Top 10 bài hát blues rock năm 2022

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

"True Blue"
Top 10 bài hát blues rock năm 2022
Đĩa đơn của Madonna
từ album True Blue
Mặt B

  • "Holiday"
  • "Ain't No Big Deal"

Phát hành17 tháng 9 năm 1986
Định dạng

  • CD
  • 7"
  • 12"

Thu âm1985
Thể loạiDance-pop
Thời lượng4:19
Hãng đĩa

  • Sire
  • Warner Bros.

Sáng tác

  • Madonna
  • Stephen Bray

Sản xuất

  • Madonna
  • Stephen Bray

Thứ tự đĩa đơn của Madonna
"Papa Don't Preach"
(1986)
"True Blue"
(1986)
"Open Your Heart"
(1986)
Audio sample

  • tập tin
  • trợ giúp

Video âm nhạc
"True Blue" trên YouTube

"True Blue" là một bài hát của là một bài hát của nghệ sĩ thu âm người Mỹ Madonna nằm trong album phòng thu thứ ba của cô cùng tên (1986). Nó được phát hành như là đĩa đơn thứ ba trích từ album vào ngày 17 tháng 9 năm 1986 bởi Sire Records và Warner Bros. Records. Bài hát được đồng viết lời và sản xuất bởi nữ ca sĩ với Stephen Bray, cộng tác viên quen thuộc trong khoảng thời gian đầu sự nghiệp của cô. Tương tự như phần còn lại của album, "True Blue" được lấy cảm hứng từ mối quan hệ tình cảm giữa Madonna với người chồng lúc bấy giờ Sean Penn. Đây là một bản dance-pop với một số ảnh hưởng từ nhạc doo-wop và sự kết hợp của nhiều loại cụ khác nhau như đàn guitar đệm, đàn phím, đàn tổng hợp và trống, mang nội dung đề cập đến cảm xúc về một tình yêu đích thực của một người phụ nữ.

Sau khi phát hành, "True Blue" nhận được những phản ứng tích cực từ các nhà phê bình âm nhạc, trong đó họ đánh giá cao giai điệu nhẹ nhàng, dễ dương mang hơi hướng hoài cổ của nó, đồng thời so sánh với một số tác phẩm vào thập niên 1960 của The Supremes và Martha and the Vandellas. Ngoài ra, bài hát cũng tiếp nhận những thành công vượt trội về mặt thương mại, đứng đầu các bảng xếp hạng ở Canada, Ireland và Vương quốc Anh, nơi nó giúp Madonna gặt hái đĩa đơn quán quân thứ ba trong sự nghiệp, đồng thời lọt vào top 10 ở hầu hết những quốc gia nó xuất hiện, bao gồm vươn đến top 5 ở những thị trường lớn như Úc, Bỉ, Hà Lan và New Zealand. Tại Hoa Kỳ, nó đạt vị trí thứ ba trên bảng xếp hạng Billboard Hot 100 trong ba tuần liên tiếp, trở thành đĩa đơn thứ chín của nữ ca sĩ vươn đến top 5 tại đây.

Video ca nhạc cho "True Blue" được đạo diễn bởi James Foley và giới thiệu một diện mạo mới của cô so với những video trước, với mái tóc vàng bạch kim gọn gàng và khỏe khắn. Một video khác được thực hiện thông qua cuộc thi "Make My Video" trên MTV với tác phẩm chiến thắng do Angel Gracia làm đạo diễn và chịu ảnh hưởng từ phong cách những năm 1950, mang nội dung liên quan đến cuộc gặp gỡ đầu tiên của một cô gái trẻ với anh chàng trong mộng của cô. Kể từ khi phát hành, "True Blue" đã được thể hiện trong một số chuyến lưu diễn của cô, bao gồm Who's That Girl World Tour (1987) và Rebel Heart Tour (2015-2016). Mặc dù gặt hái nhiều thành công về mặt chuyên môn và thương mại, nó đã không xuất hiện trong bất kỳ album tuyển tập nào của Madonna, ngoại trừ EP tổng hợp The Holiday Collection (1991).

