Tiêu trong tiếng Hán nghĩa là gì

Tiêu trong tiếng Hán nghĩa là gì
(Hình minh họa)

Theo TS. Hồ Xuân Tuyên, hiện tượng mượn tiếng nước ngoài để làm phong phú thêm tiếng nước ta là chuyện không lạ của mọi ngôn ngữ trên thế giới. Tiếng Việt cũng không nằm ngoài quy luật này. Gần một nghìn năm bị phong kiến phương Bắc đô hộ, nhưng tiếng Việt của chúng ta đã có một sức sống mãnh liệt, không bị đồng hóa, mà ngược lại, chúng ta đã mượn ngôn ngữ Hán để phát triển ngôn ngữ Việt của mình và vẫn giữ được bản sắc dân tộc.

Bác Hồ đã từng căn dặn: Tiếng ta còn thiếu, nên nhiều lúc phải mượn tiếng nước khác, nhất là tiếng Trung Quốc. Nhưng phải có chừng có mực. (...) Chúng ta không chống mượn tiếng ngoại quốc để làm cho tiếng ta đầy đủ thêm. Nhưng chúng ta phải chống cách mượn không phải lối, mượn đến nỗi bỏ cả tiếng ta, đến nỗi quần chúng không hiểu(1). Cùng với phê phán một số người sính chữ Hán một cách vô lối (ví dụ: không nói mà nói ...), thì Người cũng cho rằng Nhưng sẽ tả quá nếu những chữ Hán đã hóa thành tiếng ta, ai cũng hiểu, mà cố ý không dùng. Thí dụ: mà nói , thì nói . Thế cũng là tếu.

Trong quá trình tiếp biến, có nhiều từ Hán sau khi được Việt hóa trở nên thông dụng, không còn là nghĩa gốc (thậm chí trái nghĩa với nguyên gốc), nhưng chúng ta vẫn chấp nhận. Ví dụ, từ nguyên nghĩa là khi nói đến những người lâm vào cảnh nghèo khổ, bần cùng, bí bách (tác phẩm của Victor Hugo, trong thời kỳ đầu dịch sang tiếng Việt có tên là ), nhưng theo thời gian, chúng ta lại sử dụng từ khốn nạn nhằm ám chỉ sự . Hoặc, cụm từ nguyên nghĩa tiếng Hán nhằm nói ( là ), thì chúng ta đã Việt hóa để hiểu là ...

Tuy nhiên, ngoài những từ đã hoàn toàn Việt hóa, chuyển nghĩa và trở nên phổ biến, vẫn còn khá nhiều từ Hán Việt mà chúng ta đã và đang vô tình sử dụng không chuẩn. Đã có nhiều công trình nghiên cứu của các chuyên gia ngôn ngữ học về lịch sử, tính tiếp biến, những vấn đề cần lưu ý trong sử dụng từ Hán Việt... ở đây xin dẫn lại 2 hình thức sai điển hình mà hiện nay không ít phương tiện báo chí - truyền thông thường mắc phải.

Sai vì sử dụng thừa, lặp từ. Ví dụ: (hậu đã có nghĩa là phía sau); (vị nghĩa là chưa tới, trẻ em - trẻ con thì đương nhiên chưa tới thành niên, vì thế, đã viết trẻ em thì không thêm vị thành niên); S (giang là sông, hà cũng có nghĩa là sông, đã viết sông Đà thì thôi Đà Giang, sông Hồng thì thôi Hồng hà)...

Có thể liệt kê hàng loạt ví dụ khác như: ; ; bình an; toàn thể ta; : ...

Sai vì thói quen và không hiểu nghĩa. Ví dụ: là (khi nói có thể hiểu là ) còn là (mại dâm), nhưng vẫn có những bài báo lẫn lộn giữa mua và bán (khuyến mãi thì viết thành khuyến mại; mãi dâm- đối tượng đi thành mại dâm - đối tượng đi ...)

Thậm chí, đã có bài báo, văn bản viết là phải khắc phục cho được những biểu hiện trước khó khăn của cơ sở..., mà không hiểu rằng là thuật ngữ chỉ một bộ phận của cơ thể của con người, còn mới là từ Hán Việt mang nghĩa là

Tương tự, viết/nói là đúng, nhưng nhiều người lại sửa thành ; lại viết thành ; viết thành ; viết thành thànhlẫn lộn giữa

Mặc dù với người dễ tính thì những điều chưa đúng nêu trên vẫn có thể chấp nhận được! Tuy nhiên, rất nên chấn chỉnh đối với những lỗi cơ bản - khi nó chưa trở thành cái phổ biến trong cách hiểu của mọi tầng lớp nhân dân. Nhà ngôn ngữ học người Pháp gốc Thuỵ Sĩ Charles Bally từng viết: Ngôn ngữ ngày mai được chuẩn bị trong một loạt những cái sai của ngôn ngữ ngày hôm nay. Điều này có nghĩa là những cách nói sai hiện nay nếu không chấn chỉnh kịp thời thì sẽ trở thành những cách nói đúng trong tương lai!./.

________________________

(1) Hồ Chí Minh: , Nxb. Chính trị quốc gia, H, 1995, t.5, tr.299.

Minh Triết