Từ 1945 1950 liên xô khôi phục kinh tế và tiếp tục xây dựng chủ nghĩa xã hội trong hoàn cảnh

08:56, 24/11/2020

Sự ra đời của Liên bang Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết

Sau ngày Cách mạng Tháng Mười Nga thắng lợi, nước Nga Xô viết bước vào thời kỳ khó khăn với nội chiến và can thiệp nước ngoài, như V.I.Lê-nin đã nói: “Giành chính quyền đã khó, giữ chính quyền còn khó hơn”. Chiến tranh, nội chiến kết thúc, chính sách cộng sản thời chiến với nhiều biện pháp phi kinh tế đã không còn phù hợp, gây ra nhiều bất ổn trong đời sống xã hội. Đại hội lần thứ X của Đảng Bôn-sê-vích Nga năm 1921 đã đề ra Chính sách kinh tế mới (NEP), từng bước phục hồi sản xuất, phát triển kinh tế, hình thành nên những thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa.

Cho đến năm 1922, trên lãnh thổ nước Nga trước đây đang tồn tại 6 nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa: Nga, Ucraina, Bêlarut, Adecbaigian, Acmênia và Grudia. Trước yêu cầu thống nhất, hợp tác để chống âm mưu can thiệp nước ngoài và nội phản, trên cơ sở tự nguyện, ngày 30-12-1922, Đại hội lần thứ nhất các Xô viết toàn liên bang được tiến hành tại Maxcơva, thông qua bản Tuyên ngôn thành lập Liên bang Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết (gọi tắt là Liên Xô) và bản Hiệp ước Liên bang. Đến năm 1924, Hiến pháp đầu tiên của Liên bang cũng được thông qua, khẳng định về mặt pháp lý của nhà nước Liên bang Xô viết.

Duyệt binh chào mừng chiến thắng chủ nghĩa phát xít. Ảnh tư liệu

Cường quốc công nghiệp thế giới

Chính sách kinh tế mới (NEP) đã khắc phục hậu quả chiến tranh, nâng cao đời sống nhân dân, đưa nước Nga dần thoát khỏi tình trạng nông nghiệp lạc hậu. Tuy nhiên V.I.Lê-nin và Đảng Bôn-sê-vích yêu cầu phải phát triển công nghiệp nặng để khai thác hiệu quả nguồn tài nguyên quốc gia. Đại hội lần thứ XIV của Đảng Cộng sản Liên Xô (từ ngày 18 đến 31-12-1925) đã xác định nhiệm vụ chiến lược của Đảng là xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô. Đại hội đề ra nhiệm vụ “công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa” là nhiệm vụ trọng tâm trong thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Liên Xô đã đề ra các kế hoạch 5 năm (lần thứ nhất: 1928 - 1932, lần thứ hai: 1933 - 1937), cả hai kế hoạch 5 năm đều về trước kế hoạch 9 tháng. Sau hai lần thực hiện kế hoạch 5 năm, Liên Xô đã hoàn thành nhiệm vụ công nghiệp hóa (trong khi các nước tư bản phải mất hàng trăm năm), trở thành một cường quốc công nghiệp đứng thứ hai thế giới (sau Mỹ).

Chiến thắng chủ nghĩa phát xít

Từ những năm 30 của thế kỷ 20, khi chủ nghĩa phát xít lên cầm quyền ở Ý và Đức, Liên Xô đã cảnh báo nguy cơ xâm lược của các nước phát xít, và đã có những đề nghị ngăn chặn những hành động xâm lược. Tuy nhiên các nước đế quốc đều coi chủ nghĩa xã hội là “kẻ thù chung” nên không công nhận các đề nghị của Liên Xô.

Năm 1939, chiến tranh thế giới thứ hai nổ ra, phát xít Đức xâm lược châu Âu và sau đó tiến đánh Liên Xô với chiến lược “chiến tranh chớp nhoáng”. Tuy nhiên, trước sự chiến đấu ngoan cường của Hồng quân Liên Xô, quân Đức lâm vào tình cảnh khó khăn khi chiến sự kéo dài. Với các chiến thắng quyết định như Maxcơva, Stalingrat và Cuốc-xcơ, Hồng quân Liên Xô đã gây thiệt hại nặng nề - 74% sinh lực quân đội Đức, đẩy phát xít Đức đến “miệng hố của sự diệt vong”. Thừa thắng, Hồng quân Liên Xô tiến đánh vào Béc-lin, sào huyệt của phát xít Đức; ngày 9-5-1945 Đức Quốc xã phải ký văn bản đầu hàng vô điều kiện.

