Theo triết học Mác -- Lênin vận động là

+ Thời kỳ cổ đại thì các nhà triết học đã đồng nhất vật chất với dạng vật chất cụ thể, như Talet đã cho rằng vật chất là nước… Quan điểm này chỉ mang tính chất trực quan, cảm tính. Nó chỉ có tác dụng chống lại CNDT và tôn giáo

+ Thời kỳ cận đại thế kỷ XVII-XVIII: thời kỳ này thì các nhà triết học đã đồng nhất vật chất với thuộc tính của vật chất, như Niutơn đã cho rằng khối lượng là vật chất… Quan điểm này mang tính chất siêu hình, máy móc.

+ Quan điểm của triết học Mac-Lênin về vật chất: Lênin cho rằng vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khác quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác

2. Nội dung của quan điểm triết học Mác-Lê nin về vật chất

Trước hết vật chất là cái tồn tại khách quan bên ngoài ý thức của con người và không phụ thuộc vào ý thức. Đây chính là nội dung quan trọng nhất của quan điểm về vật chất. Không phải là khi con người ý thức được một cái gì đó thì nó là vật chất mà vật chất là cái đã tồn tại một cách khách quan, như là trước khi các nhà vật lý tìm ra các tia phóng xạ thì chúng đã tồn tại rồi,…

+ Thứ hai là con người có thể cảm giác được sự tồn tại khách quan của vật chất. Nếu cái gì đó mà con người không thể cảm giác được thì nó không phải là vật chất, vật chất nó luôn tồn tại trước ý thức của con người nhưng con người luôn có thể cảm giác được nó.

+ Thứ ba là ý thức của con người chỉ là sự phản ánh thế giới hiện thực. Những điều kiện vật chất cụ thể, hoàn cảnh cụ thể mà nó quyết định tới việc hình thành lên ý thức của con người.

Trên đây chúng ta đã phân tích những nội dung của quan điểm triết học Mac-Lênin về vật chất, tiếp sau chúng ta sẽ phân tích ý nghĩa phương pháp luận của quan điểm đó:

+ Nó đã giải quyết triệt để hai mặt trong một vấn đề cơ bản của triết học theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng.

+ Khắc phục hạn chế sai lầm của CNDV trước Mác về phạm trù vật chất: bác bỏ phủ nhận quan điểm của CNDT và tôn giáo về vấn đề này.

+ Nó tạo cơ sở cho các nhà triết học duy vật biện chứng xây dựng quan điểm vật chất trong lĩnh vực đời sống xã hội.

3. Quan điểm của triết học Mac-Lênin về vận động

Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng thì vận động hiểu theo nghĩa chung nhất bao gồm tất cả mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ, kể từ sự thay đổi vị trí đơn giản cho đến tư duy.

Nội dung của khái niệm vận động :

+ Vận động là phương thức tồn tại của vật chất , là thuộc tính cố hữu của vật chất, có nghĩa là vật chất tồn tại bằng vận động, thông qua vận động để biểu hiện sự tồn tại của mình. Khi chúng ta nhận thức được sự vận động của vật chất là lúc chúng ta biết được bản chất của ý thức.

+ Vận động không do ai sáng tạo ra và cũng không mất đi mà nó tồn tại vĩnh viễn. Điều này có được là do vật chất là vô tận, vô hạn, không sinh ra không mất đi và vận động là một thuộc tính không thể tách rời vật chất. Nó được thể hiện bằnh định luật bảo toàn và chuyển hoá năng lượng năng lượng trong vật lý.

+ Nguồn gốc của vận động là do bản thân sự vật hiện tượng quy định hay tự thân vận động. Sự tự thân vận động đó được tạo nên bởi sự tác động qua lại lẫn nhau giữa các nhân tố nội tại của bản thân vật chất.

