Thế chiến thứ 2 là gì

Nguồn: “Were they always called World War I and World War II?”, History.com (truy cập ngày 3/11/2015).

Biên dịch & Hiệu đính: Lê Hoàng Giang

Không phải ngay từ đầu hai cuộc chiến tranh thế giới đã được gọi là “Thế Chiến I” (World War I) và “Thế Chiến II” (World War II), hay “Chiến tranh Thế giới thứ Nhất” và “Chiến tranh Thế giới thứ Hai”, song rất khó xác định chính xác thời điểm mà những tên gọi này xuất hiện. Rõ ràng là trong Thế Chiến I, không ai biết rằng sẽ có một cuộc xung đột toàn cầu thứ hai diễn ra sau cuộc chiến thứ nhất, vì vậy không cần thiết phải xác định thứ tự cho cuộc chiến. Ban đầu các tờ báo ở Mỹ gọi đây là “Chiến tranh Châu Âu” (European War), nhưng sau đó đã đổi thành “Chiến tranh Thế giới” (World War) khi Mỹ chính thức tham chiến năm 1917. Trong khi đó ở bên kia Đại Tây Dương, người Anh sử dụng tên gọi “cuộc Đại Chiến” (the Great War) cho đến những năm 1940 – ngoại trừ một trường hợp đáng chú ý là khi Winston Churchill sử dụng tên gọi “Chiến tranh Thế giới” trong cuốn hồi ký “Cuộc Khủng hoảng Thế giới” của ông xuất bản năm 1927.

Thế Chiến II diễn ra sau Thế Chiến I 21 năm, song nhiều nhà sử học tin rằng cả hai cuộc chiến chỉ là hai giai đoạn cách nhau của một cuộc xung đột toàn cầu lớn duy nhất. Nguồn: History.com.

Mặt khác, tên gọi “Thế Chiến II” đã xuất hiện lần đầu trên văn bản từ tháng 2 năm 1919, khi một bài báo trên tờ Manchester Guardian sử dụng thuật ngữ này theo cách gần giống như ngày nay người ta thường tiên đoán giả định về một cuộc “Thế Chiến III”. Nhưng chính Tổng thống Mỹ Franklin D. Roosevelt mới là người công khai sử dụng tên gọi “Chiến tranh Thế giới thứ Hai” vào năm 1941, và người Mỹ sau đó đã nhanh chóng làm theo. (Người Anh vẫn chỉ sử dụng cái tên đơn giản “cuộc Chiến” [the War] cho đến cuối những năm 1940).

Dù Roosevelt là người đã giúp phổ biến cái tên này, nhưng ông dường như không hoàn toàn hài lòng với nó. Năm 1942 ông đã thỉnh cầu dư luận đề xuất tên gọi thay thế, và trong những tuần sau đó Bộ Chiến tranh Hoa Kỳ đã nhận được 15.000 đề xuất, với những tên gọi như “Chiến tranh vì Nền Văn minh” (“the War for Civilization”) hay “Chiến tranh Chống Ách Nô dịch” (“the War Against Enslavement”). Những cái tên này, và cả chính tên gọi mà Roosevelt sau đó đề xuất là “Chiến tranh vì sự Sinh tồn” (“the Survival War”) đều không được sử dụng lâu dài. Như vậy tên gọi “Thế Chiến II” và “Chiến tranh Thế giới thứ Hai” đã tiếp tục được sử dụng và trở nên phổ biến cho đến ngày nay – và tương tự là tên gọi “Thế Chiến I” hay “Chiến tranh Thế giới thứ Nhất” của cuộc xung đột trước đó.

Từ thuở xa xưa...

Thuở xa xưa, Singapore từng được gọi là Thị trấn Biển (Sea Town).

Mặc dù những bản ghi chép đầu tiên về lịch sử Singapore đã bị phai nhòa theo thời gian, một tài liệu tiếng Hoa vào thế kỷ thứ 3 đã miêu tả mảnh đất này là "Pu-luo-chung", ý muốn nói đến "Pulau Ujong", nghĩa là "hòn đảo ở tận cùng bán đảo" trong tiếng Mã Lai. Sau đó, khi những cộng đồng dân cư đầu tiên được hình thành từ năm 1298 đến năm 1299 Sau Công nguyên, mảnh đất này được biết đến với tên gọi là Temasek (nghĩa là “Thị trấn Biển”).

Vào thế kỷ 14, hòn đảo nhỏ bé nhưng nằm ở vị trí chiến lược này đã có một cái tên mới. Theo truyền thuyết, hoàng tử Sang Nila Utama đến từ xứ Palembang (thủ đô của Srivijaya), trong chuyến đi săn đã gặp một con vật lạ mà chàng chưa bao giờ nhìn thấy. Coi đó là điềm lành, chàng liền đặt cho thành phố nơi xuất hiện con vật lạ cái tên là “Thành phố Sư tử” hay Singapura, mà theo tiếng Sanskrit thì "simha" có nghĩa là sư tử, còn "pura" có nghĩa là thành phố.

Lúc bấy giờ, thành phố này nằm dưới sự cai quản của năm vị vua của Singapura cổ đại. Nằm ở vị trí địa đầu của bán đảo Mã Lai, là điểm quy tụ tự nhiên của các đường hàng hải, thành phố đã khởi sắc trong vai trò là một thương cảng nhộn nhịp dành cho vô số các loại tàu thuyền, như các tàu buôn của người Trung Quốc, thuyền buồm của người Ả Rập, tàu chiến của người Bồ Đào Nha và những thuyền buồm dọc của người Bugis.

Các câu chuyện liên quan

Hiệu ứng Raffles

Vị trí chiến lược của thành phố khiến nơi đây trở thành một trung tâm thương mại lý tưởng.