Tại châu Á, Liên Xô cùng với các nước Anh, Mỹ đánh phát xít Nhật. Mặc dù Mỹ đã thả hai quả bom nguyên tử xuống hai thành phố Hirosima và Nagasaki để buộc người Nhật đầu hàng, nhưng phải đến khi Hồng quân Liên Xô đánh bại 1 triệu quân tinh nhuệ của Nhật ở Đông Bắc Trung Quốc (ngày 8-8-1945) thì Nhật mới chấp nhận đầu hàng Đồng Minh vô điều kiện.

Quần chúng nhân dân trong ngày kỷ niệm 1 năm thành công của Cách mạng Tháng Mười . Ảnh tư liệu

Sự ra đời của hệ thống XHCN thế giới

Trong cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại chống chủ nghĩa phát xít, quân đội và nhân dân Liên Xô đã chịu nhiều tổn thất cả về người và của. Theo số liệu công bố tại Liên Xô, chiến tranh đã cướp đi sinh mạng gần 27 triệu người Nga (hơn 9 triệu chiến sĩ hy sinh, hơn 17 triệu dân thường thiệt mạng). Nhưng vượt lên tất cả, Hồng quân Liên Xô đã đảm trách được sứ mệnh lịch sử mang tính thời đại: Chiến đấu vì sự nghiệp giải phóng ách nô dịch của chủ nghĩa phát xít, đấu tranh bảo vệ hòa bình, dân chủ, bảo vệ nhân phẩm con người trước nạn diệt chủng và truy bức của các thế lực phản động. Chiến thắng chủ nghĩa phát xít đã trực tiếp và gián tiếp tạo điều kiện cho một loạt các quốc gia ở nhiều châu lục vùng lên giành độc lập thắng lợi. Chính điều đó góp phần giúp Đảng Cộng sản các nước được giải phóng hoàn thành cách mạng dân chủ nhân dân và chuyển thành cách mạng xã hội chủ nghĩa, trong đó có Việt Nam. Một hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa hình thành để đối trọng với chủ nghĩa tư bản, giữ thế cân bằng lực lượng, bảo vệ hòa bình thế giới. Đứng đầu hệ thống XHCN là Liên Xô, một cường quốc đủ sức mạnh đối trọng với các cường quốc tư bản, và là chỗ dựa vững chắc của các phong trào cách mạng.

Cường quốc khoa học, kỹ thuật, quốc gia mở đầu kỷ nguyên chinh phục vũ trụ

Trong Chiến tranh Thế giới thứ hai, Đức Quốc xã đã tàn phá nặng nề hệ thống giáo dục quốc dân của Liên Xô. Vì vậy, sau chiến tranh Liên Xô chú trọng đặc biệt đến phát triển khoa học và giáo dục quốc dân qua các kế hoạch 5 năm. Năm 1958 Liên Xô có 2,2 triệu sinh viên, trong đó 45% là tại chức. Năm 1981, Liên Xô đạt 787/1.000 người dân có trình độ đại học và trung học (trên ¾ dân số), tăng gần 9 lần so với năm 1939. Năm 1980, Liên Xô có 1.373,3 nghìn tiến sĩ, phó tiến sĩ và nghiên cứu sinh, tăng gần 8,5 lần so với năm 1950. Nhờ đó mà khoa học, kỹ thuật của Liên Xô đạt nhiều thành tựu quan trọng, đặc biệt là chế tạo vũ khí nguyên tử để phòng thủ quốc phòng. Tiếp theo là xây dựng nhà máy điện nguyên tử đầu tiên trên thế giới vào năm 1954 công suất 5.000 kW, năm 1958 xây dựng nhà máy thứ hai công suất 100.000 kW. Thành tựu này của Liên Xô vượt qua Mỹ.

  
Ngày 23-7-1980, tàu Liên hợp 37 của Liên Xô chở nhà du hành vũ trụ đầu tiên của Việt Nam Phạm Tuân và nhà du hành vũ trụ Liên Xô Go-rơ-bát-cô đã bay vào vũ trụ, đánh dấu mốc trong quan hệ hợp tác giữa hai nước trên lĩnh vực nghiên cứu khoa học vũ trụ. Ảnh tư liệu 

Những thành tựu quan trọng về khoa học của Liên Xô cũng được ứng dụng vào công cuộc chinh phục vũ trụ bao la. Từ năm 1957 đã phóng thành công nhiều vệ tinh nhân tạo vào vũ trụ; năm 1961 phóng tàu vũ trụ đưa nhà du hành đầu tiên trên thế giới là Gagarin bay vòng quanh Trái đất. Cùng với đó là chế tạo và phóng các tên lửa vũ trụ thám hiểm Mặt trăng, sao Kim; phóng tàu vũ trụ đưa các nhà khoa học nghiên cứu tìm kiếm sự sống ngoài Trái đất… Tính đến 31-3-1978, Liên Xô đã phóng thành công lên quỹ đạo Trái đất 1.000 vệ tinh nhân tạo để nghiên cứu khoa học phục vụ các lĩnh vực đời sống của con người.

