Tình hình thế giới và khu vực năm 2022

Với tinh thần “Đoàn kết - Dân chủ - Kỷ cương - Sáng tạo - Phát triển”, với ý thức trách nhiệm cao trước Đảng, Nhà nước và Nhân dân, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã diễn ra và thành công tốt đẹp. Đây là sự kiện chính trị trọng đại nhất của đất nước trong 5 năm qua và được diễn ra trong thời điểm và tình hình thế giới, khu vực và trong nước rất đặc biệt. Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay. Với tầm nhìn và khát vọng của dân tộc, niềm tin của nhân dân, Đại hội đã đề ra Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021-2030. Chiến lược được triển khai trong tình hình thế giới và khu vực có nhiều thời cơ, thuận lợi và thách thức, khó khăn lớn, đan xen nhau tác động mạnh mẽ đến việc thực hiện Chiến lược.

1. Thời cơ, thuận lợi

Tình hình thế giới và khu vực hiện nay đang có nhiều thời cơ và thuận lợi lớn cho việc thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Trước hết, đặc điểm lớn của thế giới trong những năm tới là “hoà bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn”(1). Đây là thời cơ và thuận lợi lớn nhất đối với việc thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021-2030 cũng như đối với sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Xu thế hoà bình, hợp tác và phát triển trên thế giới trong những năm tới là nhận định lớn của Đảng về tình hình thế giới, khái quát xu hướng chủ đạo, quan trọng và xuyên suốt những năm qua của thế giới. Điều này được Đảng và Nhà nước ta đánh giá và đúc kết trên cơ sở phân tích, nghiên cứu diến biến, tình hình quan hệ quốc tế trong suốt những năm cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI.

Nhìn lại thế giới từ sau khi Chiến tranh lạnh kết thúc, trật tự thế giới hai cực tan rã, quá trình hình thành trật tự thế giới mới diễn biến rất phức tạp, biểu hiện qua cuộc đấu tranh không khoan nhượng giữa các nước, trước hết là giữa các nước lớn. Mỹ với sức mạnh nổi trội về kinh tế, chính trị, quân sự vẫn đang thực hiện chủ nghĩa đơn phương, theo đuổi mục tiêu thiết lập trật tự thế giới đơn cực do Mỹ chi phối và khống chế. Bên cạnh đó, xu thế đa cực cũng đang được thúc đẩy hình thành với sự nỗ lực của các nước lớn như Nga, Trung Quốc, Nhật Bản, Liên minh châu Âu... “Cục diện thế giới tiếp tục biến đổi theo xu hướng đa cực, đa trung tâm; các nước lớn vẫn hợp tác, thoả hiệp, nhưng đấu tranh, kiềm chế lẫn nhau gay gắt hơn”(2). Bên cạnh đó, các quốc gia độc lập ngày càng tăng cường cuộc đấu tranh để tự lựa chọn và quyết định con đường phát triển của mình. Nhiều nước đang tích cực đấu tranh cho một thế giới bình đẳng, công bằng với sự đề cao vai trò của các tổ chức quốc tế lớn như Liên hợp quốc và sự tôn trọng luật pháp quốc tế trong quan hệ quốc tế. Các xu thế trên đan xen nhau. Tuy nhiên, cho dù hướng tới mục tiêu nào, các nước đều mong muốn và cố gắng duy trì hoà bình, duy trì hình thức quan hệ theo dạng vừa hợp tác, vừa đấu tranh, kiềm chế lẫn nhau, tránh đối đầu quân sự trực tiếp. Các hình thức quan hệ hợp tác - đấu tranh ngày càng trở nên đa dạng, không theo khuôn mẫu nào và được biến đổi linh hoạt theo từng loại vấn đề, từng đối tượng, khu vực, từng thời điểm cụ thể.

Hợp tác và phát triển đang trở nên phổ biến trong đời sống chính trị quốc tế. Hợp tác quốc tế, liên kết khu vực, liên kết quốc tế về kinh tế, thương mại, khoa học kỹ thuật và nhiều lĩnh vực khác vì mục đích phát triển đang lôi cuốn ngày càng nhiều quốc gia tham gia. Trong xu thế quốc tế hóa và toàn cầu hóa đang diễn ra mạnh mẽ, cách mạng khoa học kỹ thuật ngày càng phát triển, mỗi quốc gia không thể sống biệt lập và không thể phát triển nếu không có chính sách liên kết, hợp tác với các quốc gia và tổ chức khác trong cộng đồng thế giới.