Danh sách bài hát[sửa | sửa mã nguồn]

  • Đĩa 7" tại châu Âu[1]
  1. "True Blue" (phối lại) – 4:22
  2. "Holiday" (chỉnh sửa) – 3:50
  • Đĩa CD tại châu Âu[2]
  1. "True Blue" (The Color Mix) – 6:37
  2. "Holiday" – 6:10
  • Đĩa 7" tại Hoa Kỳ[3]
  1. "True Blue" – 4:16
  2. "Ain't No Big Deal" – 4:12
  • Đĩa 12" tại Anh quốc[4]
  1. "True Blue" (bản dance mở rộng) – 6:37
  2. "Holiday" (bản đầy đủ) – 6:08

Thành phần thực hiện[sửa | sửa mã nguồn]

Thành phần thực hiện được trích từ ghi chú của True Blue, Sire Records và Warner Bros. Records.[5]

  • Madonna – giọng hát, viết lời, sản xuất
  • Steve Bray – viết lời, sản xuất, trống, đàn phím
  • Bruce Gaitsch – đàn guitar đệm
  • Fred Zarr – đàn phím hỗ trợ
  • Steve Peck – kỹ sư
  • Shep Pettibone – phối lại
  • Herb Ritts – nhiếp ảnh
  • Jeri McManus – thiết kế ảnh bìa

Xếp hạng[sửa | sửa mã nguồn]

Chứng nhận[sửa | sửa mã nguồn]

