Quy trình thiết kế quá trình dạy họcBạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (183.45 KB, 12 trang ) Show
QUY TRÌNH THIẾT KẾ QUÁ TRÌNH DẠY HỌC Nhu cầu xã hội Ưu tiên đào tạo Cơ sở VC-KT Kiến thức nền Hứng thú Phong cách Kỳ vọng Công cụ Xác định mục tiêu môn học/ bài học CHUẨN BỊ THỰC THI Đ.GIÁ, CẢI TIẾN Tổ chức nội dung, T.bị, PP, C.cụ Kế hoạch Phương pháp dạy học Hình thức tổ chức dạy học Nội dung dạy học Mục tiêu (KT, KN, TĐ) Kiểm tra, đánh giá Chuẩn bị môi trường dạy học Ở nhà Trên lớp Ghi chép Kế hoạch cải tiến 1.1.2. Những thông tin về người học. 1.1.2.1. Kiến thức nền mà người học có trước khi bắt đầu môn học (bài học). Việc tìm hiểu, phân tích kiến thức nền của người học đủ để tiếp thu môn học (bài học) mới là rất cần thiết trước khi dạy môn học (bài học). Nếu có đầy đủ các thông tin về kiến thức đầu vào của người học, giáo viên sẽ có kế hoạch dạy học môn học phù hợp nhất đối với một đối tượng cụ thể. Việc thu thập thông tin về kiến thức nền của học sinh có thể được thực hiện bằng : - Kiểm tra khảo sát đầu năm học nhằm đánh giá vốn kiến thức bộ môn học sinh đã tích luỹ được ở lớp dưới có liên quan đến những nội dung bộ môn sẽ học ở lớp mình sẽ dạy. Trên cơ sở những thông tin thu được, giáo viên “chẩn đoán” những thuận lợi, khó khăn có thể gặp phải khi triển khai hoạt động dạy học và xây dựng kế hoạch bồi dưỡng lấp chỗ hổng kiến thức cho học sinh. - Trong mỗi tiết học, trước khi giảng bài mới, giáo viên kiểm tra kiến thức cũ của học sinh có thể dùng làm công cụ để giảng bài mới. Qua việc kiểm tra này, giáo viên xác định cần phải điều chỉnh phương pháp dạy học cho phù hợp với đối tượng học sinh và mục tiêu dạy học, bổ sung kiến thức cho học sinh nếu cần. 1.1.2.2. Thái độ của người học đối với môn học. Thái độ của người học đối với môn học có ảnh hưởng tới kết quả học tập của họ. Vì vậy, nhất thiết giáo viên phải xem xét thái độ của người học trước khi bước vào giảng dạy để có biện pháp thay đổi thái độ tiêu cực, tác động đến hứng thú của học sinh đối với môn học (Có thể tham khảo phiếu điều tra phong cách học kèm theo hướng dẫn này), đồng thời giáo viên cần bổ sung tài liệu mới; cần có thái độ nhiệt tình với học sinh nhằm giúp học sinh phát triển thái độ tích cực đối với môn học. 1.1.2.3. Phong cách học của người học Mỗi học sinh có phong cách học khác nhau, do đó có phương pháp học tập khác nhau. Giáo viên cần điều tra tìm hiểu phong cách của các nhóm học sinh (chẳng hạn nhóm học sinh có khả năng ghi nhớ bằng hình ảnh, nhóm học sinh có khả năng ghi nhớ bằng âm thanh…) để trên cơ sở đó lựa chọn, vận dụng các phương pháp giảng dạy phù hợp. 1.1.2.4. Những kỳ vọng của người học đối với môn học. Tìm hiểu những mong đợi của học sinh đối với môn học để giáo viên điều chỉnh nội dung dạy học cho phù hợp với đối tượng người học hoặc có những biện pháp phù hợp để điều chỉnh những mong đợi của họ. Chẳng hạn học sinh có thiên hướng thi khối A thì thường có xu hướng ít quan tâm học các môn khoa học xã hội, hoặc học sinh yếu không có ý định thi Đại học thì có nhu cầu học tập khác với các học sinh khá, giỏi… 1.1.3. Các nhu cầu của xã hội đối với người học sau tốt nghiệp. Giáo viên cần tìm hiểu những thông tin từ cựu học sinh, các địa phương trong tỉnh, các cơ sở sử dụng lao động, các trường cao đẳng, đại học, các công trình nghiên cứu liên quan về nghề nghiệp… để xác định các kiến thức, kỹ năng cần cung cấp cho người học để đáp ứng nhu cầu đối với người học sau khi tốt nghiệp. 1.1.4. Những ưu tiên đào tạo của nhà trường. Mỗi cơ sở đào tạo đều phải gắn với một cộng đồng và đều có những ưu tiên đào tạo đặc thù của cơ sở đó. Trường phổ thông Dân tộc Nội trú tỉnh có nhiệm vụ đào tạo nguồn cán bộ cho các địa phương trong tỉnh, giúp cho học sinh sau khi tốt nghiệp có thể học tiếp lên cao hoặc tham gia lao động sản xuất, tham gia công tác xã hội ở địa phương. Vì vậy, bên cạnh việc dạy học các môn học theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo, trường quan tâm 3 giáo dục cho các em kỹ năng sống, kỹ năng giao tiếp và hoạt động xã hội. Giáo viên cần tích hợp các nội dung giáo dục trên trong quá trình dạy học bộ môn. 1.1.5. Điều kiện cơ sở vật chất kỹ thuật Trên cơ sở tìm hiểu về điều kiện cơ sở vật chất kỹ thuật hiện có của nhà trường để giáo viên lựa chọn hình thức tổ chức dạy học, phương pháp dạy học phù hợp với mục tiêu, nội dung giảng dạy. 1.2. Xác định mục tiêu môn học, bài học Từ mục tiêu của nền giáo dục (đã