Trên cơ sở phân tích tình hình thế giới trong suốt thế kỷ XX và những năm đầu thế kỷ XXI, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX (tháng 4.2001), Đảng ta nhận định khái quát về các đặc điểm chủ yếu của thế giới trong những thập niên đầu của thế kỷ XXI, trong đó khẳng định “hoà bình, hợp tác và phát triển là xu thế lớn, phản ánh đòi hỏi bức xúc của các quốc gia, dân tộc”(3). Nhận thức và dự báo đúng đắn xu thế hòa bình, hợp tác và phát triển trên thế giới và khu vực cho phép chúng ta tập trung sức vào nhiệm vụ trung tâm là phát triển kinh tế.

Sự kiện tấn công khủng bố nhằm vào nước Mỹ ngày 11.9.2001 và những diễn biến quốc tế vào những năm tiếp theo như cuộc chiến ở Afganixtan, chiến tranh Iraq, căng thẳng trong quan hệ Mỹ - Iran, Mỹ - Bắc Triều Tiên, xung đột ở Syria, Yemen, ở Ucraina, khu vực Trung Á, Đông Nam Á... đã tác động sâu sắc đến tình tình thế giới. Tuy nhiên, qua phân tích diễn biến tình hình, Đảng và Nhà nước ta vẫn khẳng định xu thế chủ đạo của thế giới vẫn là hoà bình, hợp tác và phát triển. Hội nghị Trung ương IX khóa IX (họp tháng 1.2004) đánh giá bối cảch tình hình thế giới và khu vực trong gần 3 năm (2001-2004) như sau:“Tình hình thế giới diễn biến rất phức tạp sau sự kiện 11.9.2001 ở Mỹ; các hoạt động khủng bố và chống khủng bố trở thành vấn đề thời sự nóng bỏng toàn cầu... Các nước lớn vừa đấu tranh vừa thỏa hiệp, nhân nhượng lẫn nhau... Tuy nhiên, hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn của thế giới, là đòi hỏi bức xúc của các quốc gia, dân tộc”(4). Và khi xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm 2006 - 2010, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng (tháng 4.2006) lại một lần nữa khẳng định: “Hoà bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế chủ đạo”(5). Văn kiện Đại hội XI, XII (2011 và 2016) của Đảng đều nhấn mạnh: “Hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn”(6).

Thứ hai, “toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế tiếp tục tiến triển”(7) là một thuận lợi nữa đối với việc thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021-2030. Toàn cầu hóa thường được nhìn nhận từ góc độ phát triển kinh tế, thương mại và tài chính nhờ sự tiến bộ của khoa học và công nghệ. Từ kinh tế, toàn cầu hóa lan rộng ra các lĩnh vực khác của cuộc sống. Toàn cầu hoá kinh tế là một xu thế khách quan, đang lôi cuốn ngày càng nhiều nước tham gia. Đây vừa là quá trình hợp tác để phát triển, vừa là quá trình đấu tranh giữa các nước để bảo vệ lợi ích quốc gia. Trong xu thế toàn cầu hóa, tự do hóa kinh tế và cải cách thị trường diễn ra phổ biến. Các nền kinh tế dựa vào nhau, liên kết với nhau, xâm nhập lẫn nhau, khiến cho tính tuỳ thuộc lẫn nhau giữa các nước ngày càng tăng. Toàn cầu hoá thúc đẩy hợp tác, phân công lao động quốc tế và tăng trưởng kinh tế. Các hình thức hợp tác, liên kết kinh tế trở nên nhiều vẻ và rất phong phú về nội dung, tạo điều kiện phát triển giao lưu văn hoá và tri thức quốc tế, tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau và tình hữu nghị giữa các dân tộc.