Cho đến nay, những thành tựu của Liên Xô về chinh phục vũ trụ mãi mãi là niềm tự hào của nhân dân Liên Xô nói riêng và nhân loại nói chung.

Tài liệu tham khảo:

100 năm Cách mạng Tháng Mười Nga và Chủ nghĩa xã hội - từ hiện thực đến quy luật lịch sử - Nhà xuất bản Đại học quốc gia TP. Hồ Chí Minh - 2017.

Dương Thế Hoàn

Trong bài này, PGS.TS Vũ Quang Hiển sẽ hướng dẫn các bạn ôn thi nội dung Liên Xô và các nước Đông Âu (1945 – 1991), Liên bang Nga (1991 – 2000).

A. Mục tiêu ôn tập

– Trình bày được tình hình Liên Xô từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai đến giữa những năm 70 (thế kỉ XX).

– Trình bày và phân tích được ý nghĩa những thành tựu của Liên Xô trong khôi phục kinh tế và xây dựng cơ sở vật chất – kĩ thuật của chủ nghĩa xã hội.

– Tóm tắt được sự ra đời của các nước dân chủ nhân dân ở Đông Âu và những thành tựu trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở các nước này từ năm 1945 đến nửa đầu những năm 70 của thế kỉ XX.

– Trình bày được những nét cơ bản trong mối quan hệ giữa các nước xã hội chủ nghĩa về kinh tế, văn hoá, khoa học – kĩ thuật, chính trị – quân sự.

B. Nội dung ôn tập

I. Liên Xô từ năm 1945 đến giữa những năm 70 của thế kỉ XX

1. Hoàn cảnh

– Liên Xô ra khỏi cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai với tư thế của người chiến thắng, nhưng cũng bị tổn thất nặng nề (khoảng 27 triệu người chết, 1.710 thành phố bị phá huỷ, 7 vạn làng mạc, 32.000 xí nghiệp bị phá huỷ).

– Các nước phương Tây do Mĩ cầm đầu theo đuổi chính sách chống Liên Xô. Liên Xô phải chăm lo củng cố quốc phòng và an ninh.

– Liên Xô có trách nhiệm gúp đỡ các nước Đông Âu khôi phục kinh tế, xây dựng chủ nghĩa xã hội; giúp đỡ phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới.

2. Thành tựu chủ yếu

– Với tinh thần tự lực tự cường, nhân dân Liên Xô đã hoàn thành kế hoạch 5 năm khôi phục kinh tế (1946 – 1950) trước thời hạn 9 tháng. Đến năm 1950, sản lượng công nghiệp tăng 73%, sản lượng nông nghiệp đạt mức trước chiến tranh. Năm 1949, Liên Xô chế tạo thành công bom nguyên tử, phá vỡ thế độc quyền vũ khí hạt nhân của Mĩ.

– Liên Xô từ năm 1950 đến đầu những năm 1970: đạt được nhiều thành tựu to lớn trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội với việc hoàn thành các kế hoạch kinh tế – xã hội dài hạn

  • Liên Xô trở thành cường quốc công nghiệp đứng thứ hai thế giới (sau Mĩ), chiếm khoảng 20% tổng sản lượng công nghiệp toàn thế giới; đi đầu trong nhiều ngành công nghiệp quan trọng.
  • Liên Xô cũng thu được nhiều thành tựu trong sản xuất nông nghiệp, sản lượng nông phẩm trong những năm 60 (thế kỉ XX) tăng trung bình 16%/năm.
  • Liên Xô là nước đầu tiên phóng thành công vệ tinh nhân tạo (1957), phóng tàu vũ trụ Phương Đông đưa nhà du hành vũ trụ I.Gagarin bay vòng quanh Trái Đất (1961), mở đầu kỉ nguyên chinh phục vũ trụ của loài người. Liên Xô chiếm lĩnh nhiều đỉnh cao của khoa học – kĩ thuật thế giới: vật lí, hoá học, điện tử, điều khiển học, khoa học vũ trụ…

– Về đối ngoại, Liên Xô thực hiện chính sách đối ngoại hoà bình và tích cực ủng hộ phong trào cách mạng thế giới; đấu tranh cho hoà bình, an ninh thế giới, kiên quyết chống chính sách gây chiến của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động; tích cực giúp đỡ các nước xã hội chủ nghĩa trong công cuộc xây dựng đất nước; ủng hộ các phong trào đấu tranh vì độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.