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ “Madonna – True Blue (Remix/Edit)”. Discogs. Truy cập ngày 15 tháng 4 năm 2020.
  2. ^ “Madonna – True Blue”. Discogs. Truy cập ngày 15 tháng 4 năm 2020.
  3. ^ “Madonna – True Blue”. Discogs. Truy cập ngày 15 tháng 4 năm 2020.
  4. ^ “Madonna – True Blue”. Discogs. Truy cập ngày 15 tháng 4 năm 2020.
  5. ^ True Blue (Liner notes). Madonna. Warner Bros. Records. 1986. 925442-2.Quản lý CS1: khác (liên kết)
  6. ^ Kent, David (1993). Australian Chart Book 1970–1992. Australian Chart Book, St Ives, N.S.W. ISBN 0-646-11917-6.
  7. ^ "Austriancharts.at – Madonna – True Blue" (bằng tiếng Đức). Ö3 Austria Top 40. Truy cập 14 tháng 12 năm 2014.
  8. ^ "Ultratop.be – Madonna – True Blue" (bằng tiếng Hà Lan). Ultratop 50. Truy cập 14 tháng 12 năm 2014.
  9. ^ "Top RPM Singles: Tài liệu số 0859." RPM. Library and Archives Canada. Truy cập 14 tháng 12 năm 2014.
  10. ^ “RPM 100 Singles”. RPM. RPM Library Archives. Truy cập ngày 15 tháng 4 năm 2020.
  11. ^ “Europarade”. Hitkrant (bằng tiếng Hà Lan). 10 (42). 18 tháng 10 năm 1986. ISSN 0165-4942.
  12. ^ "Lescharts.com – Madonna – True Blue" (bằng tiếng Pháp). Les classement single. Truy cập 14 tháng 12 năm 2014.
  13. ^ "Offiziellecharts.de – Madonna – True Blue". GfK Entertainment Charts. Truy cập 14 tháng 12 năm 2014.
  14. ^ "The Irish Charts – Search Results – True Blue". Irish Singles Chart. Truy cập 14 tháng 12 năm 2014.
  15. ^ "Nederlandse Top 40 – Madonna" (bằng tiếng Hà Lan). Dutch Top 40. Truy cập 14 tháng 12 năm 2014.
  16. ^ "Dutchcharts.nl – Madonna – True Blue" (bằng tiếng Hà Lan). Single Top 100. Truy cập 14 tháng 12 năm 2014.
  17. ^ "Charts.nz – Madonna – True Blue". Top 40 Singles. Truy cập 14 tháng 12 năm 2014.
  18. ^ “Top 30 Poland”. LP3. 17 tháng 1 năm 1989. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 2 tháng 4 năm 2019. Truy cập ngày 17 tháng 7 năm 2018.
  19. ^ Salaverri, Fernando (tháng 9 năm 2005). Sólo éxitos: año a año, 1959–2002| (ấn bản 1). Spain: Fundación Autor-SGAE. ISBN 84-8048-639-2.
  20. ^ "Swedishcharts.com – Madonna – True Blue". Singles Top 100. Truy cập 14 tháng 12 năm 2014.
  21. ^ "Swisscharts.com – Madonna – True Blue". Swiss Singles Chart. Truy cập 14 tháng 12 năm 2014.
  22. ^ "Madonna: Artist Chart History". Official Charts Company. Truy cập 14 tháng 12 năm 2014.
  23. ^ "Madonna Chart History (Hot 100)". Billboard. Truy cập 14 tháng 12 năm 2014.
  24. ^ "Madonna Chart History (Adult Contemporary)". Billboard. Truy cập 14 tháng 12 năm 2014.
  25. ^ "Madonna Chart History (Dance Club Songs)". Billboard. Truy cập 14 tháng 12 năm 2014.
  26. ^ “Forum - ARIA Charts: Special Occasion Charts – Top 100 End of Year AMR Charts – 1980s”. Australian-charts.com. Hung Medien. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 15 tháng 4 năm 2020.
  27. ^ “Jaaroverzichten 1986” (bằng tiếng Hà Lan). Ultratop. Hung Medien. Truy cập ngày 15 tháng 4 năm 2020.
  28. ^ “Top 100 Singles of '86”. RPM. RPM Music Publications Ltd. 27 tháng 12 năm 1986. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 26 tháng 8 năm 2010.
  29. ^ “Die TOP Charts der deutschen Hitlisten”. Truy cập ngày 15 tháng 4 năm 2020.
  30. ^ “European Hot 100 Singles of the Year 1986” (PDF). Music & Media. ngày 27 tháng 12 năm 1986. Truy cập ngày 15 tháng 4 năm 2020.
  31. ^ “TOP – 1986” (bằng tiếng Pháp). Top-france.fr. Truy cập ngày 15 tháng 4 năm 2020.
  32. ^ “I singoli più venduti del 1986” (bằng tiếng Ý). Hit Parade Italia. Truy cập ngày 15 tháng 4 năm 2020.
  33. ^ “Single Top 100 1986” (PDF) (bằng tiếng Hà Lan). Dutch Top 40. Truy cập ngày 15 tháng 4 năm 2020.
  34. ^ “Jaaroverzichten – Single 1986” (bằng tiếng Hà Lan). Single Top 100. Hung Medien. Truy cập ngày 15 tháng 4 năm 2020.
  35. ^ “End of Year Charts 1986”. Recorded Music New Zealand. Truy cập ngày 15 tháng 4 năm 2020.
  36. ^ “Top 100 Singles”. Music Week. London, England: Spotlight Publications: 24. 24 tháng 1 năm 1987.
  37. ^ a b “1986: The Year in Music & Video” (PDF). Billboard. ngày 27 tháng 12 năm 1986. Truy cập ngày 15 tháng 4 năm 2020.
  38. ^ “ARIA Charts – Accreditations – 2001 singles”. Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Úc.
  39. ^ “France single certifications – Madonna – True Blue” (bằng tiếng Pháp). InfoDisc. Chọn Madonna và nhấn OK
  40. ^ “Japan certifications” (bằng tiếng Nhật). Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Nhật Bản.
  41. ^ Oricon Album Chart Book: Complete Edition 1970–2005. Roppongi, Tokyo: Oricon Charts. 2006. ISBN 4-87131-077-9.
  42. ^ “Britain single certifications – Madonna – True Blue” (bằng tiếng Anh). British Phonographic Industry. Chọn singles trong bảng chọn Format. Chọn Gold trong nhóm lệnh Certification. Nhập True Blue vào khung "Search BPI Awards" rồi nhấn Enter
  43. ^ Myers, Justin (16 tháng 8 năm 2017). “Madonna's Official Top 40 Biggest Selling Singles”. Official Charts Company. Truy cập ngày 10 tháng 9 năm 2017.
  44. ^ “American single certifications – Madonna – True Blue” (bằng tiếng Anh). Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Hoa Kỳ. Nếu cần, nhấn Advanced Search, dưới mục Format chọn Single rồi nhấn Search