Những thành tựu to lớn trong khoa học - công nghệ, thông tin - truyền thông đã tạo ra cơ hội mới cho sự phát triển kinh tế, thúc đẩy phát triển những hình thức kinh doanh mới như thương mại điện tử, kinh doanh điện tử, ngân hàng điện tử… Tuy nhiên, điều đó cũng đòi hỏi các nước phải thường xuyên đổi mới phương thức quản lý, tăng cường cơ sở hạ tầng thông tin, đổi mới công nghệ, hoàn thiện hệ thống pháp lý, đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực…

Tuy nhiên, xu thế toàn cầu hóa đang bị một số nước phát triển và các tập đoàn tư bản xuyên quốc gia chi phối, vừa có mặt tích cực, vừa có mặt tiêu cực, vừa có hợp tác, vừa có đấu tranh. Để phát huy những mặt tích cực và hạn chế tối đa ảnh hưởng tiêu cực của toàn cầu hoá, chúng ta cần chủ động tham gia vào quá trình hội nhập quốc tế.

Thứ ba, “cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, nhất là công nghệ số phát triển mạnh mẽ, tạo đột phá trên nhiều lĩnh vực, tạo ra cả thời cơ và thách thức đối với mọi quốc gia dân tộc”(8). Cùng với toàn cầu hoá kinh tế, nền kinh tế thế giới cũng đang có bước chuyển đổi về cơ cấu và hướng tới nền kinh tế tri thức. Xu thế phát triển kinh tế tri thức tác động mạnh mẽ đến tất cả các quốc gia, dân tộc tạo ra những thay đổi căn bản không chỉ trong đời sống kinh tế - xã hội, mà cả trong so sánh lực lượng cũng như ngôi vị của mỗi quốc gia trên trường quốc tế.

Việc ứng dụng các thành tựu của khoa học công nghệ vào sản xuất, nhất là những ngành công nghệ mũi nhọn như công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu đang và sẽ là nền tảng của sự tăng trưởng kinh tế. Khoa học và công nghệ đang trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, thúc đẩy sự phát triển kinh tế tri thức, làm chuyển dịch nhanh cơ cấu kinh tế và biến đổi sâu sắc các lĩnh vực của đời sống xã hội. Tỷ trọng GDP của các ngành nghề đòi hỏi hàm lượng tri thức cao ngày càng lớn. Khoa học và công nghệ ngày càng thể hiện rõ là yếu tố quan trọng quyết định sức mạnh của mỗi quốc gia. Vai trò của các yếu tố khác như nguồn tài nguyên thiên nhiên, giá lao động rẻ ngày càng trở nên ít quan trọng hơn. Trong khi đó, nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn, có năng lực sáng tạo, ngày càng có ý nghĩa quyết định trong nền kinh tế tri thức. Thế giới đang trong quá trình chuyển từ nền văn minh công nghiệp sang thời đại thông tin, từ nền kinh tế dựa vào các nguồn lực tự nhiên sang nền kinh tế dựa vào tri thức.

Nền kinh tế tri thức đòi hỏi đẩy nhanh chu trình luân chuyển vốn, rút ngắn chu trình đổi mới công nghệ và sản phẩm. Lợi thế cạnh tranh thuộc về các doanh nghiệp nắm bắt và sử dụng các công nghệ mới để tạo ra các sản phẩm và dịch vụ mới, đáp ứng nhu cầu đa dạng và luôn thay đổi của khách hàng. Các quốc gia tiên tiến trên thế giới đang điều chỉnh cơ cấu kinh tế theo hướng tăng nhanh các ngành công nghiệp và dịch vụ có hàm lượng công nghệ cao, công nghệ thân thiện với môi trường, ưu tiên đào tạo nguồn nhân lực khoa học công nghệ trình độ cao, tăng mức đầu tư cho nghiên cứu và đổi mới công nghệ… Kinh tế tri thức giúp cho các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam cơ hội rút ngắn khoảng cách với các nước phát triển, nâng cao vị thế của mình. Tuy nhiên, kinh tế tri thức cũng đặt ra nhiều vấn đề mới như phải chuẩn bị về nguồn nhân lực, nâng cao trình độ làm chủ tri thức, thông tin, điều chỉnh các quy định về pháp lý, giải quyết tốt vấn đề bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, tăng cường cơ sở hạ tầng thông tin, nắm bắt nhanh nhạy, thích nghi tốt với sự thay đổi nhanh chóng của các điều kiện kinh doanh trên thị trường thế giới… Nếu không, chúng ta sẽ phải đối diện với nguy cơ tụt hậu xa hơn với các nước trong cộng đồng quốc tế.

