Theo basel 2, vỡ nợ được định nghĩa là khoản vay trên bao nhiêu ngày quá hạn

Basel II ở Việt Nam: Thực trạng và giải pháp

20/02/2018 16:14:00

- Đơn vị chủ trì: Ban Phát triển thị trường tài chính

- Chủ nhiệm nhiệm vụ: ThS. Đinh Ngọc Linh

- Năm giao nhiệm vụ: 2017Mã số: 2017-22

1. Tính cấp thiết của vấn đề nghiên cứu

Việc áp dụng các tiêu chuẩn của Hiệp ước Basel II hướng đến mục tiêu an toàn của khu vực ngân hàng đóng vai trò quan trọng không chỉ đối với sự ổn định của hệ thống tài chính mà còn đối với toàn bộ nền kinh tế, do nếu an toàn của ngân hàng không được đảm bảo sẽ tạo nên hiệu ứng lan truyền rủi ro của cả hệ thống, thậm chí có thể trở thành mầm mống của khủng hoảng kinh tế - tài chính. Việt Nam đã từng bước tiếp cận với các chuẩn mực quốc tế về đảm bảo an toàn trong hoạt động ngân hàng (Basel I, Basel II). Bên cạnh đó, Việt Nam cũng đã ban hành và từng bước hoàn thiện các văn bản pháp lý nhằm xây dựng nền tảng cần thiết đảm bảo an toàn hoạt động ngân hàng (Thông tư số 13/2010/TT-NHNN ngày 20/5/2010 quy định các tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng; Thông tư số 19/2010/TT-NHNN ngày 27/9/2010 sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 13/2010/TT-NHNN; Nghị định số 141/2006/NÐ-CP ngày 22/11/2006 yêu cầu vốn pháp định tối thiểu của ngân hàng thương mại (NHTM) phải đạt 3 nghìn tỷ đồng vào cuối năm 2010 nhằm đảm bảo an toàn vốn và nâng cao tiềm lực tài chính của các NHTM; Thông tư số 07/2013/TT-NHNN ngày 14/3/2013 quy định về việc kiểm soát đặc biệt đối với TCTD; Thông tư số 36/2014/TT-NHNN ngày 20/11/2014 tiếp tục quy định tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu (CAR) riêng lẻ và hợp nhất đều phải duy trì 9%, vốn cấp 1 phải loại trừ cổ phiếu quỹ và các khoản cấp tín dụng để góp vốn, mua cổ phần tại tổ chức tín dụng khác; Thông tư số 06/2016/TT-NHNN ngày 27/5/2016 sửa đổi Thông tư số 36/2014/TT-NHNN). Kể từ tháng 02/2016, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) chỉ định thực hiện thí điểm phương pháp quản trị vốn và rủi ro theo tiêu chuẩn Basel II đối với 10 ngân hàng, gồm: Ngân hàng BIDV, VietinBank, Vietcombank, Techcombank, ACB, VPBank, MB, Maritime Bank, Sacombank và VIB. Việc áp dụng tiêu chuẩn Basel II là một xu thế tất yếu và bắt buộc khi Việt Nam đang hội nhập sâu rộng với khu vực và trên thế giới. Việc áp dụng Basel II làm cho 10 ngân hàng trên phải cân đối giữa mục tiêu tăng trưởng cho vay và đảm bảo tỷ lệ an toàn vốn, từ đó giữ được an toàn trong hệ thống ngân hàng. Do đó, vấn đề cấp thiết hiện nay là cần đánh giá được mức độ an toàn của hệ thống NHTM Việt Nam và mối quan hệ giữa việc áp dụng các chuẩn mực của Hiệp ước Basel II đối với an toàn của hệ thống ngân hàng tại Việt Nam; từ đó đưa ra các hàm ý chính sách cho việc áp dụng các tiêu chuẩn Hiệp ước Basel II.

2. Mục tiêu nghiên cứu

Mục tiêu tổng quát: Nghiên cứu, phân tích, đánh giá trên cơ sở lý luận và thực tiễn thí điểm Basel II tại Việt Nam hướng tới đảm bảo an toàn hệ thống ngân hàng và đưa ra khuyến nghị cho việc áp dụng tiêu chuẩn Hiệp ước Basel II.