được quy định tại Điều 2 của Luật Giáo dục năm 2005), mục tiêu của giáo dục phổ thông (Điều 27 của Luật GD), giáo viên cần nắm vững mục tiêu môn học (quy định tại văn bản “Chương trình giáo dục phổ thông cấp trung học phổ thông”), đồng thời phải mô tả được cụ thể những gì mà học sinh có khả năng thực hiện được sau khi hoàn tất khóa học hay môn học. Trên cơ sở mục đích chung của khóa học, mục tiêu của môn học, giáo viên cần phải xác định được mục tiêu chi tiết tới từng chương, từng bài học. Cần lưu ý rằng, mục tiêu chi tiết của từng bài, từng chương nằm trong và nhằm hướng tới để đạt mục tiêu chung của môn học, khóa học. 1.2.1. Cách xây dựng mục tiêu - Trước hết, cần xác định cái học sinh cần chiếm lĩnh (những điều học sinh chưa có), xác định mục tiêu dự kiến cần đạt vào cuối bài, tìm ra con đường giúp học sinh chiếm lĩnh nó và tìm ra các phương pháp để đánh giá sự tiến bộ của học sinh theo những mục tiêu đó. Quá trình này thường gồm 3 giai đoạn: • Phân tích tình hình. Giáo viên phải trả lời các câu hỏi sau: + Học sinh đã có những kinh nghiệm gì về chủ đề hay nội dung giảng dạy (dựa vào những thông tin về học sinh thu được sau khi thực hiện mục 1.1.2. Thông tin về người học) để từ đó xác định vấn đề cần giải quyết. + Vấn đề đó được giải quyết như thế nào ? + Nếu có thì mục tiêu cần đạt cụ thể của việc giảng dạy là gì ? • Xây dựng mục tiêu + Phác họa những mục tiêu chính của bài giảng theo cấp độ (xem mục 1.2.2. Các thứ bậc trong mục tiêu). + Những mục tiêu “con” có thể được điều chỉnh cho phù hợp với mục tiêu cụ thể trên cơ sở những mục tiêu “xương sống” đã dựng sẵn. • Thực hiện và đánh giá việc đạt mục tiêu + Giảng dạy bám theo mục tiêu và lựa chọn phương pháp phù hợp để đạt mục tiêu đề ra. + Nhất thiết phải kiểm tra và đánh giá mục tiêu đã chiếm lĩnh bằng phương pháp đánh giá phù hợp. - Cần phân biệt mục tiêu bài dạy với mô tả bài dạy Mục tiêu bài dạy là sự mô tả các hoạt động, hành vi (hay thành tích) mà học sinh phải chiếm lĩnh được nếu muốn được công nhận là có năng lực. Mục tiêu bài dạy là mô tả kết quả, sản phẩm mà bài dạy muốn đạt được (cái mà học sinh phải có khả năng làm được sau khi học xong một bài học) chứ không phải là kể ra nội dung của việc giảng dạy, quá trình dạy học hay các phương pháp, biện pháp sử dụng để dạy học. Mục tiêu đó phải được những người khác hiểu như chính người xác định mục tiêu hiểu. - Xác định độ tin cậy của mục tiêu bài dạy. Để làm được việc này, cần trả lời 3 câu hỏi: 1) Học sinh phải làm được gì ? 2) Làm được trong điều kiện nào ? bằng cách nào ? 4 3) Làm được với mức độ nào ? Một mục tiêu được xem là tin cậy và có giá trị khi nó xác định cái mà học sinh có thể và phải làm được, đồng thời phải xác định được những điều kiện để có thể xảy ra và hoàn thành hành vi đó. Hành vi của học sinh có thể là lời nói hay hành động. Nhưng dù thế nào thì cũng chỉ là suy diễn điều học sinh đang có trong đầu thông qua quan sát khả năng hoàn thành của họ. - Mô tả hành vi trong mục tiêu • Viết một câu diễn đạt ý đồ chính hay khả năng hoàn thành mà thầy giáo mong đợi ở học sinh. • Nếu hoạt động thuộc lĩnh vực trừu tượng thì thêm vào đó một chỉ số hành vi cho phép đánh giá mục tiêu đó có đạt hay không. • Mô tả những điều kiện cơ bản trong đó kỹ năng hoàn thành phải thực hiện. Như vậy, thầy giáo đã xác định cho học sinh và cho chính bản thân một loạt hoạt động mà thầy chấp nhận như bằng chứng thành công của học sinh. Qua đó, thầy cũng xác định được các tài liệu và phương pháp phù hợp cho việc giảng dạy và có được cơ sở để đánh giá hiệu quả hoạt động của trò cũng như của thầy. Một số động từ có thể được dùng để diễn đạt mục tiêu theo thang bậc nhận thức: + Mức độ nhớ (biết): “Xác định”, “phân biệt”, “nhận ra”, “viết ra”, “kể lại”… + Mức độ hiểu: “dịch ra”, “chuyển hóa”, “sắp xếp lại”, “giải thích”, “dự đoán”, “bổ sung”… + Mức độ vận dụng: “ứng dụng”, “liên hệ”, “phân loại”, “phát triển”, “cấu trúc lại”, “lựa chọn”… + Mức độ phân tích: “phân biệt”, “đối chiếu”, “so sánh”, “phân tích”… + Mức độ tổng hợp: “phạm trù hóa”, “lập kế hoạch”, “thiết kế”, “tổ chức”… + Mức độ đánh giá: “chứng minh”, “đánh giá”, “quyết định”, “thẩm định”… Chú ý: Nên hết sức tránh dùng những từ bất định như “hiểu”, “biết”, “quán triệt”… để mô tả, xác định mục tiêu, vì như vậy không xác định được giáo viên muốn học sinh của mình làm được gì. - Thông số đo mục tiêu. Sau khi mô tả hành vi mà học sinh có thể và phải hoàn thành, giáo viên có