3. Ý nghĩa

– Trên cơ sở những thành tựu về kinh tế, khoa học – kĩ thuật, quân sự, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân Xô – viết không ngừng được cải thiện, Liên Xô có vị trí quan trọng trong việc giải quyết những công việc quốc tế.

– Liên Xô đạt thế cân bằng sức mạnh quân sự nói chung và sức mạnh hạt nhân nói riêng với Mĩ và phương Tây; trở thành đối trọng của Mĩ trong trật tự thế giới hai cực, làm đảo lộn chiến lược toàn cầu của Mĩ.

– Liên Xô có điều kiện giúp đỡ các nước xã hội chủ nghĩa, ủng hộ phong trào giải phóng dân tộc Á – Phi – Mĩ Latinh về vật chất và tinh thần trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân. Liên Xô là thành trì của cách mạng thế giới, trụ cột của hoà bình thế giới.

II. Các nước Đông Âu từ 1945 đến nửa đầu những năm 70 của thế kì XX

– Trong những năm 1944 – 1945, cùng với quá trình Hổng quân Liên Xô truy kích quân đội phát xít Đức, nhân dân Đông Âu đã nổi dậy giành chính quyền, thành lập các nhà nước dân chủ nhân dân.

– Từ năm 1945 – 1949, các nhà nước dân chủ nhân dân Đông Âu hoàn thành một số nhiệm vụ quan trọng:

  • Xây dựng bộ máy nhà nước mới, tiến hành cải cách ruộng đất, quốc hữu hoá tài sản của tư bản nước ngoài, ban hành các quyền tự do dân chủ, cải thiện đời sống nhân dân.
  • Chính quyền nhân dân được củng cố, vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản ngày càng được khẳng định.

– Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội

  • Trong những năm 1950 – 1975, các nước Đông Âu đã thực hiện nhiều kế hoạch 5 năm nhằm xây dựng cơ sở vật chất – kĩ thuật của chủ nghĩa xã hội và đạt được nhiều thành tựu to lớn.
  • Từ chỗ là những nước nghèo, các nước Đông Âu đã trở thành những quốc gia công – nông nghiệp. Sản lượng công nghiệp tăng lên gấp hàng chục lần, nông nghiệp phát triển nhanh chóng, trình độ khoa học – kĩ thuật được nâng lên rõ rệt.

– Ý nghĩa:

  • Làm biến đổi đời sống kinh tế, chính trị, xã hội của các nước, khẳng định tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội
  • Làm cho chủ nghĩa xã hội trở thành một hệ thống thế giới với tiềm lực mọi mặt được tăng cường và có vị thế quan trọng trong quan hệ quốc tế.

III. Quan hệ hợp tác giữa các nước xã hội chủ nghĩa ở châu Âu

1. Quan hệ kinh tế, văn hoá, khoa học – kĩ thuật:

– Ngày 8/1/1949, các nước Liên Xô, Ba Lan, Anbani, Bungary, Hungary, Rumani, Tiệp khắc thành lập Hội đồng tương trợ kinh tế (SEV), Liên Xô giữ vai trò quyêt định trong khối này. Năm 1950 thêm Cộng hoà dân chủ Đức, 1978 Việt Nam tham gia khối này.

– Mục tiêu: tăng cường hợp tác giữa các nước xã hội chủ nghĩa, thúc đẩy sự tiến bộ khoa học kĩ thuật, thu hẹp sự chênh lệch về trình độ phát triển giữa các nước thành viên.

– Thành tựu: Sau hơn 20 năm hoạt động, đến nửa đầu những năm 70, tốc độ sản xuất công nghiệp các nước trong khối SEV đã tăng 10%, sản xuất đạt 33% thế giới.

– Hạn chế: khép kín, không hoà nhập với đời sống kinh tế thế giới; chưa coi trọng đầy đủ việc áp dụng những tiến bộ của khoa học và công nghệ; sự hợp tác gặp nhiều trở ngại do cơ chế quan liêu, bao cấp.

– Do sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu, ngày 28/6/1991, khối SEV ngừng hoạt động.