Mục tiêu cụ thể: (i) Nghiên cứu các vấn đề lý luận, làm rõ tính hiệu quả của Basel II và kinh nghiệm các nước triển khai áp dụng các tiêu chuẩn của Hiệp ước Basel II; (ii) Đánh giá thực tiễn áp dụng các chuẩn mực Hiệp ước Basel II của hệ thống ngân hàng Việt Nam, phân tích những thách thức trong việc thực hiện; (iii) Đề xuất giải pháp trong việc áp dụng tiêu chuẩn Hiệp ước Basel II tại Việt Nam.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu: Hoạt động áp dụng tiêu chuẩn Hiệp ước Basel II của hệ thống ngân hàng Việt Nam và một số quốc gia.

Phạm vi nghiên cứu:

Thời gian nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu quá trình triển khai áp dụng tiêu chuẩn Basel II của hệ thống ngân hàng Việt Nam từ năm 2014 đến nay, do ngày 20/3/2014 NHNN chính thức có Công văn số 1601/2014/NHNN-TTGSNH về chương trình thí điểm Basel II đối với 10 NHTM của Việt Nam.

Không gian nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu kinh nghiệm áp dụng Basel II trong hệ thống ngân hàng của một số quốc gia thuộc khối G10 (Bỉ, Canada, Pháp, Đức, Ý, Nhật Bản, Hà Lan, Thụy Điển, Thụy Sĩ, Anh, Hoa Kỳ) và ngoài khối G10. Đồng thời, đề tài nghiên cứu, đánh giá hoạt động áp dụng tiêu chí Basel II ở Việt Nam đối với NHNN, hệ thống NHTM, đặc biệt là nhóm NHTM thí điểm áp dụng Basel II. Trên thực tế, Hiệp ước Basel II có rất nhiều quy tắc và tiêu chí, tuy nhiên, đề tài chỉ giới hạn thực hiện nghiên cứu sâu các chuẩn mực mang tính định lượng liên quan tới tiêu chuẩn an toàn vốn (Pillar 1 - Minumum Capital Requirements) - nội dung cốt lõi của Hiệp định Basel.

4. Kết quả nghiên cứu

(1) Đề tài đã nghiên cứu, hệ thống hóa những nội dung mang tính lý luận về Hiệp ước Basel, trong đó nêu rõ quá trình ra đời của Hiệp ước Basel, nội dung cơ bản và các hạn chế của Basel I, nội dung 3 trụ cột của Basel II, ưu điểm của Basel II so với Basel I, tác động và lợi ích của hoạt động áp dụng Basel II đối với nền kinh tế, hệ thống ngân hàng và các quốc gia đang phát triển. Đồng thời, đề tài cũng nghiên cứu xu hướng áp dụng và kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Basel II vào hệ thống ngân hàng của một số quốc gia, từ đó rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.

(2) Đề tài đã phân tích, đánh giá thực tiễn áp dụng Basell II của NHNN và hệ thống NHTM Việt Nam, trong đó tập trung đánh giá thực tiễn triển khai áp dụng Hiệp ước Basel II của nhóm 10 ngân hàng tham gia thí điểm và làm rõ những kết quả đạt được như:

(i) Mặc dù các quy định của NHNN không tương hợp tất cả các nội dung 3 trụ cột theo Hiệp ước Basel II, tuy nhiên, NHNN đã sửa đổi, bổ sung nhiều quy định hướng tới tiếp cận các chuẩn mực của Hiệp ước Basel II.

(ii) Quy định về an toàn vốn tối thiểu của Việt Nam đã từng bước tiệm cận với các chuẩn mực của Hiệp ước Basel II, tuy nhiên hiện mới chỉ đáp ứng được một phần chuẩn mực an toàn vốn tối thiểu của Hiệp ước Basle II. Các quy định chủ yếu hướng đến các hoạt động quản trị rủi ro tín dụng (theo cách tính của Basel I), chưa đề cập nhiều đến rủi ro hoạt động và rủi ro thị trường, cũng chưa ứng dụng các phương pháp của Basel II.