Tài liệu[sửa | sửa mã nguồn]

  • Clerk, Carol (2002). Madonnastyle. Omnibus Press. ISBN 0-7119-8874-9.
  • Dean, Maury (2003). Rock 'n' Roll Gold Rush: A Singles Un-Cyclopedia. Algora Publishing. ISBN 0-87586-207-1.
  • Lewis, Lisa A. (1991). Gender Politics and MTV: Voicing the Difference. Temple University Press. ISBN 0-87722-942-2.
  • Marsh, Dave (1999). The heart of rock & soul: the 1001 greatest singles ever made. Da Capo Press. ISBN 0-306-80901-X.
  • McKeen, William (2000). Rock and Roll is Here to Stay: An Anthology. W. W. Norton & Company. ISBN 0-393-04700-8.
  • Metz, Allan; Benson, Carol (1999). The Madonna Companion: Two Decades of Commentary. Music Sales Group. ISBN 0-8256-7194-9.
  • Michael, Mick St. (2004). Madonna 'talking': Madonna in Her Own Words. Omnibus Press. ISBN 1-84449-418-7.
  • Morton, Andrew (2002). Madonna. Macmillan Publishers. ISBN 0-312-98310-7.
  • Parish, James Robert; Pitts, Michael R. (2003). Hollywood Songsters: Garland to O'Connor. Taylor & Francis. ISBN 0-415-94333-7.
  • Peach, Lucinda J. (1998). Women in culture: a women's studies anthology. Wiley-Blackwell. ISBN 1-55786-649-X.
  • Rooksby, Rikky (2004). The Complete Guide to the Music of Madonna. Omnibus Press. ISBN 0-7119-9883-3.
  • Taraborrelli, J. Randy (2002). Madonna: An Intimate Biography. Simon & Schuster. ISBN 0-7432-2880-4.
  • Voller, Debbie (1999). Madonna: The Style Book. Omnibus Press. ISBN 0-7119-7511-6.

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]

  • Lời bài hát tại MetroLyrics

100 bài hát nhạc rock hiện đại mà bạn phải nghe danh sách phát trên Spotify

Trong danh sách phát này, chúng tôi cung cấp cho bạn 100 bài hát nhạc rock hiện đại mà bạn phải nghe vào năm 2021. Những bài hát này đại diện cho các nghệ sĩ trong các thể loại nhạc rock Blues hiện đại được phát hành từ năm 2010 - hôm nay.

Hạm đội Greta Van

Nhóm nhạc rock của Michigan, Greta van Fleet gần đây đã phát hành album thứ hai của họ ‘Battle at Garden, s với hiệu suất biểu đồ quan trọng để được hoan nghênh. & NBSP; Nhóm có ba anh em: ca sĩ Josh Kiszka Jake Kiszka bassist/keyboardist Sam Kiszka Plus tay trống Daniel Wagner.

Con trai đối thủ

Các con trai đối thủ được thành lập vào năm 2009 tại Long Beach. Ban nhạc bao gồm Jay Buchanan (giọng hát chính), Scott Holiday (guitar), Dave Bestte (guitar bass) và Mike Miley (trống) họ được tham gia bởi bàn phím Todd Grazer. Ban nhạc đã ký hợp đồng với Atlantic Records thông qua nhãn hiệu của Dave Cobb, Low Country Sound.

