuộc tìm kiếm con đường cứu nước của Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc đã thể hiện tầm nhìn thời đại trong việc xác lập, kiến tạo mô hình xã hội gắn với các thiết chế hiện đại. Người đã tiếp thu tư tưởng tiến bộ từ các nước lớn của phương Tây, như Mỹ, Anh, Pháp để tạo nênmô hình thể chế chính trị tương lai cho đất nước. Đó là mô hình Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Thể chế chính trị Việt Nam dân chủ cộng hòa là mô hình nhà nước mà ở đó, quyền lực thuộc về nhân dân, một thể chế chính trị - xã hội của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Mô hình thể chế đó là động lực, là ngọn cờ thôi thúc toàn thể dân tộc Việt Nam vùng lên làm nên cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, xác lập một thể chế chính trị - xã hội mới, vì mục tiêu độc lập dân tộc, dân quyền và dân sinh, tự do, hạnh phúc.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gắn con đường phát triển của dân tộc Việt Nam với xu thế thời đại, theo quy luật khách quan của lịch sử. Độc lập dân tộc phải đi đôi với tự do và hạnh phúc của nhân dân và gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Xã hội xã hội chủ nghĩa là một xã hội đáp ứng ngày càng cao và toàn diện mọi nhu cầu chính đáng, hợp pháp của người dân; là xã hội do quần chúng nhân dân xây dựng nên, vì vậy, mang tính tập thể, cộng đồng sâu sắc. Những cống hiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với dân tộc đã thể hiện phẩm chất của một bậc đại trí, đại nhân, đại dũng, mở ra thời đại rực rỡ nhất trong lịch sử dân tộc ta.

Tư duy độc lập, sáng tạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong công cuộc giải phóng dân tộc

Ngay từ khi sống tại Pháp và sang nước Anh, Nguyễn Ái Quốc đã tiếp thu rất nhiều nền văn hóa, hấp thụ những tư tưởng dân chủ; từ đó, hình thành phong cách dân chủ từ thực tiễn cuộc sống. Tại nơi đất khách, Người học được cách làm việc dân chủ ngay trong sinh hoạt khoa học của Câu lạc bộ Phô-bua, trong sinh hoạt chính trị của Đảng Xã hội Pháp. Nhờ được rèn luyện trong phong trào công nhân Pháp và sự cổ vũ, dìu dắt trực tiếp của nhiều nhà cách mạng và trí thức tiến bộ Pháp (M. Cachin, P.V. Couturier, G. Monmousseau,..), Nguyễn Ái Quốc đã từng bước trưởng thành, làm giàu trí tuệ của mình bằng vốn trí tuệ của thời đại, cả văn hóa phương Đông và phương Tây, vừa thâu thái, vừa gạn lọc để có thể từ tầm cao của tri thức nhân loại mà suy nghĩ, lựa chọn, kế thừa và đổi mới, vận dụng sáng tạo vào thực tiễn cách mạng Việt Nam.

Trong 10 năm đầu (1911 - 1920) của quá trình bôn ba tìm đường cứu nước, Nguyễn Ái Quốc đã hoàn thiện vốn văn hóa, chính trị và thực tiễn phong phú, tạo thành một bản lĩnh trí tuệ, nâng cao khả năng độc lập, tự chủ, sáng tạo ở Người, khi tiếp thu và vận dụng chủ nghĩa Mác - Lê-nin phù hợp với hoàn cảnh và điều kiện cụ thể của Việt Nam lúc bấy giờ.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng một cách sáng tạo lý luận về cách mạng vô sản của chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào cuộc cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam. Đối với một đất nước thuộc địa, một dân tộc bị áp bức, Người khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”(2). Cuộc cách mạng vô sản ở đây không chỉ là cuộc đấu tranh giai cấp, mà còn là cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, một phạm trù của cách mạng vô sản.Chánh cương vắn tắt của Đảng(năm 1930), do Chủ tịch Hồ Chí Minh soạn thảo, đã khẳng định: “Làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”(3). Làm tư sản dân quyền cách mạng đánh đổ thực dân Pháp xâm lược đem lại độc lập dân tộc. Làm thổ địa cách mạng là đánh đổ bọn phong kiến, địa chủ đem lại ruộng đất cho dân cày (sau này, cả hai cuộc cách mạng cùng tiến hành song song ấy được gọi là cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân). Đây là điều hoàn toàn phù hợp với yêu cầu của cách mạng Việt Nam, do Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng một cách sáng tạo lý luận về cách mạng không ngừng, lý luận về thời cơ và tình thế cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin.