Có thể nói, trong thế kỷ XXI khoa học và công nghệ sẽ có bước nhảy vọt, kinh tế tri thức có vai trò ngày càng nổi bật trong quá trình phát triển của lực lượng sản xuất và đó sẽ là thuận lợi quan trọng cho sự phát triển của đất nước chúng ta nếu chúng ta biết nắm bắt thời cơ này.

Thứ tư, bên cạnh những thời cơ, thuận lợi trong bối cảnh chung của toàn thế giới, trong khu vực chúng ta - khu vực châu Á - Thái Bình Dương, khu vực Đông Nam Á - cũng đang có nhiều thuận lợi cho việc thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021-2030. Đảng và Nhà nước ta nhận định: “Khu vực châu Á - Thái Bình Dương, trong đó Đông Nam Á có vị trí chiến lược ngày càng quan trọng, là khu vực cạnh tranh gay gắt giữa các cường quốc, tiềm ẩn nhiều bất ổn… ASEAN có vai trò quan trọng trong duy trì hoà bình, ổn định, thúc đẩy hợp tác khu vực nhưng cũng đứng trước nhiều khó khăn”(9). Châu Á - Thái Bình Dương là khu vực rộng lớn với diện tích hơn 55 triệu km2, dân cư hơn 2,5 tỷ người, cư trú trên khoảng 1/5 diện tích lục địa thế giới. Khu vực này gồm hơn 30 nước và vùng lãnh thổ, rất đa dạng về diện tích, dân số, thể chế chính trị, trình độ phát triển, văn hoá, tôn giáo, vai trò trong quan hệ quốc tế. Đặc biệt, trong khu vực có 3 trung tâm kinh tế lớn của thế giới, đó là Mỹ, Nhật Bản và Trung Quốc. Hợp tác khu vực diễn ra sôi động trên nhiều tầng nấc từ liên khu vực đến hợp tác theo nhóm nước và song phương, từ chủ yếu trong lĩnh vực kinh tế mở rộng ra các lĩnh vực chính trị, an ninh. Trong khu vực cũng đang có hai tổ chức quốc tế lớn có sự tham gia của Việt Nam và đang hoạt động rất hiệu quả. Đó là tổ chức APEC - Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương - với 21 nền kinh tế thành viên, chiếm 39% dân số thế giới, 57% GDP toàn cầu. APEC đang khẳng định vị thế là diễn đàn hợp tác kinh tế quy mô hàng đầu tại châu Á - Thái Bình Dương. Tổ chức ASEAN gồm 10 nước trong khu vực Đông Nam Á với diện tích gần 4,5 triệu km2 và dân số trên 600 triệu người đang trên đà phát triển với khả năng cạnh tranh mới. Tình hình đó tạo thuận lợi cho chúng ta trong hợp tác phát triển kinh tế.

2. Thách thức, khó khăn

Bên cạnh những thời cơ, thuận lợi, tình hình thế giới và khu vực hiện nay vẫn chứa đựng nhiều yếu tố phức tạp, khó lường tác động tiêu cực đến việc thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội.

Trước hết, mặc dù xu thế lớn hiện nay là hoà bình, hợp tác và phát triển nhưng tình hình an ninh - chính trị trên thế giới vẫn có nhiều diễn biến phức tạp. Quan hệ các nước trên thế giới đan xen giữa hợp tác và đấu tranh, giữa hoà bình và xung đột. Đảng và Nhà nước ta đã nhấn mạnh đến những yếu tố bất lợi của tình hình thế giới đòi hỏi chúng ta cần phải theo dõi, phân tích, đánh giá để chủ động trong hoạt động của mình. Bên cạnh xu thế hoà bình, hợp tác và phát triển trên thế giới và trong khu vực, Đảng ta chỉ rõ: “Hoà bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, song đang đứng trước nhiều trở ngại, khó khăn; cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, xung đột cục bộ tiếp tục diễn ra dưới nhiều hình thức, phức tạp và quyết liệt hơn, làm gia tăng rủi ro đối với môi trường kinh tế, chính trị, an ninh quốc tế… Chủ nghĩa dân tộc cực đoan, chủ nghĩa cường quyền nước lớn, chủ nghĩa thực dụng trong quan hệ quốc tế gia tăng. Các nước đang phát triển, nhất là các nước nhỏ đứng trước nhiều khó khăn, thách thức mới”.