(iii) Đối với quy định pháp lý về giám sát ngân hàng ở Việt Nam, tại Việt Nam, từ năm 2006, NHNN đã định kỳ thực hiện đánh giá tình hình tuân thủ đối với các nguyên tắc của Basel và đạt được kết quả là đã có những cải thiện lần sau so với lần trước. Theo kết quả bản báo cáo cuối cùng của NHNN trong năm 2011, hệ thống giám sát ngân hàng Việt Nam có 4/25 nguyên tắc được đánh giá ở mức độ tuân thủ; 9/25 tuân thủ phần lớn; 11/25 phần lớn không tuân thủ; 1/25 chưa tuân thủ. Cùng với việc từng bước xây dựng khung pháp lý linh hoạt, tạo điều kiện khuyến khích việc áp dụng các nguyên tắc, tiêu chuẩn quốc tế, mức độ tuân thủ các quy định về giám sát ngân hàng hiệu quả của Việt Nam so với nguyên tắc của Hiệp ước Basel đã được cải thiện.

(iv) Đối với quy định pháp lý về minh bạch thông tin, hiện Việt Nam đã có các quy định về việc các tổ chức tài chính phải thực hiện công khai minh bạch thông tin. Theo đó, ngày 21/01/2015, NHNN đã ban hành Văn bản hợp nhất số 02/VBHN-NHNN về chế độ báo cáo tài chính đối với các tổ chức tín dụng (hợp nhất Quyết định số 16/2007/QĐ-NHNN ngày 18/4/2007 và Thông tư số 49/2014/TT-NHNN ngày 31/12/2014).

(v) Nhóm 10 NHTM tham gia thí điểm đã thực hiện tái cơ cấu tổ chức, thành lập bộ phận phụ trách thúc đẩy triển khai áp dụng hiệp ước Basel II. Từ cuối năm 2012, Techcombank đã thành lập một nhóm dự án Basel II để xây dựng lộ trình nhằm thực hiện thành công dự án áp dụng Hiệp ước Basel II tại Techcombank. Năm 2015, Maritime Bank thành lập Ban Chỉ đạo dự án Basel II với thành viên là các lãnh đạo cấp cao thuộc Hội đồng quản trị và Hội đồng điều hành, thành lập riêng một Trung tâm Basel II và Mô hình công cụ rủi ro chuyên trách để đầu mối triển khai dự án...

(vi) Các NHTM Việt Nam đã chú trọng đẩy nhanh quá trình tăng vốn đáp ứng CAR theo yêu cầu Basel II. Trong những năm gần đây, tỷ lệ an toàn vốn bình quân của hệ thống tổ chức tín dụng nói chung và các NHTM nói riêng luôn cao hơn mức quy định của NHNN là 9%. Tuy nhiên, các quy định về CAR của Việt Nam hiện mới chỉ đáp ứng một phần chuẩn mực của Basel II, phần mẫu số theo quy định của Thông tư số 36/2014/TT-NHNN mới chỉ xác định rủi ro tín dụng, chưa tính đến rủi ro thị trường và rủi ro hoạt động.

(vii) Các NHTM Việt Nam đã tập trung hoàn thành cơ sở dữ liệu đánh giá rủi ro theo chuẩn quốc tế, đồng thời có kế hoạch nâng cao trình độ, nguồn nhân lực triển khai Hiệp ước Basel II.

(3) Trên cơ sở phân tích thực tiễn triển khai áp dụng Hiệp ước Basel II của NHNN và nhóm 10 NHTM tham gia thí điểm, đề tài chỉ ra một số khó khăn vướng mắc mà các NHTM gặp phải. Những nguyên nhân cốt lõi dẫn tới những khó khăn vướng mắc bao gồm:

(i) Những nguyên nhân thuộc về nội dung của Basel II: Nội dung Hiệp ước Basel II quá phức tạp; chi phí thực hiện Hiệp ước Basel lớn; yêu cầu của Hiệp ước Basel II về CAR.