Alabama lắc

Âm nhạc của các nhóm đã thành công lớn ở Hoa Kỳ kể từ đầu những năm 90 và đã bán được gần 1,5 triệu album. Alabama Shakes đã phát hành album đầu tay Boys & Girls với nhà sản xuất Andrija Tokic ở Nashville trong khi vẫn chưa được ký kết. Đĩa đơn ăn giữ trên mạng đã nhận được ba đề cử Grammy.

Các phím đen

The Black Keys được tạo ra vào năm 2001 bởi Dan Auerbach (guitar, giọng hát) và Patrick Carney (trống). Bộ đôi này đã hình thành một hành động độc lập ghi âm nhạc trong các tầng hầm và tự sản xuất các bản ghi âm của nó. Ban nhạc nổi lên như một trong những nghệ sĩ nhạc rock nhà để xe nổi tiếng nhất trong làn sóng thứ hai của sự hồi sinh thể loại vào những năm 2000. Bước đột phá thương mại của ban nhạc đến vào năm 2010 với anh em đã giành được ba giải Grammy cùng với việc thắt chặt đơn lẻ nổi tiếng của mình. & NBSP;

ELLE KING

Elle Schneider là một nghệ sĩ đa nhạc cụ và là con gái của Rob Schneider và London King. Phong cách âm nhạc của cô bao gồm nhạc rock, linh hồn và nhạc blues. Sinh ngày 3 tháng 7 năm 1989, cô đã phát hành album đầu tay Love Nội dung vào ngày 17 tháng 2 năm 2015. Album đã phát hành nó Top 10 đĩa đơn Ex Ex & OH, đã giành được hai giải Grammy.

Nathaniel Rateliff & The Night đổ mồ hôi

Nathaniel Rateliff là một ca sĩ người Mỹ cư trú tại Denver Colorado. Anh đã xuất bản ba album solo, hai EPS solo và một album là Nathanielrateliff và The Wheel. Ảnh hưởng của ông được mô tả là dân gian, Americana và Vintage Rhy tiết & Blues. Anh ấy đã thành lập nhóm hỗ trợ của mình có tên là Night Sweats cho một dự án bên R & B mà anh ấy đã giả mạo vào năm 2013.

Con sói

Nhóm nhạc rock Thụy Điển Wolver giới thiệu cho chúng tôi một siêu thị châm biếm về những gì nó giống như một nhóm nhạc rock và giấc mơ sự nghiệp của bạn trong thời hiện đại và. Wolver bao gồm một bộ ba kỳ lạ: nhân vật chính (giọng hát và guitar của người lãnh đạo), người cãi lộn (trống) và người quyến rũ (guitar).

Joe Bonamassa

Joseph Leonard Bonamassa là một tay guitar, ca sĩ và nhạc sĩ blues-rock người Mỹ. Năm 12 tuổi, anh bắt đầu sự nghiệp với việc mở cửa cho B.B. King. Kể từ cuối năm 2013, anh ấy đã phát hành các album solo 25 (!) Với hãng thu âm độc lập J & R Adventures, trong đó 11 album đã đạt vị trí số 1 trên bảng xếp hạng Billboard Blues. Album solo của anh đã nhận được đề cử giải Grammy 2013. Trong số các nghệ sĩ guitar, anh có một bộ sưu tập rộng rãi về guitar và bộ khuếch đại cổ điển. Anh ấy cũng được biết đến với việc chơi ở nhiều nghệ sĩ nhạc rock và nhạc rock đáng chú ý khác nhau.

Điều gì tốt hơn là chìm sâu vào giai điệu và nhịp điệu của một bản blues chậm? Chà, don sắt hỏi tôi.