Hợp tác và xung đột là hai mặt của đời sống chính trị quốc tế, có mối quan hệ biện chứng và tương hỗ lẫn nhau. Trong quá trình hợp tác quốc tế có thể nảy sinh sự xung đột và ngay trong khi xung đột cũng có thể có sự hợp tác nhất định giữa các yếu tố. Hợp tác và xung đột được coi là những yếu tố quan trọng nhất của hoạt động quốc tế và nó quyết định sự ổn định của hệ thống quốc tế. Sự khác nhau giữa xung đột và hợp tác không nên được tuyệt đối hoá, nhưng cũng không được đồng nhất chúng.

Đảng và Nhà nước ta nhận định xung đột vẫn tiếp tục diễn ra ở nhiều nơi với tính chất ngày càng phức tạp, trước hết, bởi vì các mâu thuẫn lớn của thời đại vẫn còn và rất gay gắt. Bên cạnh đó, những nguyên nhân trực tiếp dẫn đến xung đột vẫn còn và trở nên hết sức đa dạng. Đó có thể là nguyên nhân bên trong, có thể là nguyên nhân bên ngoài, có thể thuộc lĩnh vực này hay lĩnh vực khác. Nhiều nguyên nhân dẫn đến xung đột quốc tế được hình thành trong thời gian dài, hàng chục năm, thậm chí hàng trăm năm, và trong mỗi bước ngoặt của lịch sử lại được vận dụng đa dạng. Hợp tác, cạnh tranh, đấu tranh và sự tùy thuộc lẫn nhau giữa các nước, nhất là “các nước lớn vẫn hợp tác thỏa hiệp, nhưng đấu tranh, kiềm chế lẫn nhau gay gắt hơn”(10).

Trong khu vực của chúng ta, những xu hướng lớn của tình hình thế giới cũng được phản ánh rõ nét. Các nhân tố gây mất ổn định trong khu vực vẫn chưa mất đi hết. Đảng ta dự báo về khu vực châu Á - Thái Bình Dương “là khu vực cạnh tranh gay gắt giữa các cường quốc, tiềm ẩn nhiều bất ổn. Tranh chấp chủ quyền lãnh thổ, chủ quyền biển, đảo diễn ra căng thẳng, phức tạp, quyết liệt hơn”(11). Ở khu vực Đông Bắc Á, vấn đề hạt nhân của Bắc Triều Tiên vẫn chưa có tiến bộ rõ rệt. Quan hệ giữa Trung Quốc và Nhật Bản tuy đã được cải thiện nhưng những bất đồng vẫn chưa được giải quyết dứt điểm. Đặc biệt, trong quan hệ giữa hai nước vẫn còn một loạt vấn đề nhạy cảm, dễ dẫn đến những xung đột ở mức độ gay gắt hơn như các vấn đề liên quan đến ảnh hưởng và quyền lực trong khu vực, các vấn đề liên quan đến thời kỳ phát xít Nhật (chất độc hoá học, các cuộc tàn sát nhân dân, sách giáo khoa lịch sử, nô lệ tình dục, ngôi đền Yakusini…), vấn đề tăng cường tiềm lực quốc phòng, vấn đề tranh chấp vùng khai thác, thăm dò dầu khí, vấn đề tranh chấp thương mại…

Quan hệ Nhật Bản và Hàn Quốc cũng có nhiều bất ổn liên quan đến chủ quyền hòn đảo Đốc Đô (Dokdo - tiếng Hàn Quốc) hay Takeshima (tiếng Nhật Bản), vấn đề sách giáo khoa lịch sử, vấn đề tên gọi vùng biển giữa hai nước (Biển Đông hay Biển Nhật Bản). Trong quan hệ giữa Nhật Bản và Nga - một nước có phần lớn lãnh thổ ở khu vực này - vẫn chưa đạt được việc ký kết Hiệp ước hoà bình do tranh chấp chủ quyền nhóm 4 hòn đảo phía nam quần đảo Curil. Ngoài ra, vấn đề tuyên bố độc lập của Đài Loan cũng luôn là mối quan ngại của các nước trong khu vực, là nhân tố dễ gây mất ổn định.