(ii) Những nguyên nhân trong nội tại của hệ thống ngân hàng Việt Nam:

Chưa có văn bản hướng dẫn đầy đủ về việc thực hiện Basel II. Theo quy định trong Hiệp ước Basel II, các NHTM được lựa chọn một trong ba phương pháp đánh giá rủi ro tín dụng và tính toán tỷ lệ an toàn vốn theo từng phương pháp với sự đồng ý của cơ quan giám sát và phù hợp với năng lực hiện tại của từng ngân hàng. Tuy nhiên, văn bản hướng dẫn hiện hành của NHNN (Thông tư số 36/2014/TT-NHNN) mới chỉ dừng lại ở việc thay đổi các quy định đối với giới hạn tín dụng, tỷ lệ dư nợ cho vay so với tổng tiền gửi, tỷ lệ tối đa của nguồn vốn ngắn hạn được sử dụng cho vay trung và dài hạn với các điều chỉnh chủ yếu về kỹ thuật tính toán và mức quy định tỷ lệ. Tỷ lệ an toàn vốn vẫn dừng lại ở việc đo lường rủi ro tín dụng theo phương pháp cơ bản mà chưa đề cập đến các phương pháp khác, cũng như rủi ro tín dụng và rủi ro thị trường. Đến cuối năm 2016, NHNN ban hành Thông tư số 41/2016/TT-NHNN có hiệu lực từ ngày 01/01/2020 tiếp cận đầy đủ 3 trụ cột của Basel II, gồm tỷ lệ an toàn vốn theo 3 loại rủi ro (rủi ro tín dụng, rủi ro thị trường và rủi ro hoạt động), giám sát và công bố thông tin.

Chưa xây dựng được hệ thống cơ sở dữ liệu. Để áp dụng thành công Basel II đòi hỏi các ngân hàng phải có hệ thống dữ liệu chính xác, đáng tin cậy và kịp thời. Nếu rủi ro không được tính toán chính xác có thể giảm tác dụng tích cực của Basel II. Việc kiểm tra chất lượng của dữ liệu và đối chiếu dữ liệu là một thách thức trong quá trình triển khai Basel II nhằm đảm bảo tính đầy đủ và chính xác của dữ liệu. Các ngân hàng phải đảm bảo dữ liệu đầy đủ, khớp với số liệu đã được kiểm toán và đáp ứng các tiêu chuẩn về chất lượng dữ liệu của Basel II.

Thiếu nguồn nhân lực chất lượng cao. Đây là vấn đề chung đối với tất cả các NHTM và cơ quan giám sát NHTM như NHNN.

(iii) Hạn chế về hoạt động giám sát. Việt Nam hiện thực hiện giám sát tài chính theo mô hình phân tán, nặng về giám sát tuân thủ hơn giám sát rủi ro. Trong khi đó, nói đến hệ thống tài chính là nói đến những rủi ro có tính hệ thống, là những rủi ro trong từng lĩnh vực và rủi ro chéo từ lĩnh vực này sang lĩnh vực khác.

(iv) Các vấn đề liên quan đến chuẩn mực báo cáo. Hiện nay, các NHTM Việt Nam đang thực hiện báo cáo theo các chuẩn mực kế toán của Việt Nam (VAS) và các chuẩn mực kế toán quốc tế (IFRS). Khi thực hiện báo cáo theo hai chuẩn mực này hoặc thuê các tổ chức xếp hạng tín nhiệm độc lập trong nước và ngoài nước đánh giá thì kết quả khá khác biệt. Kết quả nghiên cứu cho thấy, mức độ hòa hợp giữa VAS với IAS/IFRS liên quan đến 10 chuẩn mực được chọn nghiên cứu ở mức bình quân là 68%.

(4) Đề tài đã đề xuất các giải pháp để áp dụng được Basel II trong hệ thống ngân hàng Việt Nam.

a. Nhóm giải pháp đối với các NHNN:

(i) Nâng cao hiệu quả công tác thanh tra kiểm soát, giám sát ngân hàng. Trong giai đoạn tới cần triển khai thực hiện tái cấu trúc tổ chức của các cơ quan giám sát để có thể thực hiện giám sát hợp nhất; gia tăng tính độc lập và hiệu quả hoạt động thanh tra giám sát ngân hàng; xây dựng cơ chế trao đổi, chia sẻ thông tin và tăng cường phối hợp, hành động giữa các cơ quan thanh tra giám sát với các cơ quan chức năng có liên quan trên thị trường tài chính Việt Nam; thay đổi phương pháp thanh tra, giám sát trong đó chú trọng vào giám sát từ xa và giám sát phòng ngừa; nâng cao vai trò, năng lực tài chính và hoạt động của Bảo hiểm Tiền gửi Việt Nam.