thể nhấn mạnh ý đồ sư phạm của mình bằng cách mô tả thêm tiêu chuẩn hay chất lượng của hành vi mà giáo viên chờ đợi ở học sinh. Các thông số đo mục tiêu có thể là: • Tốc độ: Giới hạn khoảng thời gian học sinh phải hoàn thành mục tiêu. • Độ chính xác: Thí dụ sau bài học, với thước và compa, học sinh có thể vẽ được đường phân giác của một góc lớn hơn 5 0 và với độ chính xác là ≤ 1 0 . • Độ sáng tạo. Để xác định sự sáng tạo được hình thành hay không, giáo viên kiểm tra khả năng ứng dụng kiến thức vào thực tiễn, khả năng lý giải các vấn đề mới của thực tiễn. 1.2.2. Các thứ bậc trong mục tiêu (theo cách phân chia của Bloom) Mục tiêu giáo dục được thể hiện trên 3 lĩnh vực: nhận thức, kỹ năng, tình cảm/thái độ. 1.2.2.1. Mục tiêu nhận thức Đây là lĩnh vực được đánh giá phổ biến nhất trong giáo dục, gồm 6 mức độ theo thứ tự từ đơn giản đến phức tạp: - Nhớ: sự nhớ lại các dữ liệu đã học, tức là học sinh có thể nhắc lại một loạt dữ liệu, từ các sự kiện đơn giản đến các lý thuyết phức tạp, tái hiện trong trí nhớ những thông tin cần thiết. Đây là cấp độ thấp nhất của kết quả học tập trong lĩnh vực nhận thức. - Hiểu: Là khả năng nắm được ý nghĩa của tài liệu. Học sinh có thể chuyển tài liệu từ dạng này sang dạng khác, bằng cách giải thích hoặc tóm tắt tài liệu… 5 - Áp dụng: Là khả năng sử dụng các tài liệu đã được học vào hoàn cảnh cụ thể bao gồm áp dụng các quy tắc, phương pháp, khái niệm, nguyên lý, định luật và lý thuyết. - Phân tích: Là khả năng phân chia một tài liệu ra thành các phần sao cho có thể hiểu được cấu trúc tổ chức của nó. Ở cấp độ này, học sinh có thể chỉ ra đúng được các bộ phận, phân tích các mối quan hệ giữa các bộ phận và nhận biết được các nguyên lý tổ chức được bao hàm. - Tổng hợp: Là khả năng sắp xếp các bộ phận lại với nhau để hình thành một tổng thể mới. Điều đó bao gồm việc tạo ra một cuộc giao tiếp đơn nhất (chủ đề hoặc bài phát biểu), một kế hoạch hành động hoặc một mạng lưới các quan hệ trừu tượng (sơ đồ để phân lớp thông tin)… - Đánh giá: Là khả năng xác định giá trị của tài liệu. 1.2.2.2. Mục tiêu kỹ năng Lĩnh vực này đề cập đến việc rèn luyện các kỹ năng hoạt động thể chất, liên quan đến sự vận động của chân tay, bao gồm các cấp độ: vận động phản xạ; vận động cơ bản; vận động chuyển giao; vận động kỹ năng; vận động kỹ xảo, phối hợp thành thạo nhiều kỹ năng. Về lĩnh vực kỹ năng, kỹ xảo thông qua các thao tác thực hành vận dụng các kiến thức đã học vào thực tế cuộc sống, cũng có thể được đánh giá theo các mức sau: - Bắt chước, mô phỏng (quan sát và làm lại một thao tác nào đó). - Thao tác (nghe chỉ dẫn và thực hiện lại thao tác đó). - Chuẩn hóa (lặp đi, lặp lại 1 thao tác một cách chính xác mà không cần có hướng dẫn). - Phối hợp (kết hợp nhiều thao tác theo trình tự một cách thuần thục, ổn định) - Tự động hóa (hoàn thành một hay nhiều thao tác một cách tự nhiên, không đòi hỏi sự gắng sức về thể chất cũng như về trí tuệ). 1.2.2.3. Mục tiêu tình cảm/thái độ Lĩnh vực này ít được đánh giá nhất trong 3 lĩnh vực, tuy nhiên đây lại là một khía cạnh quan trọng trong giáo dục vì nó ảnh hưởng đến tình cảm và cảm xúc của học sinh. Lĩnh vực này bao gồm: • Tiếp nhận những hiện tượng và tác nhân cụ thể. • Hồi đáp, đáp ứng. • Đánh giá, định giá trị của một sự kiện hay hiện tượng. • Thiết lập (tổ chức) những giá trị trong mối quan hệ liên quan với nhau. • Khái quát hóa - tổng hợp các giá trị, kiên định trong cuộc sống. Như vậy, 3 lĩnh vực nhận thức, kỹ năng, tình cảm/thái độ là đối tượng để giáo viên xác định mục tiêu cho hoạt động dạy - học. Giáo viên cần phải quan tâm đến cả 3 lĩnh vực, thay vì chỉ đi sâu vào một lĩnh vực nhận thức. Học sinh phải được tạo cơ hội để phát triển năng lực trí tuệ, tổ chức, và thể chất để trở thành những con người phát triển hoàn thiện. 1.3. Tổ chức nội dung, lựa chọn phương pháp, thiết bị. Sau khi xác định được mục tiêu của chương trình, của môn học, bài học (từ tổng quát đến cụ thể, giáo viên tiến hành tổ chức sắp xếp nội dung dạy học của từng chương, từng bài cho phù hợp với các cấp độ mục tiêu, đối tượng học sinh và phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh cụ thể (không gian, thời gian, điều kiện cơ sở vật chất, thiết bị dạy học…) của nhà trường. 