Ví dụ về đánh giá năng lực học sinh

10 CÁCH ĐÁNH GIÁ HỌC SINH CÓ THỂ THỰC HIỆN TRONG 90 GIÂY

Để việc đánh giá trở nên hiệu quả. Giáo viên nên tiến hành các đánh giá thường xuyên. Mục đích của nó để thu được những phản hồi nhanh về mức độ hiểu biết của học sinh – càng nhiều phản hồi, bức tranh về kiến thức của người học sẽ càng đầy đủ hơn.

Cách đơn giản để đánh giá học sinh!

Vào một ngày đẹp trời, bạn thấy một học sinh xuất sắc, bạn quyết định cho bài kiểm tra đó 10 điểm. Nhưng liệu rằng, điểm 10 đó có cho bạn biết chính xác những gì học sinh hiểu và học sinh có thực sự hiểu những điều mà chúng đã làm hay chỉ lặp lại theo đúng cách mà giáo viên đã yêu cầu. Và khi đánh giá lại, kết quả có thể sẽ thấp hơn do cách diễn đạt câu hỏi, ý thức của học sinh về năng lực bản thân cùng những nhân tố khác,… Điều này nghe có vẻ hiển nhiên, nhưng chúng ta lại ít khi để ý đến nó. Bên cạnh những yếu tố khách quan, còn có rất nhiều những yếu tố chủ quan mà trong đó mỗi học sinh là một con người với vô vàn những vấn đề cá nhân khác nhau, sự xao lãng và những khó khăn ảnh hưởng đến việc lưu giữ và gợi nhớ thông tin,…

Điều này tạo ra những tranh luận gay gắt về giá trị của các đánh giá tổng kết đi liền với các bài kiểm tra. Nó có thể tạo ra những phản ứng ngược và “tiếp tay” cho những học sinh nhiều “mánh khóe” và đang cố tình đối phó với các bài kiểm tra thay vì hình thành năng lực thực sự. Tuy nhiên, việc đánh giá học sinh đã và đang trở thành gánh nặng lớn (cho cả giáo viên và học sinh) khi phải dành quá nhiều thời gian để lập đề cương, thiết kế các câu hỏi, thời gian hoàn thành bài, chấm bài, xếp loại và nhập dữ liệu vào sổ điểm,…. Vậy tại sao, chúng ta không loại bỏ nó và tiến hành các hoạt động kiểm tra đánh giá đơn giản và hiệu quả hơn?

Các kĩ thuật đánh giá quá trình và đưa phản hồi nhanh

Như đã đề cập ở trên, các đánh giá tổng kết được sử dụng quá nhiều sẽ dẫn đến những hiệu ứng ngược. Vì vậy, giáo viên cần tập trung vào các đánh giá quá trình – nó được tiến hành xuyên suốt trong các bước của quá trình học tập. Giáo viên sẽ liên tục ghi nhận mức độ làm chủ kiến thức, kĩ năng của học sinh qua các giai đoạn và đưa các phản hồi kịp thời. Các hoạt động này có thể đơn giản hoặc phức tạp, nhưng mục đích của nó là đo được năng lực thực sự của học sinh.

Dưới đây là một số hoạt động đánh giá nhanh khá hiệu quả mà các giáo viên có thể tham khảo và sử dụng trong lớp học của mình. Sau quá trình đánh giá, giáo viên nên lưu lại kết quả để làm bằng chứng cho những đánh giá tổng kết sau này.

  1. Giải quyết vấn đề thực tiến

Yêu cầu học sinh đưa ra một chủ đề, một nhận định, các luận điểm, các yếu tố, quy trình một cách khoa học… và sử dụng theo một vài cách khác với cách giáo viên vẫn dạy trên lớp. Ví dụ khi dạy tiến trình làm thí nghiệm, nghiên cứu, thu thập thông tin, giáo viên có thể cho học sinh ứng dụng để điều tra một vụ án, truy bắt tội phạm,… nghĩa là giải quyết một vấn đề của thực tiễn.

Nó cho phép học sinh quan sát dữ liệu, hình thành lý thuyết, kiểm tra lý truyết khi thu thập thêm dữ liệu và đưa ra kết luận và sau đó giáo viên có thể đánh giá được mức độ làm chủ kiến thức.

  1. Được làm và không được

Yêu cầu học sinh đưa ra 3 điều được phép làm và 3 điều không được làm khi thực hành, áp dụng, liên quan đến nội dung kiến thức (ví dụ: 3 điều được làm và không được làm khi giải phương trình).