Đó là lý do tại sao tôi tập hợp danh sách 10 bài hát blues chậm tuyệt vời này. Danh sách này bao gồm các bài hát từ các huyền thoại Blues đến các nghệ sĩ/ban nhạc chỉ với một vài album dưới vành đai của họ. Bài hát từ thập niên 60 đến 2000. Nhưng có một điều chắc chắn, mỗi người trong số này đều đáng nghe. Bắt đầu nào!

“Tôi sẽ chơi nhạc blues cho bạn - Daniel Castro

Treo bên ngoài các câu lạc bộ khi những người vĩ đại biểu diễn đã được đền đáp cho Fidel và anh ta xứng đáng nhận được một vị trí từ danh sách này. Kiệt tác Blues chậm hơn 7 phút này đã được giới thiệu trong album năm 1999 của anh ấy No No Surrender. Bản thân album này rất đáng để nghe mọi người hâm mộ Blues, nhưng nếu bạn khao khát Blues Slow, hãy chắc chắn rằng bạn sẽ cho tôi chơi nhạc blues cho bạn. Cả giọng hát và guitar liếm là tài liệu cấp cao nhất. when the greats performed has paid off for Castro and he deserves a place from this list. This over 7 minute slow blues masterpiece was featured on his 1999 album “No Surrender”. The album itself is worth listening to every blues fan, but if you crave slow blues, make sure you give “I’ll Play The Blues for You” a listen. Both the vocals and guitar licks are top-grade material.

"Một người đàn ông và nhạc blues - anh chàng bạn thân

Hit từ album phòng thu thứ hai của Buddy Guy, được phát hành vào năm 1968 mang tên album. Album này cũng bao gồm các bài hát tuyệt vời khác như Tiền Money (đó là những gì tôi muốn), và Sweet Sweet Angel, nhưng một người đàn ông và nhạc blues nổi bật khi nó là một trong những bài hát hay nhất mà anh chàng đã tự viết cho album này. Nó có một tác phẩm blues ủ rũ 6 phút và OH Boy là nó chậm. Nhưng về mặt tốt.

"Hơi bị treo trên" - Blues Delight

Quebec Quebec blues tốt nhất! Sau khi nghe tiếng hơi hơi bị treo trên phạm vi (và không biết cảnh Blues Quebec), nó rất khó để tranh luận! Năm nhạc sĩ blues có kinh nghiệm đã hợp nhất niềm đam mê của họ với blues và điều duy nhất tôi nghĩ là thiếu là nhiều bài hát hơn từ họ. Một chút hơi bị treo trên mạng là một bài hát thực sự đơn giản, nhưng nó đại diện cho những gì Slow Blues là tất cả. Cảm xúc, nhịp điệu hấp dẫn, và xây dựng những cây guitar. Tôi khuyên bạn nên cho bài hát này và album Blues của họ thích nghe một hoặc hai.Blues Delight states on their home page. After listening to “Slightly Hung Over” (and without knowing Quebec blues scene that well) it’s hard to argue! Five experienced blues musicians have united their passion for blues and the only thing I think is missing is more songs from them. “Slightly Hung Over” is a really simple song, but it represents what slow blues is all about. Emotion, catchy rhythm, and well build guitar licks. I recommend you give this song and their album Blues Delight a listen or two.

“Lo lắng xuống với The Blues” - Larry McCray

Tôi có thể tranh luận với tiêu đề album của McCray, sinh ra để chơi The Blues, bởi vì rõ ràng, Larry là. Chị gái của anh, Clara đã giới thiệu Larry với ba vị vua, nhưng Larry, chơi cũng bao gồm rất nhiều người chơi nhạc rock phân biệt anh với nhiều nghệ sĩ nhạc blues khác sử dụng ba vị vua như nguồn cảm hứng của họ. Lo lắng thất vọng với The Blues, là một ví dụ tuyệt vời về điều này. Anh ta sử dụng một lượng lợi nhuận và bụi bẩn hợp lý trên giai điệu guitar của mình, và ít nhất tôi sẽ nhớ những cú liếm bẩn của anh ấy trong một thời gian dài.Born to Play The Blues, because clearly, Larry was. His sister Clara introduced Larry to the Three Kings, but Larry’s playing also includes lots of rock-style licks that differentiate him from many other Blues Artists who use The Three Kings’ as their inspiration. “Worried Down With The Blues” is a great example of this. He uses a fair amount of gain and dirt on his guitar’s tone, and at least I will remember his “dirty” licks for a long time.