(ii) Hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật. NHNN cần xây dựng khung pháp lý toàn diện và thống nhất về Hệ thống Quản lý rủi ro trong NHTM Việt Nam; cải cách hệ thống kế toán ngân hàng hiện hành theo các chuẩn mực quốc tế, đặc biệt về vấn đề phân loại nợ theo chất lượng/mức độ rủi ro, trích lập dự phòng rủi ro, hạch toán thu nhập/chi phí; tạo điều kiện cho các ngân hàng ứng dụng công nghệ quản trị hiện đại và tạo rào chắn chống sự lạm dụng và gian lận; hoàn thiện hệ thống quy chế quản lý và biện pháp thận trọng trong lĩnh vực ngân hàng theo hướng phù hợp với nguyên tắc thị trường và cam kết mở cửa thị trường dịch vụ ngân hàng; hình thành đồng bộ khuôn khổ pháp lý, áp dụng đầy đủ hơn các thiết chế và chuẩn mực quốc tế về an toàn kinh doanh tiền tệ - ngân hàng; ban hành văn bản hướng dẫn thực hiện các chuẩn mực của Ủy ban Basel trên cơ sở lựa chọn chuẩn mực thích hợp; chú ý đến các quy định liên quan đến bảo hiểm tiền gửi...

(iii) Yêu cầu các NHTM minh bạch thông tin thông qua giải pháp như: Nghiên cứu, bổ sung thêm các yêu cầu các NHTM minh bạch hóa thông tin, công bố các thông tin giống như của các báo cáo quý và báo cáo năm của Hoa Kỳ đưa ra quy định rất chi tiết về các thông tin cần báo cáo; cần có quy định hạn chế các NHTM niêm yết cung cấp các thông tin ngẫu hứng, đặc biệt công bố thông tin không qua kênh chính thống nhằm hạn chế các thông tin thừa và ngoài luồng

(iv) Nâng cao chất lượng thông tín tín dụng. Đối với các ngân hàng, NHNN cũng cần nêu rõ điều kiện tiên quyết để có thể xây dựng một hệ thống xếp hạng tín nhiệm độc lập. Những ngân hàng nào không đạt yêu cầu sẽ phải sử dụng kết quả xếp hạng tín nhiệm độc lập của một tổ chức có uy tín do NHNN chỉ định. Các tổ chức xếp hạng tín nhiệm độc lập được phép thành lập với nhiều hình thức sở hữu khác nhau, nhưng cũng phải giám sát chặt chẽ các tổ chức này để bảo đảm chất lượng của các kết quả xếp hạng tín nhiệm. Không để xảy ra tình trạng dàn xếp giữa tổ chức xếp hạng với tổ chức được xếp hạng. Những tiêu chí của tổ chức xếp hạng này cũng phải phù hợp với Hiệp ước Basel II.

Các buổi hướng dẫn, giải đáp vướng mắc liên quan triển khai Basel II cần được thường xuyên tổ chức.

b. Nhóm giải pháp đối với các NHTM:

(i) Các NHTM cần được tăng tính chủ động và sức mạnh tài chính thông qua một số giải pháp như: Thực hiện tăng vốn tự có của các ngân hàng bằng lợi nhuận giữ lại, cho phép và khuyến khích các ngân hàng phát hành cổ phiếu, trái phiếu huy động vốn dài hạn trên thị trường chứng khoán sơ cấp; nợ tồn đọng cần được nhanh chóng xử lý dứt điểm và làm sạch bảng cân đối. Xây dựng cơ chế ngăn chặn sự gia tăng của nợ xấu mới; tạo tính chủ động trong hoạt động cho các ngân hàng.