1.3.1. Cấu trúc lại nội dung trong SGK. Nội dung chương trình đã được tổ chức theo chương trình của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Giáo viên không thể thay đổi thứ tự thực hiện các chương, các bài học trong SGK, tuy nhiên, trong mỗi bài dạy cần phải cấu trúc lại nội dung cho phù hợp với các cấp độ mục tiêu dạy học, phù hợp với từng đối tượng học sinh (chẳng hạn cùng một bài học nhưng nội dung 6 dạy học ở ban Cơ bản không giống với dạy ở các lớp ban Khoa học xã hội và các lớp thuộc ban Khoa học tự nhiên). Giáo viên căn cứ vào mục tiêu dạy học (xem mục 1.2.) và các thông tin thu thập được từ sự phân tích nhu cầu (mục 1.1.) để cấu trúc lại nội dung bài học, đồng thời giáo viên cũng cần phải thường xuyên cập nhật kiến thức mới, những thành tựu khoa học kỹ thuật liên quan đến nội dung môn học, bài học để bổ sung vào bài giảng. Việc sắp xếp nội dung bài giảng cần phải tuân thủ các nguyên tắc như từ đơn giản đến phức tạp, từ cái chung đến cái riêng, từ cái đã biết đến cái chưa biết… 1.3.2. Xác định hình thức tổ chức dạy học Căn cứ vào mục tiêu, nội dung đã được xác định, lựa chọn và tổ chức nội dung dạy học như đã nói ở trên, việc tìm kiếm các hình thức tổ chức dạy học phù hợp là một khâu quan trọng tác động lớn đến hiệu quả dạy học. Có 3 lựa chọn cơ bản: - Lựa chọn về cấu trúc: Lên lớp lý thuyết, làm việc nhóm, làm việc tại phòng thí nghiệm, hoạt động ngoài lớp học…); - Lựa chọn quy trình (quy trình về thời gian, cho miễn học/phụ đạo, địa điểm học tập (trong trường, ngoài trường), cách cấp chứng nhận hoàn thành môn học… - Lựa chọn công nghệ. Những hình thức tổ chức dạy học này quy định các phương pháp dạy học tương ứng (Xem mục 1.3.3.). 1.3.3. Chọn phương pháp dạy học phù hợp Bởi vì phương pháp tạo nên hiệu quả của quá trình dạy học nên vấn đề lựa chọn phương pháp luôn được đặt lên hàng đầu trong khi thiết kế, xây dựng ý đồ triển khai một bài giảng cụ thể. Có nhiều phương pháp dạy học khác nhau. Mỗi phương pháp dạy học đều có mặt ưu điểm nhưng cũng có hạn chế của nó. Trên thực tế, không có một phương pháp nào tuyệt hảo, vạn năng cũng như không có phương pháp nào tồi tệ. Giáo viên phải biết chọn lựa để phát huy những điểm mạnh và hạn chế những nhược điểm của từng phương pháp trong quá trình dạy học. Một phương pháp dạy học được coi là hợp lý khi nó đáp ứng được: - Nhắm đến mục tiêu dạy học rõ ràng: Tạo ra khả năng cao nhất để thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ dạy học, phát triển nhận thức, kỹ năng, thái độ của người học; - Tương thích: Phù hợp với nội dung dạy học cụ thể, đặc thù của từng môn học, bài học, từng vấn đề cụ thể, từng giai đoạn cụ thể trong tiến trình giờ học… - Khả thi: Phù hợp với năng lực, trình độ, sở thích, hứng thú, kinh nghiệm của cả người dạy và người học, phù hợp với các điều kiện dạy học… Như vậy, khi lựa chọn phương pháp dạy học, giáo viên phải căn cứ vào: - Mục tiêu, nội dung dạy học (môn học, chương mục, bài học, từng nội dung cụ thể, trong các giai đoạn triển khai giờ học…). - Nguyên tắc dạy học. - Đặc điểm tâm, sinh lý, khả năng, trình độ, hứng thú của người học, trình độ chuyên môn, năng lực sư phạm của giáo viên. 1.3.4. Lựa chọn và sử dụng thiết bị, công nghệ dạy học. Việc lựa chọn và sử dụng thiết bị, công nghệ dạy học phụ thuộc rất nhiều vào hình thức tổ chức dạy học, phương pháp dạy học để tiến tới mục đích cuối cùng là đạt được mục tiêu dạy học. Khi lựa chọn các phương tiện, thiết bị dạy học, giáo viên cần lưu ý các điểm sau: - Chỉ chọn các phương tiện hiệu quả nhất cho mục tiêu học tập của giờ học. - Phải đảm bảo các thiết bị có sẵn. - Phương tiện càng dễ sử dụng càng có hiệu quả cao. - Luôn sáng tạo linh hoạt, không quá cầu kỳ. 7 - Không quên những công nghệ thấp nhưng hiệu quả cao (tài liệu phát tay, đồ dùng dạy học tự tạo…). 1.3.5. Thiết kế công cụ và quy trình đánh giá kết quả học tập Quy trình đánh giá bao gồm các bước sau: 1.3.5.1. Xác định mục đích đánh giá. Đây là yếu tố đầu tiên mà giáo viên phải xây dựng được trước khi tiến hành một hoạt động đánh giá. Đánh giá được tiến hành ở nhiều thời điểm khác nhau trong quá trình dạy học. Mỗi thời điểm có mục đích riêng. - Đánh giá “khởi sự” nhằm khảo sát kiến thức của người học trước khi bắt đầu giảng dạy môn học nhằm tìm hiểu thông tin về người học: học sinh đã có những kiến thức, kỹ năng gì cần thiết cho việc tiếp thu nội dung giảng dạy mới ? Họ có thể gặp khó khăn gì trong quá trình học tập sắp tới ? - Đánh giá theo tiến trình được dùng để theo dõi sự tiến bộ của học sinh nhằm đánh giá mức độ đạt các mục tiêu trung gian, cung cấp thông tin phản hồi để giáo viên – học sinh điều chỉnh hoạt động của mình để đạt mục tiêu cuối