Ở khu vực Đông Nam Á, “hoà bình, ổn định, tự do, an ninh, an toàn hàng hải, hàng không trên Biển Đông đứng trước thách thức lớn, tiềm ẩn nguy cơ xung đột”(12), thúc đẩy hợp tác khu vực ASEAN cũng đứng trước nhiều khó khăn. Tranh chấp về ảnh hưởng và quyền lực, về biên giới, lãnh thổ, biển đảo, tài nguyên giữa các nước cùng với những bất ổn kinh tế, chính trị, xã hội ở một số nước làm khu vực này dẽ rơi vào tình trạng mất ổn định. Tình hình bất ổn ở Myanmar hiện nay đang là nỗi quan ngại của các nước trong khu vực. Đặc biệt, những sự kiện trên chính trường Myanmar từ sau khi giới chức quân sự nước này bắt giam và kết tội các nhà lãnh đạo dân sự. Các cuộc biểu tình diễn ra ngày càng gay gắt và số người thiệt mạng trong các cuộc biểu tình ở Myanmar ngày càng gia tăng. Theo các nhà hoạt động nhân quyền quốc tế, cho đến nay ít nhất 550 người Myanmar đã thiệt mạng từ khi xảy ra đảo chính ngày 1.2.2021(12).

Bên cạnh đó, tranh chấp đảo, vùng lãnh hải, nguồn tài nguyên thiên nhiên ở Biển Đông diễn biến ngày càng phức tạp, nhất là khi Trung Quốc trong tham vọng kiểm soát Biển Đông, sẵn sàng đe dọa sử dụng vũ lực.

Thứ hai, các dân tộc trên thế giới trong đó có Việt Nam đang phải đối mặt với sự xuất hiện ngày càng nhiều những vấn đề toàn cầu gay gắt. Đó là tổng thể những vấn đề cấp bách mà từ nguyên nhân nảy sinh, phát triển đến phạm vi, quy mô tác động và việc khắc phục những hậu quả của nó liên quan trực tiếp đến từng con người đến tất cả các dân tộc, quốc gia, đến toàn nhân loại. Nguyên nhân của chúng là do sự phát triển như vũ bão của lượng sản xuất, khoa học, công nghệ dẫn đến sự phân bố lại các lực lượng xã hội trên quốc tế, là quá trình đấu tranh và hợp tác về quân sự, chính trị kinh tế giữa các quốc gia, dân tộc.

Ở Việt Nam, ngay từ năm 1991, trong “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội”, Đảng và nước ta đã xác định: “Nhân dân các nước đang đứng trước những vấn đề toàn cầu cấp bách có liên quan đến vận mệnh của loài người. Đó là gìn giữ hòa bình, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh, bảo vệ môi trường sống, hạn chế sự bùng nổ dân số, phòng ngừa và đẩy lùi bệnh tật hiểm nghèo”(14).

Kể từ đó đến nay, những vấn đề toàn cầu vẫn trong xu hướng gia tăng về số lượng, quy mô về tính chất, ảnh hưởng tiêu cực đến quá trình phát triển của các quốc gia. Đảng ta chỉ rõ: “Những vấn đề toàn cầu, như: bảo vệ hoà bình, an ninh con người, thiên tai, dịch bệnh, an ninh xã hội và an ninh phi truyền thống, nhất là an ninh mạng, biến đổi khí hậu, nước biển dâng, ô nhiễm môi trường,... tiếp tục diễn biến phức tạp”(15). Những nỗ lực chung của cộng đồng quốc tế nhiều năm qua đã đưa lại một số kết quả trong việc làm giảm thiểu hiệu ứng nhà kính, xử lý nguồn nước và rác thải, chữa trị các bệnh lây nhiễm HIV/AIDS, SARS, dịch cúm gia cầm... Nhưng, tính chất nghiêm trọng và phức tạp của những vấn đề toàn cầu tiếp tục đòi hỏi các nước phải tích cực phối hợp, hợp tác một cách hiệu quả thiết thực, cả trong khuôn khổ song phương cũng như đa phương.