Tôi ghét những con chó blues này

Anh ấy có một giọng nói như một người hướng dẫn trường trung học Gate -Clarence Brown. Nhưng ở đó, không thể phủ nhận rằng, The Gatemouth đã tận dụng những cơ hội được trao cho anh ấy và đó là lý do tại sao chúng tôi có thể thưởng thức các bài hát blues và blues chậm của anh ấy ngày hôm nay. Tôi ghét những chú chó blues Doggone này là một bài hát thú vị trong album năm 1989 của anh ấy, Thường vụ Ground Ground và nếu Blues cũ là thứ của bạn, hãy tiếp tục và thêm toàn bộ album vào danh sách phát của bạn.Clarence Brown’s high school instructor. But there’s no denying that “The Gatemouth” took advantage of the chances given to him and that’s why we can enjoy his blues and slow blues songs today. “I Hate These Doggone Blues” is an entertaining song from his 1989 album “Standing My Ground” and if old-school blues is your thing, go on and add the whole album to your playlist.

Những người theo sương mù thời gian - John Mayall và The Bluesbreakers

Vâng, đã có những bài hát blues chậm tuyệt vời sau năm 2000. Được thành lập vào năm 1963, John Mayall và The Bluesbreakers đã ở lại trong những năm qua. Nhưng tôi đã biết ơn rằng họ đã tạo ra âm nhạc. Mist The Mists of Time, là một trong những phần nổi tiếng của chúng, và vì một lý do. Bài hát là rock rắn tổng thể và kết thúc trong sự hài hòa hoàn hảo giữa mỗi nhạc cụ được chơi. Nó cũng cung cấp một số rung cảm màu hồng Floyd và đó luôn luôn là một điều tốt.

"Bạn đã bao giờ yêu một người phụ nữ" - Eric Clapton

Nếu bạn là một anh chàng guitar như tôi, bạn sẽ thích bài hát này. Chà, nó không có gì lạ bởi vì nó đến từ huyền thoại guitar Clapton. Bạn đã bao giờ yêu một người phụ nữ, có những bản nhạc blues tuyệt vời của Clapton, hát ủ rũ (thậm chí một số falsetto), slide solo và nhịp độ chậm. Vì vậy, bài hát này là một câu nói không thể bỏ qua cho những người hâm mộ nhạc blues và guitar chậm. (Tìm ra & nbsp; nhiều bài hát blues hơn cho guitar tại đây).

“Đây là lời tạm biệt cuối cùng của tôi” - William Clarke

Nếu bạn là một anh chàng Harmonica, bạn sẽ thích bài hát này. Được biết đến với giọng hát và Harmonica, Clarke cho chúng ta gần 3 phút nhạc blues chậm thuần khiết. Bài hát thậm chí có thể đã lâu hơn một chút và nó khiến bạn muốn nhiều hơn nữa. Và mặc dù Clarke đã vượt qua quá sớm (tuổi 45), anh đã có thể đưa ra 22 album trong sự nghiệp âm nhạc 28 năm của mình. Vì vậy, tiếp tục, đi sâu vào âm nhạc Clarke.age of 45), he was able to put out 22 albums in his 28-year music career. So go on, dive deep into Clarke’s music.