cùng. - Đánh giá tổng kết được tiến hành vào cuối học kỳ, cuối năm học, cuối khoá học nhằm xác định mức độ đạt mục tiêu học tập và thường được dùng để có các quyết định quản lý phù hợp như lên lớp, thi lại, ở lại lớp, xét tốt nghiệp. Kết quả đánh giá tổng kết cung cấp thông tin cần thiết cho việc đánh giá cải tiến chương trình cũng như hiệu quả của dạy - học. 1.3.5.2. Lựa chọn các hình thức kiểm tra đánh giá. Thông thường, trong quá trình dạy học một môn học, giáo viên áp dụng các hình thức kiểm tra đánh giá như sau: Kiểm tra miệng (kiểm tra hàng ngày) Kiểm tra 15 phút (tuỳ thuộc vào thời lượng của từng môn, mỗi môn có ít nhất 2 bài kiểm tra 15 phút) Kiểm tra định kỳ (kiểm tra 01 tiết), thực hiện theo phân phối chương trình. Kiểm tra cuối học kỳ. Có thể dùng phương pháp quan sát, vấn đáp hay kiểm tra (thi) viết. Trong kiểm tra (thi) viết có thể dùng trắc nghiệm tự luận hay trắc nghiệm khách quan hoặc kết hợp cả hai. 1.3.5.3. Phân tích nội dung, xác định tiêu chuẩn, tiêu chí đánh giá cho từng nội dung đánh giá. Nếu chọn hình thức kiểm tra (thi) viết thì đây là khâu quan trọng nhất. Khi phân tích nội dung cần đánh giá, giáo viên phải xem xét toàn bộ nội dung và phân biệt: - Những nội dung chỉ cần tái hiện hay tái nhận - Những nội dung cần giải thích, minh họa - Những ý tưởng phức tạp cần được phân tích, giải thích, áp dụng trong những hoàn cảnh khác. 1.3.5.4. Thiết lập dàn bài Phương pháp thường dùng để thiết lập dàn bài kiểm tra (thi) là lập bản quy định (ma trận) hai chiều với một chiều (hàng dọc) biểu thị toàn bộ nội dung, còn chiều kia biểu thị cho các bậc mục tiêu (quá trình tư duy) mà bài kiểm tra (thi) muốn khảo sát (giáo viên đã được tập huấn và thực hiện tốt việc thiết lập dàn bài theo phương pháp lập ma trận hai chiều nên không đi sâu). 1.3.5.5. Lựa chọn hoặc viết câu hỏi Dàn bài thi đã cho ta biết số lượng và bậc mục tiêu tương ứng với từng nội dung cần kiểm tra (thi). Bước tiếp theo là lựa chọn câu hỏi trong ngân hàng đề. Đối với các mục tiêu bậc 1 và một phần mục tiêu bậc 2 có thể viết các câu TNKQ nhiều lựa chọn hoặc ghép đôi. 8 Số lượng câu hỏi tùy thuộc vào thời gian kiểm tra (thi). Trung bình để chọn được câu trả lời đúng cho một câu hỏi nhiều lựa chọn thì học sinh cần 01 phút. Đây cũng là căn cứ tương đối để người viết quyết định số lượng câu hỏi cho các mục tiêu ở bậc tương ứng. Đối với một số mục tiêu bậc 2 và bậc 3 có thể dùng các câu TNTL có cấu trúc đề kiểm tra (thi). 1.3.5.6. Phân tích câu hỏi Mục đích: Nhằm xác định xem các câu hỏi có thể dùng làm công cụ để kiểm tra việc đạt các mục tiêu trong các nội dung kiểm tra (thi) hay không, đồng thời cũng nhằm đánh giá độ khó, độ phân biệt của các câu hỏi đó để thay đổi, điều chỉnh nếu cần. Các tiêu chí để đánh giá một đề kiểm tra (thi): -1- Phạm vi nội dung cần bao quát -2- Sự cân đối của các loại câu hỏi về độ khó (bậc mục tiêu) + Khả năng tái hiện + Hiểu biết, vận dụng + Phân tích, tổng hợp, đánh giá + Sự sáng tạo + Các kỹ năng khác. -3- Cơ hội bình đẳng để trả lời cho toàn bộ người học -4- Những sai sót có thể có trong bài thi. 1.3.5.7. Tổ chức kiểm tra (thi), chấm điểm. Sau khi đã phân tích từng câu hỏi và toàn bộ đề kiểm tra (thi), công việc tiếp theo là tổ chức kiểm tra (thi). Việc xây dựng phương thức chấm điểm, các tiêu chuẩn, tiêu chí cho điểm chính xác, nhất là đối với các câu TNTL là rất cần thiết. Hạn chế dùng các câu TNTL tự do và thay vào đó các câu TNTL có cấu trúc sẽ giúp khắc phục khó khăn này. Phương thức chấm điểm phải khắc phục một số khó khăn sau: - Thay đổi chuẩn đánh giá. - Phân biệt đối xử do chữ viết của học sinh… Một điều cần lưu ý khi chấm các bài kiểm tra , nhất là các bài kiểm tra theo tiến trình là cần có lời nhận xét của giáo viên. Những nhận xét chính xác, cách động viên của giáo viên sẽ giúp học sinh sửa lỗi và tiến bộ sau mỗi kỳ kiểm tra. 1.3.5.8. Ghi chép, phân tích, lưu trữ kết quả kiểm tra (thi) trước khi công bố kết quả. Việc ghi chép, phân tích qua thống kê đơn giản và lưu trữ các kết quả cho phép giáo viên theo dõi sự tiến bộ của học sinh, các dạng lỗi mà học sinh thường gặp để giúp học sinh điều chỉnh cách học, khắc phục những nhược điểm, đồng thời động viên họ học ngày càng tốt hơn. Những thông tin này đồng thời cũng giúp giáo viên có những điều chỉnh trong nội dung bài giảng, phương pháp giảng dạy. Đối với các kỳ thi TNKQ tiêu chuẩn hóa, việc phân tích kết quả các bài thi cho phép xác định độ khó, độ phân biệt của