Vận động là một khái niệm cơ bản của triết học, liên quan mật thiết với các khái niệm triết học khác. Quan điểm về vận động có thể là duy vật hay duy tâm, biện chứng hay siêu hình. Quan điểm duy vật biện chứng về vận động là đúng đắn và có nội dung sâu sắc. Quan điểm đó đã được trình bày trong các sách giáo khoa về triết học Mác – Lênin. Để tìm hiểu thuộc tính chung nhất của vận động là gì, mời quý đọc giả theo dõi bài viết dưới đây của ACC nhé!

Theo triết học Mác -- Lênin vận động là

Nội dung bài viết:

  1. I. Vận động là gì?
  2. II. Dấu hiệu nhận biết vận động
  3. III.Các hình thức của vận động
  4. IV. Quan hệ giữa vật chất và vận động

I. Vận động là gì?

Vận động là một phạm trù của triết học Marx-Lenin dùng để chỉ về một phương thức tồn tại của vật chất, đó là sự thay đổi của tất cả mọi sự vật hiện tượng, mọi quá trình diễn ra trong không gian, vũ trụ từ đơn giản đến phức tạp.

Theo quan điểm của triết học Mác – Lê nin thì vận động không chỉ là sự thay đổi vị trí trong không gian (hình thức vận động thấp, giản đơn của vật chất) mà theo nghĩa chung nhất, vận động là mọi sự biến đổi. Thông qua vận động, vật chất mới biểu hiện và bộc lộ bản chất của mình.

II. Dấu hiệu nhận biết vận động

Vận động với tính cách một khái niệm của triết học là “tất cả mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ, kể từ sự thay đổi vị trí đơn giản cho đến tư duy”, “là sự biến đổi nói chung, là mọi sự tác động qua lại giữa các khách thể vật chất”. Theo nghĩa này, khái niệm vận động đồng nghĩa với các khái niệm thay đổi, biến đổi; trái nghĩa với các khái niệm đứng im, không thay đổi, không biến đổi. Để xác định một sự vật (hoặc vật) nào đó có vận động hay không, ta cần phải so sánh sự vật ấy ở hai thời điểm khác nhau. Nếu một sự vật vào thời điểm trước và vào thời điểm sau là giống nhau, thì sự vật đó không vận động. Ngược lại, nếu một sự vật vào thời điểm trước và vào thời điểm sau là khác nhau, thì sự vật đó có vận động.

Thuộc tính chung nhất của vận động là sự biến đổi nói chung. Vận động là sự biến đổi nói chung không phụ thuộc vào tính chất, khuynh hướng hay kết quả của nó.

III.Các hình thức của vận động

Theo quan niệm của Ăngghen: vận động không chỉ thuần túy là sự thay đổi vị trí trong không gian mà là “mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ”, vận động “là một phương thức tồn tại của vật chất, là một thuộc tính cố hữu của vật chất” nên thông qua vận động mà các dạng cụ thể của vật chất biểu hiện sự tồn tại cụ thể của mình; vận động của vật chất là tự thân vận động; và, sự tồn tại của vật chất luôn gắn liền với vật chất.

Dựa trên thành tựu khoa học trong thời đại mình, Ăngghen đã phân chia vận động thành năm hình thức cơ bản: vận động cơ học, vận động vật lý, vận động hóa học, vận động sinh học và vận động xã hội.

Các hình thức vận động nói trên được sắp xếp theo thứ tự từ thấp đến cao tương ứng với trình dộ kết cấu của vật chất. Các hình thức vận động khác nhau về chất song chúng không tồn tại biệt lập mà có mối quan hệ mật thiết với nhau, trong đó: hình thức vận động cao xuất hiện trên cơ sở các hình thức vận động thấp và bao hàm trong nó những hình thức vận động thấp hơn. Trong sự tồn tại của mình, mỗi sự vật có thể có nhiều hình thức vận động khác nhau song bản thân nó bao giờ cũng được đặc trưng bởi hình thức vận động cao nhất mà nó có.