Vận dụng một cách sáng tạo tư tưởng liên minh công -nông của chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh coi công - nông là gốc của cách mạng, còn trí thức tiểu tư sản là bầu bạn của công - nông. Đối với mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam, dù trong đấu tranh giành độc lập dân tộc hay trong xây dựng và bảo vệ chủ nghĩa xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, liên minh công - nông - trí thức là nhân tố đóng vai trò quyết định. Sự sáng tạo, độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh còn thể hiện trong việc vận dụng quan điểm về vai trò quần chúng nhân dân của chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào tình hình cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam, mà trọng tâm chính là khối đại đoàn kết toàn dân tộc; về vai trò của quần chúng nhân dân trong cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam. Người khẳng định: “Quần chúng là những người sáng tạo, công nông là những người sáng tạo. Nhưng, quần chúng không phải chỉ sáng tạo ra những của cải vật chất cho xã hội. Quần chúng còn là người sáng tác nữa”(4). Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng một cách sáng tạo vấn đề dân tộc của chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở Việt Nam. Thông quaLời kêu gọi toàn quốc kháng chiếnngày 19-12-1946 vàLời kêu gọi toàn quốc chống đế quốc Mỹ cứu nước(năm 1967), một lần nữa, Người khẳng định tinh thần độc lập dân tộc và bản chất nhân dân của cách mạng Việt Nam trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và tiến hành cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ, cứu nước ở miền Nam tiến tới thống nhất đất nước, với khẩu hiệu“Không có gì quý hơn độc lập, tự do”.Đó chính là sự kế thừa và phát huy tinh thần độc lập dân tộc của dân tộc ta trong thời đại mới.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo lý luận về vấn đề xây dựng đảng cầm quyền của chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào việc xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam: “Đảng ta là một đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuầnđạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”(5). Người cũng đã vận dụng sáng tạo lý luận về nhà nước vô sản vào tình hình cách mạng Việt Nam, xây dựng nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Theo Người, “trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”(6). Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái - trai, giàu - nghèo, giai cấp. Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân không phải nhà nước “siêu giai cấp”, mà là nhà nước do Đảng Cộng sản - đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo, được tổ chức và hoạt động trong khuôn khổ của Hiến pháp và pháp luật, thể hiện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân.

Từ khi ra đời đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam, do Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại sáng lập và rèn luyện, đã lãnh đạo cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác (Trong ảnh: Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII ra mắt Đại hội)_Ảnh: Tư liệu

Sự sáng tạo trong tư tưởng Hồ Chí Minh về quan hệ giữa dân tộc và giai cấp, giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp là một trong những nhân tố bảo đảm thành công của cách mạng Việt Nam. Đó cũng là một trong những đóng góp xuất sắc của Người vào lý luận cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Tư tưởng Hồ Chí Minh về quan hệ giữa dân tộc và giai cấp, giữa giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp là hoàn toàn đứng vững trên lập trường mác-xít.Người đã phát triển và vận dụng hết sức sáng tạo lý luận mác-xít vào cách mạng ở các nước thuộc địa, nhất là với cách mạng Việt Nam. Không phải ngẫu nhiên mà Người khẳng định: “Chủ nghĩa dân tộc là động lực lớn của đất nước”(7). Theo đó, “thời đại của chúng ta là thời đại văn minh, thời đại cách mạng, mọi việc càng phải dựa vào lực lượng của tập thể, của xã hội; cá nhân càng không thể đứng riêng lẻ mà càng phải hòa mình trong tập thể, trong xã hội”(8); “chúng ta phải đoàn kết lại đánh đổ bọn đế quốc và bọn Việt gian đặng cứu giống nòi ra khỏi nước sôi lửa nóng”(9). Người nhấn mạnh, giải phóng dân tộc và độc lập dân tộc phải được giải quyết trên lập trường giai cấp vô sản. Nếu không giành được độc lập dân tộc thì không thể giải phóng giai cấp, không thể nói đến cuộc sống ấm no, hạnh phúc của nhân dân. Cách mạng giải phóng dân tộc phải phát triển thành cách mạng xã hội chủ nghĩa thì mới giành được thắng lợi hoàn toàn. Chỉ cókết hợp độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, gắn cuộc đấu tranh của nước mình với trào lưu cách mạng của thế giới mới tạo ra được sức mạnh to lớn để bảo vệ độc lập dân tộc và phát triển tiến bộ xã hội.

Từ khi ra đời đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam, do Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại sáng lập và rèn luyện, đã lãnh đạo cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Đó là thắng lợi của các cuộc kháng chiến oanh liệt để giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc, đánh thắng chủ nghĩa thực dân cũ và mới, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, thống nhất Tổ quốc, thực hiện công cuộc đổi mới, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội, góp phần quan trọng vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập, dân chủ, tiến bộ xã hội và chủ nghĩa xãhội./.

-----------------

(1)Hồ Chí Minh:Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 2, tr. 289

(2)Hồ Chí Minh:Toàn tập, Sđd, t. 12, tr. 30

(3)Hồ Chí Minh:Toàn tập, Sđd, t. 3, tr. 1

(4)Hồ Chí Minh:Toàn tập, Sđd, t. 11, tr. 559

(5)Hồ Chí Minh:Toàn tập, Sđd, t. 15, tr. 611 - 612

(6)Hồ Chí Minh:Toàn tập, Sđd, t. 10, tr. 453

(7)Hồ Chí Minh:Toàn tập, Sđd,t. 1, tr. 511

(8)Hồ Chí Minh:Toàn tập, Sđd,t. 11, tr. 600

(9)Hồ Chí Minh:Toàn tập, Sđd,t. 3, tr. 230

Theo Tạp chí Cộng sản

Video liên quan

Chủ đề