các câu trắc nghiệm, độ khó trung bình của một bài trắc nghiệm, độ giá trị, độ tin cậy của bài thi. Bước cuối cùng trong quy trình kiểm tra đánh giá là xếp hạng. Cách xếp hạng hiện nay là căn cứ vào điểm số và xếp hạng theo các bậc xuất sắc, giỏi, khá, trung bình, yếu kém. Căn cứ vào kết quả xếp loại học lực và hạnh kiểm, nhà trường công nhận các danh hiệu Học sinh Xuất sắc, Học sinh Giỏi, Học sinh Tiên tiến… Trên cơ sở mục tiêu đánh giá, hình thức đánh giá, công cụ đánh giá và các tiêu chí đánh giá đã được xác định, cần lập kế hoạch đánh giá (vào lúc nào, hình thức gì ) và cung cấp toàn bộ thông tin này cho học sinh ngay từ đầu khóa học. 1.4. Lập kế hoạch Căn cứ văn bản phân phối chương trình do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành, kế hoạch thực hiện nhiệm vụ năm học của tỉnh; kế hoạch chiến lược, kế hoạch năm học của 9 nhà trường, giáo viên xây dựng kế hoạch dạy học bộ môn của mình. Kế hoạch dạy học của giáo viên càng cụ thể, chi tiết càng tốt, cần cụ thể hóa đến từng tháng, từng tuần và phản ánh được các mục tiêu, nội dung, nhiệm vụ… như đã trình bày ở các mục trên. Đến đây, giai đoạn thiết kế chương trình (quy trình dạy học) được xem là hoàn tất, có thể đưa vào thực thi trước khi xem xét lại lần cuối, kiểm tra các thông số về điều kiện thực hiện chương trình. Trong trường hợp cần thiết, có thể có những điều chỉnh một số khâu. BƯỚC 2. THỰC THI Xây dựng kế hoạch bài dạy, soạn giáo án Kế hoạch bài dạy, giáo án phải thể hiện được các nội dung sau đây: 2.1. Xác định mục tiêu bài dạy Cách xác định mục tiêu bài dạy (xem mục 1.2.). Cần chú ý rằng, mục tiêu của bài dạy càng cụ thể, càng tường minh bao nhiêu thì việc thực hiện bài giảng càng thuận lợi bấy nhiêu. Trong kế hoạch bài dạy, giáo án cần xác định những mục tiêu chi tiết ứng với từng đơn vị nội dung của môn học. Những mục tiêu này hướng tới mục tiêu bài học. Mục tiêu của bài dạy phải hướng tới mục tiêu của bộ môn nói riêng và hướng tới mục tiêu của chương trình giáo dục nói riêng. Cần chú ý đúng mức tới mục tiêu hình thành thái độ/ tình cảm của học sinh, bởi vì đây mới là cái đích cuối cùng của việc dạy học nói riêng, của giáo dục nói chung. 2.2. Cấu trúc lại nội dung SGK Nội dung bài dạy đã được thể hiện trong SGK. Tuy nhiên giáo viên cần tổ chức lại nội dung sao cho phù hợp với mục tiêu dạy học, phù hợp với đối tượng học sinh trong thời gian, không gian cụ thể. Không thể áp dụng một cách giống nhau một nội dung đối với các đối tượng học sinh khác nhau. Cần xác định cụ thể: đối tượng học sinh khá, giỏi, trung bình, yếu, kém, học sinh học ban Cơ bản và học sinh học ban Khoa học tự nhiên, ban Khoa học xã hội để lựa chọn nội dung dạy học phù hợp với mục tiêu đã xác định. Bên cạnh đó, giáo viên cũng cần lựa chọn nội dung nào của bài dạy trên lớp, nội dung nào cho học sinh tự học ở nhà có sự hướng dẫn của giáo viên, nội dung nào dạy cho học sinh trung bình yếu, nội dung nào dạy cho học sinh khá, giỏi… (xem thêm mục 1.3.1.). 2.3. Lựa chọn hình thức tổ chức dạy học Đối với học sinh phổ thông, có hai hình thức tổ chức dạy học phổ biến: Học trên lớp có sự hướng dẫn của giáo viên, học ở nhà (hiện nay chủ yếu là làm các bài tập do giáo viên giao cho). Do lượng kiến thức nhiều, có thể trên lớp giáo viên không thể dạy hết các nội dung trong SGK, vì vậy giáo viên có thể giao cho học sinh tự học ở nhà đối với một số nội dung của bài học trong SGK, song nên chọn những nội dung dễ, chủ yếu ở bậc mục tiêu nhận thức thứ nhất. Việc làm này còn có tác dụng rèn luyện cho học sinh kỹ năng tự học, tự nghiên cứu một cách độc lập. Một số môn như Lý, Hóa, Sinh, Công nghệ, Sử, Địa, GDCD giáo viên có thể lựa chọn hình thức dạy học ngoài lớp học. Chẳng hạn thăm bảo tàng, tổ chức hoạt động về nguồn… 2.4. Lựa chọn phương pháp dạy học, sử dụng đồ dùng, thiết bị dạy học Cách lựa chọn phương pháp dạy học, phương tiện và thiết bị dạy học đã được đề cập trong mục 1.3.3. và 1.3.4. Cần chú ý thêm rằng, phương pháp dạy học phải được sử dụng một cách linh hoạt, không cứng nhắc, máy móc. Giáo viên cần phải nhìn vào mắt học trò mà dạy. Nếu học sinh có biểu hiện mệt mỏi, kém tập trung thì giáo viên phải thay đổi phương pháp ngay. Không nên sử dụng duy nhất một phương pháp hoặc tổ chức quá nhiều hoạt động trong một tiết học. Cần chú ý đến các nguyên tắc sử dụng đồ dùng, thiết bị dạy học như đảm bảo tính giáo dục, tính thẩm mỹ, tính chủ định… để đạt mục tiêu dạy học. 10 