Ví dụ, khi cộng hai phân số: phải tìm được một mẫu số chung, phải cộng các tử số khi tìm thấy mẫu số chung, không được cộng các mẫu số…

  1. Những “sai lầm” phổ biến nhất

Kết thúc tiết học hoặt một hoạt động học tập, giáo viên yêu cầu học sinh liệt kê 3 lỗi sai mà chúng cho là phổ biến nhất trong mỗi bài học dựa trên suy nghĩ cá nhân và quan sát các bạn cùng lớp. Bằng việc phân tích những lỗi sai mà học sinh liệt kê, giáo viên có thể đánh giá được năng lực nhận thức của học sinh.

Ví dụ: Trong việc phân tích giọng điệu của văn bản, hầu hết mọi người đều nhầm lẫn giữa ngôn ngữ và giọng điệu, hãy yêu cầu học sinh xem xét đối tượng một cách cụ thể và tìm ra những lỗi sai phổ biến nhất.

  1. Lập bảng “có” hoặc “không”

Lập một checklist những gì học sinh hiểu và không hiểu về nội dung bài học, giáo viên có thể cho học sinh đánh dấu vào 1 trong 2 ô “hiểu” hoặc “không hiểu”. Sau đó giáo viên sẽ thu thập và cho học sinh biết kết quả chung của cả lớp và điều chỉnh khi cần thiết.

Ví dụ, Khi tìm hiểu về cấu trúc đoạn văn.

Học sinh hiểu: Biết được câu chủ đề là gì, một đoạn văn cần có bao nhiêu câu, đoạn văn đó nên nói về một ý tưởng

Học sinh không hiểu: làm thế nào để kết đoạn, làm thế nào để biết tôi đã trả lời đủ ý trong đoạn văn đó và làm sao để sửa một đoạn văn.

  1. Đặt 3 câu hỏi

Giáo viên yêu cầu học sinh đặt 3 câu hỏi về chủ đề của bài học, sau đó sắp xếp chúng theo thứ tự quan trọng. Bằng cách nào chúng ta có thể đánh giá được mức độ tư duy của học sinh về bài học.

Ví dụ về phản ứng của học sinh:

Ít quan trọng: Từ “tam giác” có nghĩa là gì?

Quan trọng trung bình: Hình tam giác có phải là hình duy nhất có 3 cạnh không?

Quan trọng hơn: Tại sao hình tạm giác lại không xuất hiện nhiều trong tự nhiên (trong khi các hình khác thì có)?

  1. Giải thích vấn đề một cách ngắn gọn

Cho học sinh tự chọn và giải thích phần quan trọng của một nội dung nào đó trong hai câu hoặc ít hơn. Hoạt động này, giáo viên có thể yêu cầu bất cứ học sinh nào thực hiện. Đó cũng là cách để xem khả năng làm chủ các đơn vị kiến thức của học sinh.

Khi học sinh trình bày, giải thích về một vấn đề nào đó, chúng sẽ bộc lộ khả năng hiểu biết, mức độ nắm kiến thức của chúng.

  1. Bức tranh lớn

Cho học sinh tưởng tượng ra bối cảnh “một bức tranh lớn” nơi nội dung bài học xuất hiện, sau đó tìm ra mối liên hệ giữa các nội dung bài học và hiểu được sâu sắc về nội dung đã học. Đây là cách tốt nhất giúp học sinh phát triển khả năng tưởng tượng và bán cầu não phải.

Ví dụ: Hãy tưởng tượng đến cuộc sống của người nông dân thời kì trung cổ và hiểu được tại sao họ lại đứng lên khởi nghĩa,…

  1. Sơ đồ Venn

Hãy so sánh, đối chiếu với một chủ đề đã cho với một chủ đề khác (ví dụ, từ vòng tuần hoàn nước đến chưng cất, từ tượng trưng đến ám chỉ…) để tìm ra những điểm giống và khác giữa các chủ đề. Đây là thao tác quan trọng trong quá trình tư duy.

Ví dụ: Lập biểu đồ Venn so sánh và đối chiếu giữa hình Vuông và hình thoi, giữ chế độ nô lệ thời cổ đại và chế độ nô nệ ở nước Mỹ.

  1. Viết ra

Viết ra những gì bạn hiểu về một chủ đề. Cách làm này sẽ khiến học sinh cảm thấy tự do hơn khi thực hiện. Thông qua những gì học sinh viết, giáo viên sẽ có bằng chứng về mức độ nắm kiến thức của người học.

Ví dụ: cho học sinh từ khóa của bài về “Biển”, hãy viết tất cả các từ khóa có liên quan đến chủ đề Biển mà bạn biết, sau đó lí giải vì sao lại có sự liên hệ đó.