Singapore hiện đại được khai lập vào thế kỷ 19, nhờ vào chính trị, thương mại và một người đàn ông được biết đến với cái tên Ngài Thomas Stamford Raffles.

Trong thời kỳ này, đế chế Anh Quốc đang lăm le tìm một bến cảng trong khu vực để neo đậu các tàu buôn của mình, và để chặn trước các bước tiến của người Hà Lan. Singapore, lúc đó đã là một thương cảng đầy triển vọng, nằm dọc theo Eo biển Malacca, có vẻ là một lựa chọn lý tưởng.

Ngài Raffles, khi đó là tỉnh trưởng của vùng Bencoolen (ngày nay là Bengkulu) ở xứ Sumatra, đặt chân đến Singapore vào ngày 29 tháng 1 năm 1819. Nhận ra tiềm năng lớn của một hòn đảo được bao phủ bởi đầm lầy, ông liền thương thảo một hiệp ước với những người cai trị khu vực này, và xây dựng Singapore thành một trung tâm thương mại. Thành phố này nhanh chóng phát triển thành một trung tâm thương mại xuất nhập khẩu, thu hút dân di cư từ Trung Quốc, Ấn Độ, Quần đảo Mã Lai và các vùng xa hơn nữa.

Năm 1822, Ngài Raffles đã cho thực hiện chương trình quy hoạch Raffles Town Plan, còn gọi là Jackson Plan, để giải quyết tình trạng mất trật tự của khu thuộc địa này. Các khu tập trung sinh sống của các dân tộc được chia thành bốn khu vực. Khu European Town là nơi sinh sống tập trung của những thương nhân châu Âu, người Âu-Á, và những người Châu Á giàu có, trong khi những người Trung Quốc thường sống tập trung ở khu vực ngày nay là Chinatown, và khu vực phía đông nam của Sông Singapore. Những người Ấn thường sống tập trung ở khu Chulia Kampong, phía bắc của khu Chinatown, và khu Kampong Gelam là nơi sinh sống của những người theo đạo Hồi, người Mã Lai và người Ả Rập đã di cư đến Singapore. Singapore tiếp tục phát triển trong vai trò là một thương cảng, với sự thành lập của một số ngân hàng chủ chốt, các Hiệp hội thương mại, và Tổ chức Thương mại. Vào năm 1924, một con đường đắp cao được mở ra nối liền khu vực phía bắc của Singapore với Johor Bahru.

Bạn có biết?

Kiến trúc sư đầu tiên của Singapore, ông George D.Coleman, đã đến Singapore vào năm 1822, và công trình đầu tiên của ông là Nhà ở cho Ngài Stamford Raffles. Ông cũng tạo dựng nhiều ngôi nhà mang phong cách Palladian.

Chiến tranh và Hòa bình

Quân Đồng minh đầu hàng vào năm 1942.

Sự thịnh vượng của Singapore đã bị hủy hoại nặng nề trong Thế Chiến thứ II, khi quân Nhật tấn công vào ngày 8 tháng 12 năm 1941. Quân xâm lược tiến vào từ phía bắc, khiến cho các chỉ huy quân sự Anh lúng túng vì họ nghĩ rằng đối phương sẽ tấn công bằng đường biển từ phía nam. Mặc dù có số lượng quân đông hơn, nhưng Quân Đồng Minh đã đầu hàng quân Nhật vào đúng dịp Tết Âm lịch, ngày 15 tháng 2 năm 1942. Đó là lần đầu hàng lớn nhất trong lịch sử của đội quân do người Anh cầm đầu. Hòn đảo này, từng được mệnh danh là "pháo đài bất khả xâm phạm", giờ đây được đặt tên là Syonan-to (tức "Ánh sáng của Đảo Nam" trong tiếng Nhật).

Khi quân Nhật đầu hàng vào năm 1945, mảnh đất này đã rơi vào tay Bộ máy Chính quyền của Quân đội Anh (British Military Administration), lực lượng này nắm quyền cho đến khi Khu vực Straits Settlement gồm Penang, Melaka và Singapore tan rã. Vào tháng 4 năm 1946, Singapore trở thành một Thuộc địa của Anh (British Crown Colony).

Đường đến Độc lập

Singapore đã trải qua một chặng đường dài để trở thành quốc gia như ngày nay.

Vào năm 1959, sự phát triển của chủ nghĩa dân tộc đã hình thành chế độ tự trị ở quốc gia này, và cuộc tổng tuyển cử đầu tiên đã diễn ra. Đảng Hành Động Nhân Dân (People’s Action Party - PAP) đã giành được 43 ghế, và ông Lý Quang Diệu trở thành thủ tướng đầu tiên của Singapore.

Vào năm 1963, Malaysia được thành lập, bao gồm Liên bang Malaya, Singapore, Sarawak và Bắc Borneo (nay là Sabah). Bước đi này nhằm củng cố các mối quan hệ chặt chẽ hơn. Tuy nhiên, việc hợp nhất không đạt được nhiều thành công và gần hai năm sau đó, cụ thể là vào ngày 9 tháng 8 năm 1965, Singapore đã tách khỏi Malaysia và trở thành một quốc gia độc lập với nền dân chủ có chủ quyền lãnh thổ riêng.

Ngày nay, nhiều lát cắt của quá khứ đa văn hóa, thời kì thuộc địa và giai đoạn chiến tranh của Singapore vẫn được lưu giữ trong và xung quanh thành phố. Bạn có thể đến thăm các công trình tưởng niệm, bảo tàng và đài tưởng niệm, hoặc đi bộ dọc theo những con đường di sản để thực hiện hành trình xuyên thời gian tìm về quá khứ.

Chủ đề