2.5. Kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh. Việc kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh có thể được thực hiện ở các thời điểm khác nhau như kiểm tra đầu giờ (kiểm tra việc học sinh chuẩn bị bài ở nhà), kiểm tra trong quá trình tổ chức dạy học, kiểm tra cuối giờ (nhằm đánh giá kết quả học tập trên lớp). Khi kiểm tra, giáo viên cần có nhận xét ưu, khuyết điểm để học sinh biết được những thiếu sót của mình để kịp thời sửa chữa, khắc phục, đồng thời động viên các em cố gắng hơn. 2.6. Chuẩn bị môi trường dạy học Đây là một vấn đề mà các nhà trường cũng như giáo viên ít quan tâm. Tạo ra một môi trường dạy học tốt sẽ giúp học sinh có sự tập trung cao độ để học tập có hiệu quả. Căn cứ vào nội dung bài học, chủ đề giáo dục mà giáo viên chuẩn bị (hoặc có thể giao cho học sinh chuẩn bị) các đồ dùng, phương tiện… phù hợp với nội dung bài học hay chủ đề giáo dục đó như trang trí lớp học, tạo môi trường ngôn ngữ, phòng học bộ môn… 2.7. Lập hồ sơ môn học Hồ sơ môn học gồm: - Chương trình môn học - kế hoạch giảng dạy - kế hoạch bài dạy/ giáo án - các loại sổ theo quy định (sổ điểm, sổ dự giờ…). - Các tài liệu liên quan. - Kết quả học tập của học sinh sau mỗi học kỳ, mỗi năm học. - Ý kiến phản hồi của học sinh sau mỗi học kỳ, mỗi năm học. - Ý kiến của đồng nghiệp sau khi dự giờ. - Ý kiến đánh giá của giáo viên sau khi dạy xong môn học. - Mẫu các loại bài kiểm tra. - Một số bài kiểm tra (thi) của học sinh. Hồ sơ môn học của giáo viên được cập nhật sau mỗi năm học và phải đổi mới sau mỗi năm. BƯỚC 3. ĐÁNH GIÁ, CẢI TIẾN 3.1. Ghi chép, đánh giá Ghi chép lại diễn biến của việc thực thi chương trình giáo dục - Để lựa chọn nội dung đào tạo, chiến lược dạy học, thiết kế kế hoạch tổ chức dạy học. Trong và sau khi thực hiện chương trình giáo dục, quá trình dạy học, giáo viên cần ghi chép các thông số, số liệu, đặc biệt chú ý ghi chép các mặt được, chưa được trong quá trình thực hiện chương trình giáo dục. Sự ghi chép này là cần thiết trong toàn bộ quá trình đánh giá và bao trùm toàn bộ các hoạt động của chương trình giáo dục, từ khâu phân tích nhu cầu, cho đến khâu lập kế hoạch, thực thi…. Bên cạnh đó, giáo viên cần ghi chép các ý kiến nhận xét của đồng nghiệp, của cán bộ thanh tra, của học sinh, phụ huynh học sinh… (như đã nói trong mục 2.3.). Đây sẽ là nguồn thông tin quan trọng giúp giáo viên đánh giá hiệu quả của việc thực hiện chương trình giáo dục, trên cơ sở đó có kế hoạch điều chỉnh, cải tiến cho các năm học tiếp theo. Từ những thông tin thu thập được thông qua quá trình ghi chép nói trên, giáo viên đối chiếu với mục tiêu kế hoạch, mục tiêu dạy học/giáo dục để thấy được hiệu quả của việc thực hiện chương trình, xác định sự sai biệt giữa thực hiện và chuẩn. 3.2. Xây dựng kế hoạch cải tiến chương trình. Từ việc đánh giá quá trình thực hiện chương trình giáo dục/dạy học, trên cơ sở nhận thức được những mặt mạnh, mặt còn hạn chế, giáo viên xây dựng cho mình kế hoạch điều chỉnh, cải tiến cho việc thực hiện chương trình cho các năm học tiếp theo. Kế hoạch điều chỉnh phải chỉ rõ được: - Những hạn chế yếu kém đó là gì ? 11 - Nguyên nhân của các hạn chế, yếu kém đó - Hướng khắc phục, biện pháp khắc phục - Các điều kiện để khắc phục (về phía cán bộ quản lý, bản thân giáo viên, học sinh, các điều kiện về cơ sở vật chất…). Để bắt đầu một chu trình mới, giáo viên cần nghiên cứu, tìm hiểu kỹ những thành công cũng như những hạn chế của quá trình thực hiện, thấy được nguyên nhân của những hạn chế để có kế hoạch khắc phục cho chu trình tiếp theo. 12 Thiết kế chương trình giảng dạy: phương hướng, mục đích và những lưu ýTrong khi nền giáo dục đang ngày càng được tiêu chuẩn hóa, người ta cũng quan tâm đến chương trình giảng dạy nhiều hơn, đặc biệt là đội ngũ giáo viên. Họ muốn đối chiếu chương trình giảng dạy của mình với tiêu chuẩn quốc gia, tiêu chuẩn của bang hoặc thậm chí với chương trình giảng dạy của các giáo viên dạy cùng chuyên môn và cùng cấp lớp. Xây dựng và thiết kế chương trình Thiết kế chương trình giảng dạy là một quá trình tư duy giúp giáo viên hiểu rõ những nội dung họ dạy trên lớp và đánh giá kết quả học tập. Hầu hết việc thiết kế các chương trình giảng dạy được trình bày dưới dạng bảng hoặc ma trận. Chương trình giảng dạy và giáo án Không nên nhầm lẫn chương trình giảng dạy với giáo án. Giáo án là phác thảo chi tiết những gì giáo viên sẽ dạy bao gồm cả phương pháp dạy và những phương tiện dạy học được sử dụng trong giờ dạy. Hầu