  1. Giải thích cho người khác

Hãy chứng minh cho một người nào đó không biết gì về chuyên môn cũng có thể hiểu được nội dung bạn trình bày. Đó là cách giúp học sinh giải thích nội dung kiến thức bằng nhiều cách khác nhau với sự đa dạng của ngôn ngữ điễn đạt. Học sinh cũng có thể sử dụng các công cụ khác như sơ đồ, văn bản hoặc những thứ liên quan…

Ví dụ: Hãy giải thích cho một đứa trẻ mầm non hiểu về khái niệm “tự do” và “luật pháp”,…

Trên đây là một vài hình thức đánh giá “nhanh”, “đơn giản” và “thường xuyên”, nó sẽ giúp bạn tiết kiệm được thời gian công sức thiết kế các bài kiểm tra nhưng vẫn thu được hiệu quả, đo được mức độ hiểu biết và khả năng tư duy của học sinh. Nếu bạn có những hình thức khác, hãy chia sẻ cùng chúng tôi trong phần bình luận bên dưới!


Các ý tưởng sáng tạo trong dạy học: HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC Ý TƯỞNG VÀ CÔNG CỤ:https://taotailieu.com/tai-lieu/tai-lieu-hoat-dong-day-hoc-y-tuong-va-cong-cu/

Táo Giáo Dục

NGUYÊN-TẮC-ĐÁNH-GIÁ-THEO-NĂNG-LỰC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (52.53 KB, 5 trang )

NGUYÊN TẮC ĐÁNH GIÁ THEO NĂNG LỰC
I. Khái niệm đánh giá theo năng lực:
Đánh giá kết quả học tập theo năng lực cần chú trọng khả năng vận dụng sáng tạo
tri thức trong những tình huống ứng dụng khác nhau. Đánh giá kết quả học tập đối với
các môn học và hoạt động giáo dục ở mỗi lớp và sau cấp học là biện pháp chủ yếu nhằm
xác định mức độ thực hiện mục tiêu dạy học, có vai trò quan trọng trong việc cải thiện
kết quả học tập của HS. Hay nói cách khác, đánh giá theo năng lực là đánh giá kiến thức,
kỹ năng và thái độ trong bối cảnh có ý nghĩa.
II. So sánh đánh giá năng lực và đánh giá kiến thức, kỹ năng:
Tiêu chí
so sánh

Đánh giá năng lực


1. Mục đích
chủ yếu •
nhất



3. Nội dung
đánh giá


5. Thời

vận •
học
của



học

- Gắn với ngữ cảnh học tập và thực
tiễn cuộc sống của HS.

2. Ngữ cảnh
đánh giá

4. Công cụ
đánh giá

- Đánh giá khả năng HS
dụng các kiến thức, kỹ năng đã
vào giải quyết vấn đề thực tiễn
cuộc sống.
- Vì sự tiến bộ của người
so với chính họ.

Đánh giá kiến thức, kỹ năng

- Những kiến thức, kỹ năng, •
thái độ ở nhiều môn học, nhiều hoạt
động giáo dục và những trải nghiệm •
của bản thân HS trong cuộc sống xã
hội (tập trung vào năng lực thực
hiện).
- Quy chuẩn theo các mức độ
phát triển năng lực của người học.
- Nhiệm vụ, bài tập trong tình

huống, bối cảnh thực.
- Đánh giá mọi thời điểm của quá

- Xác định việc đạt kiến
thức, kỹ năng theo mục tiêu
của chương trình giáo dục.
- Đánh giá, xếp hạng
giữa những người học với
nhau.

- Gắn với nội dung học tập
(những kiến thức, kỹ năng,
thái độ) được học trong nhà
trường.
- Những kiến thức, kỹ
năng, thái độ ở một môn học.
- Quy chuẩn theo việc
người học có đạt được hay
không một nội dung đã được
học.
- Câu hỏi, bài tập, nhiệm vụ
trong tình huống hàn lâm
hoặc tình huống thực.
- Thường diễn ra ở những


trình dạy học, chú trọng đến đánh
giá trong khi học.

điểm đánh

giá


6. Kết quả
đánh giá



- Năng lực người học phụ •
thuộc vào độ khó của nhiệm vụ hoặc
bài tập đã hoàn thành.
Thực hiện được nhiệm vụ càng
khó, càng phức tạp hơn sẽ được coi •
là có năng lực cao hơn.

thời điểm nhất định trong quá
trình dạy học, đặc biệt là
trước và sau khi dạy.
- Năng lực người học
phụ thuộc vào số lượng câu
hỏi, nhiệm vụ hay bài tập đã
hoàn thành.
Càng đạt được nhiều
đơn vị kiến thức, kỹ năng thì
càng được coi là có năng lực
cao hơn.