Bằng việc phân loại các hình thức vận động cơ bản, Ăngghen đã đặt cơ sở cho việc phân loại, phân ngành, hợp ngành khoa học. tư tưởng về sự thống nhất nhưng khác nhau về chất của các hình thức vận động cơ bản còn là cơ sở để chống lại khuynh hướng đánh đồng các hình thức vận động hoặc quy hình thức vận động này vào hình thức vận động khác trong quá trình nhận thức.

Khi khẳng định vận động là phương thức tồn tại của vật chất, là thuộc tính cố hữu của vật chất; chủ nghĩa duy vật biện chứng cũ đã khẳng định vận động là vĩnh viễn. Điều này không có nghĩa chủ nghĩa duy vật biện chứng phủ nhận sự đứng im, cân bằng; song đứng im, cân bằng chỉ là hiện tượng tương đối, tạm thời và thực chất đứng im, cân bằng chỉ là một trạng thái đặc biệt của vận động.

Đứng im là trạng thái đặc biệt của vận động, đó là vận động trong thế cân bằng, ổn định; vận động chưa làm thay đổi căn bản về chất, về vị trí, hình dáng, kết cấu của sự vật.

IV. Quan hệ giữa vật chất và vận động

Về vấn đề quan hệ giữa  vật chất và vận động, quan điểm biện chứng cho rằng, vật chất và vận  động không tách rời nhau; vận động là thuộc tính cố hữu của vật chất; bất kỳ sự vật nào cũng đều luôn luôn vận động; sự không vận động ở một số sự vật chỉ diễn ra  tạm thời ở một hình thức nào đó; vận động là tuyệt đối; không vận động là tương đối. Quan điểm biện chứng đó được thể hiện cô đọng ở luận điểm của Ph.Ăngghen: “Vận động là phương thức tồn tại của vật chất”. Trong khi đó, theo quan điểm siêu hình, vận động có thể tách rời vật chất; vận động không phải là tuyệt đối. Ví dụ, theo quan điểm siêu hình, thế giới vật chất lúc đầu không vận động, sau đó nhờ có cái hích của Thượng Đế nên mới vận động; hoặc thế giới vật chất mới có lịch sử cách đây 14 tỷ năm. Quan điểm siêu hình trái ngược với quan điểm biện chứng. Với quan điểm biện chứng, thế giới vật chất không có thời điểm bắt đầu; nó là vô tận về quá khứ và tương lai; nó luôn luôn vận động; sự vận động của thế giới vật chất bắt nguồn từ nguyên nhân nội tại của nó; trong thế giới đó có nhiều vũ trụ, một số vũ trụ đang co lại do lực hút, một số vũ trụ đang nở ra do lực đẩy, vũ trụ nào cũng có lúc co lại và có lúc nở ra. Dù cho 14 tỷ năm trước Vũ trụ mà ta nhìn thấy đã xảy ra vụ nổ lớn như lý thuyết Vụ Nổ Lớn (Big Bang – một lý thuyết của khoa học tự nhiên và được cộng đồng khoa học tự nhiên chấp nhận rộng rãi cho rằng, Vũ trụ lúc đầu chỉ giới hạn trong một không gian cực nhỏ với mật độ và nhiệt độ cực cao; từ thời điểm cách đây khoảng 14 tỷ năm đã xảy ra vụ nổ lớn; sau thời điểm này, Vũ trụ bắt đầu giãn nở; nguyên tố đầu tiên được sinh ra là hiđrô; sau đó  những đám mây  khổng lồ chứa các nguyên tố nguyên thủy được hội tụ lại bởi hấp dẫn và  tạo thành  lên các ngôi sao, các thiên hà, các đám thiên hà ), nhưng Vũ trụ đó cũng chỉ là  một trong các vũ trụ của thế giới  vật  chất. Vũ trụ mà ta nhìn thấy có lúc khởi đầu nhưng thế giới vật chất thì không có lúc khởi đầu.

ACC hy vọng đã hỗ trợ để có thể giúp bạn hiểu thêm về một số vấn đề về thuộc tính chung nhất của vận động. Nếu có gì thắc mắc quý đọc giả vui lòng liên hệ với chúng tôi qua Website: accgroup.vn