hết các giáo án được viết cho một khoảng thời gian ngắn, chẳng hạn như một ngày hoặc một tuần. Trái lại, chương trình giảng dạy cung cấp một bản kế hoạch tổng quan dài hạn về những gì sẽ được giảng dạy. Chương trình giảng dạy cũng có thể được viết cho cả một năm học. Mục đích Trong khi nền giáo dục đang ngày càng được tiêu chuẩn hóa, người ta cũng quan tâm đến chương trình giảng dạy nhiều hơn, đặc biệt là đội ngũ giáo viên. Họ muốn đối chiếu chương trình giảng dạy của mình với tiêu chuẩn quốc gia, tiêu chuẩn của bang hoặc thậm chí với chương trình giảng dạy của các giáo viên dạy cùng chuyên môn và cùng cấp lớp. Một chương trình giảng dạy hoàn chỉnh cho phép giáo viên phân tích hoặc giảng dạy những điều mà chính họ hoặc người khác đã kiểm chứng. Các chương trình giảng dạy cũng có thể được sử dụng như một công cụ nhằm định hình việc dạy học trong tương lai. Ngoài việc hỗ trợ quá trình tư duy và giao tiếp của giáo viên, việc thiết kế chương trình giúp cải tiến đồng bộ các cấp lớp, do đó tăng khả năng bám sát chương trình hoặc đạt kết quả tốt ở học sinh. Ví dụ, nếu tất cả các giáo viên trong một chương trình trung học cơ sở thiết kế một chương trình cho môn Toán, giáo viên của mỗi lớp có thể tham khảo chương trình của nhau và xác định những lĩnh vực mà họ có thể cải thiện. Điều này cũng rất tốt cho việc giảng dạy tích hợp liên môn. Chương trình giảng dạy có tính hệ thống Mặc dù mỗi giáo viên có thể tự viết chương trình cho bộ môn và lớp mà họ dạy, việc thiết kế chương trình giảng dạy hiệu quả nhất vẫn phải đặt trong một hệ thống. Nói cách khác, cần phải có một chương trình giảng dạy thống nhất trong toàn trường để đảm bảo sự liên tục của việc giảng dạy. Phương pháp tiếp cận hệ thống này nên có sự hợp tác của tập thể giáo viên trong trường. Lợi ích chính của việc thiết kế chương trình có hệ thống là sự cải tiến theo chiều ngang, chiều dọc của bộ môn và tích hợp liên môn:
Lưu ý Những lời khuyên dưới đây sẽ có ích cho bạn trong quá trình thiết kế chương trình giảng dạy:
Tác giả: Karen Schweitzer Đặng Thanh Hiền dịch Những yếu tố cần xác định trước khi lập kế hoạch giảng dạyMuốn lập kế hoạch giảng dạy tốt, bài bản, đầu tiên, cần xác định các yếu tố quan trọng sau:
Thực hiện tuần tự 3 yếu tố để định hướng việc học ngay từ ban đầu. Khi chỉ định được các mục tiêu cụ thể cho việc học. Giáo viên cũng sẽ xác định được bản thân phải dạy những gì, hoạt động nào sẽ được thực hiện trên lớp. Và cuối cùng là đánh giá lại mức độ tiếp thu kiến thức của học sinh, sinh viên sau khi học xong. Bất kỳ kế hoạch dạy học nào cũng cần phải được biên soạn dựa trên 3 yếu tố quan trọng này. Kế hoạch bài học so với kế hoạch bài họcSự khác nhau giữa kế hoạch bài dạy và kế hoạch bài học là một kế hoạch bài học tập trung về cơ bản các mục tiêu của một bài học cụ thể và phương pháp giảng dạy như thế nào để đạt được mục tiêu đó. Một kế hoạch đơn vị, mặt khác, bao gồm một khu vực rộng lớn hơn; một đơn vị có thể bao gồm nhiều bài học. Một kế hoạch bài học bao gồm các mục tiêu được chia nhỏ theo các bài học, phác thảo nội dung dự kiến bao gồm và các tài liệu tham khảo chéo, vv Một kế hoạch bài học được thực hiện trong một lớp do giáo viên thực hiện, trong khi đó kế hoạch bài học áp dụng cho nhiều giáo viên, và những người đóng vai trò hành chính trong một trường học và có hiệu quả cho một học kỳ. Kế hoạch bài học là gì?Một kế hoạch bài học được chuẩn bị bởi giáo viên thực hiện một bài học cho sinh viên để đảm bảo bài học đạt được mục tiêu và việc học tập diễn ra hiệu quả. Một kế hoạch bài học bao gồm các mục tiêu bài học, các vấn đề dự đoán từ học sinh, phân bổ thời gian cho từng nhiệm vụ trong bài học, các loại hình hoạt động và tương tác xảy ra trong các hoạt động như sinh viên, giáo viên và tài liệu sẽ được sử dụng cho bài học, vv Ngoài ra, một kế hoạch bài học cũng có thể bao gồm các mục đích cá nhân tập trung vào sự phát triển cá nhân của giáo viên. Một bài học được lên kế hoạch tốt cũng có thể bao gồm một kế hoạch hội đồng sẽ được hiển thị trong lớp để học sinh ghi lại. Vì vậy, rõ ràng là một kế hoạch bài học mở đường cho giáo viên thực hiện bài học được tổ chức tốt trước. Không chỉ điều quan trọng là đảm bảo rằng các mục tiêu đã đạt được và việc học tập có hiệu quả diễn ra trong lớp học mà còn việc lập kế hoạch bài học rất quan trọng cho sự phát triển cá nhân của giáo viên. Hơn nữa, một kế hoạch bài học cuối cùng sẽ được kết nối với các mục tiêu của đơn vị. |