“Cái gì trên thế giới” - Rory Gallagher

Huyền thoại guitar Ailen anh ấy là. Một người khác đã chết quá trẻ (tuổi 47). Trong trò chơi của anh ấy, Gallagher pha trộn phong cách rock và blues và đó là một lý do khiến anh ấy và rất nổi tiếng. Nó khó có thể không thích cây đàn guitar của mình và hát. Những gì trên thế giới là một tác phẩm 9 phút là một ví dụ hoàn hảo về lý do tại sao Rory Gallagher có thể được gọi là một huyền thoại guitar của người Hồi giáo. Các bản solo trên bài hát này là tuyệt vời và đầy cảm xúc.age of 47). In his playing, Gallagher mixed rock and blues style and that’s one reason he was and is so popular. It’s hard to not like his guitar licks and singing. “What In The World” is a 9-minute piece that is a perfect example of why Rory Gallagher can be called a “guitar legend”. The solos on this song are amazing and full of emotion.

“Cảm lạnh, cảm giác lạnh lùng” - Jimmy Witherspoon

Tempo thực sự chậm, những tiếng guitar sạch sẽ của Fender, và giọng hát tuyệt vời. Đó là những gì mà cảm giác lạnh lùng, lạnh lẽo là tất cả. Cảm giác lạnh lùng, lạnh lùng được viết bởi Jessie Mae Robinson và được ghi lại bởi T-Bone Walker vào năm 1950-1952. Witherspoon đã phát hành phiên bản của bài hát Blues Cold N, năm 1980 này và nó đã thành công kể từ đó. Phải nghe thấy cho những người yêu thích blues chậm.recorded by T-Bone Walker in 1950-1952. Witherspoon released his version of this Cold n’ Slow blues song in 1980 and it has been a hit since. Must-listen for slow blues lovers.

Sự kết luận

Ở đó bạn có nó, 10 bài hát blues chậm tuyệt vời. Cá nhân, những tác phẩm yêu thích của tôi là tôi, tôi sẽ chơi nhạc blues cho bạn (Daniel Castro cũng trông giống như bố vợ tôi) và những người theo thời gian của thời gian. Nhưng có một câu hỏi tôi đã nhận được một câu trả lời, những gì mà bài hát Blues Slues yêu thích của bạn? Nhận xét xuống dưới đây!

Những gì được coi là bài hát blues hay nhất từ ​​trước đến nay?

47 bài hát blues hay nhất mọi thời đại..
BB King - Sự hồi hộp đã biến mất. ....
Robert Johnson - Tôi và The Devil Blues. ....
John Lee Hooker - Boogie Chillen. ....
Little Walter và Jukes của anh ấy - em yêu của tôi. ....
Howlin 'Wolf - ác. ....
Robert Johnson - Ngã tư. ....
Blind Lemon Jefferson - Matchbox Blues. ....
Muddy Waters - đã làm cho mojo của tôi hoạt động ..

Những bài hát blues nào ảnh hưởng đến rock and roll?

Những bài hát rock cổ điển lấy cảm hứng từ các nghệ sĩ blues..
Howlin Wolf, cửa sau người đàn ông / cánh cửa cửa sau cửa người đàn ông ....
Dẫn bụng, bạn đã ngủ ở đâu đêm qua.
Erma Franklin, mảnh của trái tim tôi, / Janis Joplin, mảnh của trái tim tôi.

Nhạc blues phổ biến nhất ở đâu?

Chicago.Thành phố lớn Chicago có địa điểm âm nhạc cho mọi sở thích, nhưng nó đặc biệt được biết đến với The Blues.Phong cách "Chicago Blues" xuất hiện trong thời kỳ hậu Thế chiến II khi nhiều người miền Nam người Mỹ gốc Phi chuyển đến miền Bắc công nghiệp để tìm kiếm việc làm.. The great city of Chicago has music venues for every taste, but it is particularly known for the Blues. The "Chicago Blues" style came about in the post-World War II-era when many African-American southerners moved to the industrial north in search of jobs.

Blues có phải là nhạc rock không?

Nó chủ yếu là một bản nhạc theo phong cách điện với các nhạc cụ tương tự như nhạc blues điện và nhạc rock (guitar điện, guitar bass điện, và trống, đôi khi có bàn phím và hòa âm).....