– Ý nghĩa:

  • Thông qua việc hợp tác, tạo cơ sở vật chất – kĩ thuật đẩy mạnh công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân dân của các nước thành viên.
  • Củng cố và tăng cường sức mạnh của hệ thống xã hội chủ nghĩa, ngăn chặn, đẩy lùi các âm mưu chống phá của chủ nghĩa tư bản, không ngừng giúp đỡ phong trào cách mạng thế giới và góp phần giữ gìn hoà bình, an ninh thế giới.

2. Quan hệ chính trị – quân sự

– Ngày 14/5/1955, tại cuộc họp ở Vácsava, các nước Anbani, Balan, Bungary, Cộng hoà dân chủ Đức, Hungary, Liên Xô, Rumani và Tiệp khắc kí hiệp ước hữu nghị, hợp tác và tương trợ, đánh dấu sự ra đời của Tổ chức Hiệp ước Vacsava, một liên minh chính trị – quân sự mang tính chất phòng thủ.

– Mục tiêu: chống lại âm mưu của Mĩ và phương Tây muốn tiêu diệt phe xã hội chủ nghĩa.

– Ý nghĩa: có vai trò quan trọng trong việc giữ gìn hoà bình và an ninh ở châu Âu và thế giới, tạo nên thế cân bằng về quân sự giữa các nước xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa. Trở thành một đối trọng với NATO.

IV. Liên bang Nga trong thời gian 1991 – 2000

– Từ sau năm 1991, Liên bang Nga là “quốc gia kế tục Liên Xô”, kế thừa địa vị pháp lí của Liên Xô tại Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc cũng như các cơ quan ngoại giao của Liên Xô ở nước ngoài.

– Trong thập kỉ 90, dưới chính quyền Tổng thống Enxin, tình hình Liên bang Nga chìm đắm trong khó khăn và khủng hoảng.

– Về kinh tế:

  • Trước năm 1996: Việc tư nhân hoá đã làm cho nền kinh tế Nga trở nên rối loạn. Sản xuất công nghiệp năm 1992 giảm xuống còn 20%. Từ năm 1990 đến năm 1995, tốc độ tăng trưởng GDP luôn là số âm.
  • Từ năm 1996, nền kinh tế Nga dần dần phục hồi, năm 1997 đạt tăng trưởng kinh tế 0,5%, năm 2000 là 9%.

– Về chính trị:

  • Hiến pháp 1993, quy định Liên bang Nga theo chế độ Tổng thống Liên bang.
  • Từ năm 1992 – 1999, Tổng thống Enxin, nước Nga đứng trước hai thử thách lớn. Một là tình trạng không ổn định về chính trị, tranh chấp giữa các đảng phái. Hai là những cuộc xung đột sắc tộc (Trecxia…).
  • Từ năm 2000, V.Putin làm Tổng thống , nhà nước pháp quyền được củng cố, tình hình xã hội ổn định; nhưng vẫn đứng trước thử thách lớn: xu hướng li khai và nạn khủng bố…

– Về đối ngoại:

  • Trong những năm 1992 – 1993, nước Nga theo đuổi chính sách “định hướng Đại Tây Dương” – ngả về phương Tây, hi vọng nhận sự ủng hộ về chính trị và viện trợ về kinh tế. Nhưng sau 2 năm, nước Nga đã không đạt kết quả như mong muốn.
  • Từ năm 1994, nước Nga chuyển sang chính sách đối ngoại “định hướng Âu – Á”, trong khi tranh thủ phương Tây, vẫn khôi phục và phát triển mối quan hệ với châu Á (một số nước trong SNG, Trung Quốc, Ấn Độ, các nước ASEAN).

– Từ năm 2000, chính quyền của Tổng thống V.Putin đã đưa Liên bang Nga dần thoát khỏi khó khăn và khủng hoảng, kinh tế hồi phục và phát triển; chính trị, xã hội ổn định và địa vị quốc tế được nâng cao để trở lại vị thế một cường quốc Âu – Á.

C. Câu hỏi ôn tập

Câu 1. Nêu những thành tựu trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội của Liên Xô từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai đến nửa đầu những năm 70 của thế kỉ XX. Thành tựu đó có ý nghĩa như thế nào?

Câu 2. Mối quan hệ của các nước xã hội chủ nghĩa ở châu Âu nửa sau thế kỉ XX được biểu hiện như thế nào? Nêu ý nghĩa của các mối quan hệ đó.

Câu 3. Trình bày những nét chính về Liên bang Nga từ năm 1991 đến năm 2000.

Xem tiếp bài 3: Các nước Á, Phi, Mĩ Latinh (1945 – 2000)


Video liên quan

Chủ đề