(ii) Hoàn thiện và phát triển hạ tầng công nghệ thông tin. Hệ thống công nghệ thông tin cần phải đạt được các yêu cầu quan trọng: Lưu trữ dữ liệu lịch sử và hiện tại trong cùng một kho dữ liệu chung, mang tính thống nhất toàn diện và đảm bảo được khả năng xử lý với nhiều phiên bản dữ liệu khác nhau theo từng kịch bản riêng biệt; hệ thống có khả năng điều chỉnh chính xác phương thức xếp hạng, phân loại tài sản theo những yêu cầu khác nhau và khả năng điều chỉnh dễ dàng các tính toán; quản lý kiểm soát với các quy trình tự động cho phép ban lãnh đạo thiết lập biểu đồ kiểm soát rủi ro, xác định tự động quy trình công việc; hệ thống có khả năng triển khai các công cụ phân tích tinh vi, phức tạp, cho phép ngân hàng sử dụng bất kỳ mô hình nào nhằm xác định mô hình phù hợp với chính ngân hàng mình; phương pháp sử dụng linh hoạt, đáp ứng được các yêu cầu thay đổi nội bộ cũng như yêu cầu bên ngoài từ cơ quan quản lý và diễn biến thị trường.

(iii) Xây dựng hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ. Trong công tác quản trị rủi ro tín dụng, ngoài việc xếp hạng tín dụng, xác định giới hạn tín dụng đối với khách hàng, ngân hàng cần phải thường xuyên xem xét khoản vay, đánh giá những thay đổi hạng mức tín dụng của khách hàng. Bên cạnh đó, ngân hàng cũng cần xác định hạn mức cho từng ngành nghề hoặc khu vực kinh tế cụ thể, cho từng vùng miền và sản phẩm cụ thể nhằm kiểm soát rủi ro tín dụng.

(iv) Cải tiến quy trình quản trị rủi ro thông qua việc áp dụng các giải pháp: Thực hiện cơ cấu tổ chức của NHTM nhằm thực hiện tốt hơn quản trị rủi ro; thay đổi văn hóa trong quản trị rủi ro với bộ phận giám sát nội bộ phải sử dụng các công cụ, kỹ thuật mới từ đánh giá tuân thủ của các ngân hàng sang đánh giá phòng ngừa; cải tiến công tác báo cáo kịp thời, theo đúng yêu cầu về rủi ro, định kỳ và nội dung báo cáo được áp dụng thích hợp cho từng đối tượng nhận báo cáo; đẩy mạnh công tác kiểm soát nội bộ với mục tiêu quan trọng xây dựng được hệ thống tìm kiếm những xu hướng tiềm ẩn tiêu cực, bất ổn và thiếu sót trong hoạt động của ngân hàng để đưa ra biện pháp chấn chỉnh; chuyển đổi mô hình kinh doanh để không quá phụ thuộc vào hoạt động tín dụng

(v) Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực thông qua các giải pháp: Xây dựng kế hoạch nguồn lực phù hợp phục vụ triển khai Basel II; đào tạo kịp thời nguồn nhân lực sẵn có để đáp ứng nhu cầu trước mắt; các ngân hàng cần có chiến lược phát triển nguồn nhân lực lâu dài, có kế hoạch đào tạo và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đảm bảo cán bộ ngân hàng có nghiệp vụ chuyên môn giỏi, đáp ứng được yêu cầu hiện đại hóa công nghệ ngân hàng.

(iv) Đầu tư chi phí để ứng dụng Basel II. Theo kết quả đánh giá hiệu quả - chi phí áp dụng Hiệp ước Basel tại các nước đang phát triển có sự khác biệt. Theo đó, các yêu cầu về mặt hoạt động, nhất là đối với phương pháp đánh giá nội bộ có yêu cầu cao và mức chi phí lớn. Vì vậy, các ngân hàng đều phải tính toán đầy đủ, cụ thể để đánh giá khả năng đáp ứng được chi phí. Các NHTM cũng cần cân nhắc nên đầu tư chi phí cho việc từng bước ứng dụng Basel II, trước mắt có thể là đầu tư chi phí để xây dựng hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ, sau đó từng bước ứng dụng các phương pháp phức tạp hơn của Basel II.