Thứ ba, sự khủng hoảng, suy thoái nghiêm trọng của kinh tế thế giới. Những thách thức, khó khăn về kinh tế thế giới và khu vực cũng đòi hỏi chúng ta phải tính toán kỹ trong quá trình hoạch định và thực hiện các chính sách lớn của mình. Tương quan sức mạnh của các nền kinh tế và cục diện phát triển toàn cầu thay đổi với sự xuất hiện những liên kết mới. Vị thế của châu Á trong nền kinh tế thế giới đang tăng lên. Sự phát triển mạnh mẽ của một số nước khu vực trong điều kiện hội nhập và thực hiện các hiệp định tự do ngày càng sâu rộng, mở ra thị trường rộng lớn nhưng cũng tạo ra sự cạnh tranh quyết liệt. Quá trình tái cấu trúc các nền kinh tế và điều chỉnh các thể chế tài chính toàn cầu sẽ diễn ra mạnh mẽ, gắn với những bước tiến mới về khoa học, công nghệ và sử dụng tiết kiệm năng lượng, tài nguyên. Đặc biệt, trong hai năm gần đây 2020-2021, trong bối cảnh dịch Covid-19 đang hoành hành khắp nơi trên thế giới, nền kinh tế thế giới và khu vực đang tiềm ẩn những yếu tố bất trắc khó lường. Toàn cầu hoá kinh tế còn chứa đựng nhiều yếu tố bất bình đẳng, gây khó khăn, thách thức lớn cho các quốc gia, nhất là các nước đang phát triển. Đại hội lần thứ XIII của Đảng đã nêu rõ: “Kinh tế thế giới lâm vào khủng hoảng, suy thoái nghiêm trọng và có thể còn kéo dài do tác động của đại dịch Covid-19. Các quốc gia, nhất là các nước lớn, điều chỉnh lại chiến lược phát triển, giảm bớt sự phụ thuộc vào bên ngoài, làm thay đổi các chuỗi cung ứng. Cạnh tranh kinh tế, chiến tranh thương mại, tranh giành thị trường, các nguồn tài nguyên, công nghệ, nhân lực chất lượng cao, thu hút đầu tư nước ngoài giữa các nước ngày càng quyết liệt, tác động mạnh đến chuỗi sản xuất và phân phối toàn cầu”(16).

Các nước phát triển, mặc dù đang nắm ưu thế về vốn, khoa học và công nghệ, thị trường, song không thể khắc phục nổi những mâu thuẫn vốn có, đặc biệt là mâu thuẫn giữa tính xã hội hóa ngày càng cao của lực lượng sản xuất với chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản về tư liệu sản xuất, mâu thuẫn giữa các nước tư bản phát triển và các nước đang phát triển.

Có thể nhận thấy, thời cơ và thuận lợi, thách thức và khó khăn luôn đan xen, vận động biện chứng. Việc nắm bắt thời cơ, đẩy lùi thách thức trước hết phụ thuộc vào khả năng nhận thức, khả năng vạch định chính sách và tổ chức thực hiện của Đảng, Nhà nước và Nhân dân ta. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021-2030 mà Đảng ta đã đề ra trên Đại hội XIII chỉ có thể thực hiện thành công khi chúng ta tận dụng thời cơ, thuận lợi, đầy lùi thách thức, khó khăn. Với niềm tin tưởng sâu sắc vào đường lối, chính sách được đề ra trên Đại hội XIII của Đảng, chúng ta sẽ tiếp tục đạt được nhiều thành tựu quan trọng, toàn diện, góp phần tạo nhiều dấu ấn nổi bật, nâng cao vị thế, uy tín của Việt Nam trong khu vực và trên trường quốc tế./.

 ____________________________

(1), (2), (7), (8), (9), (10), (11), (12), (16), (17) Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. CTQG, T.1, tr.105, 106, 107.

(3) Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. CTQG, tr.66.

(4) Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Nghị quyết Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX, Nxb. CTQG, tr.13.

(5) Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. CTQG, tr.183.

(6) Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, tr.70.

(14) Brunei: Các lãnh đạo ASEAN sẽ họp về Myanmar - Tuổi Trẻ Online (tuoitre.vn)

(15) Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH, Nxb. Sự thật, tr.7.