Hai ví dụ minh họa sau đây cho phép phân biệt rất rõ sự khác nhau giữa đánh kiến
thức, kĩ năng và đánh giá năng lực.
Ví dụ 1. “Anh/Chị hãy nghe, đọc… các tài liệu (kèm theo đây) và sau đó sẽ trình bày

nói về một “tour " du lịch ở Paris”. Qua việc thực hiện nhiệm vụ này, người ta có thể
đánh giá được kĩ năng diễn đạt nói của người học.
Ví dụ 2. "Anh/Chị hãy nghe, đọc… các tài liệu (kèm theo đây) và sau đó chuẩn bị và
tổ chức một “tour” du lịch ở Paris với thời gian 3 ngày cho một nhóm học sinh THPT
Qua việc thực hiện nhiệm vụ này, người ta có thể đánh giá được năng lực giải quyết vấn
đề của người học vì người học không chỉ tìm kiếm các thông tin về Paris mà còn phải tổ
chức như thế nào một chuyến đi du lịch Paris cho một đối tượng cụ thể với các điều kiện
cụ thể : chuyến dụ lịch chỉ có 3 ngày, các học sinh tham gia đi du lịch đều còn nhỏ tuổi và
không có nhiều tiền. Muốn hoàn thành nhiệm vụ hoàn toàn mới này, một nhiệm vụ không
dự kiến, người học phải huy động, vận dụng các kiến thức thu được qua các tài liệu nghe,
đọc…, các kĩ năng giao tiếp, nghe, đọc, nói…, các kinh nghiệm của bản thân để tổ chức
thành công chuyến du lịch này.
III. Nguyên tắc đánh giá năng lực:
Để đánh giá kết quả học tập của người học trong đào tạo dựa vào năng lực cần dựa
vào những nguyên tắc mang tính tổng quát và cụ thể: đã xác định và nhóm các nguyên
tắc này thành bốn nguyên tắc lớn: đánh giá phải phục vụ học, đánh giá phải thực, đánh


giá phải công bằng và đánh giá phải tích hợp với học. Bốn nguyên tắc này không loại trừ
nhau mà gắn kết với nhau và đều tập trung vào người học.
1. Đánh giá phải phục vụ học:
Đánh giá sẽ bao gồm một loạt các kỹ năng và kiến thức đủ để chứng minh năng
lực.
Đánh giá về năng lực phải là một quá trình tích hợp kiến thức và kỹ năng với các
ứng dụng thực tế.
Trong quá trình đánh giá, việc phán đoán để xác định năng lực của người học nên
được thực hiện dựa trên những chứng cứ số liệu thu thập được trong một số tình huống
và ngữ cảnh.
 Đánh giá để phục vụ học phải được thực hiện trong suốt quá trình học và nó phải
luôn luôn chỉ ra cho người học họ đang ở đâu trong quá trình tích hợp phát triển năng lực,

khó khăn nàohọ đang gặp trong việc phát triển các năng lực theo yêu cầu của chương
trình học hay của môn học.
2. Đánh giá phải thực:
Nguyên tắc này liên quan tới tính đích thực của các nhiệm vụ đánh giá. Vì vậy,
đánh giá theo hướng PTNL đòi hỏi các nhiệm vụ đánh giá phải có mối liên hệ chặt chẽ
nhất có thể với các hành động mà học sinh phải thực hiện trong xã hội và trong cuộc sống
hàng ngày và gần nhất có thể với cuộc sống nghề nghiệp và cuộc sống hàng ngày sau này
để các nhiệm vụ đánh giá này có ý nghĩa. Do đó, các nhiệm vụ đánh giá phải tôn trọng
hai nguyên tắc thực và có ý nghĩa.
3. Đánh giá phải công bằng:
Các phương pháp và thực hành đánh giá phải đảm bảo tính công bằng cho tất cả
người học. Nên có một phương pháp tiếp cận đối với việc đánh giá. Quá trình đánh giá
phải nhận được sự phối hợp phát triển / đồng ý giữa người giám định và người được đánh
giá. Cung cấp cơ hội cho người học để họ có thể thách thức năng lực của mình.
Trong đánh giá theo định hướng năng lực, học tùy thuộc vào kết quả đánh giá bởi
người học cũng như bởi người dạy và những người khác có liên quan trong thế giới giáo


dục. Chính vì vậy, kết quả học tập của học sinh phải được so sánh lớp học này với lớp
học khác, giữa giáo viên này với giáo viên khác và giữa trường này với trường khác.
4. Sự linh hoạt của đánh giá:
Đánh giá nên bao phủ toàn bộ quá trình đào tạo.
Quy trình đánh giá năng lực phải đưa đến cho người học khi họ yêu cầu.
Thủ tục đánh giá phải được thực hiện để người học có thể truy cập nhằm giúp cho
người học có thể dễ dàng tiến hành chuyển tiếp từ năng lực thực hiện này sang năng lực
thực hiện khác.
IV. Để việc đánh giá theo năng lực đạt hiệu quả cần:
- Phải biết rõ những hạn chế của từng công cụ đánh giá để sử dụng chúng có hiệu quả.
- Phải biết nó là phương tiện để đi đến mục đích, chứ bản thân không phải là mục đích.
Mục đích đánh giá là để có những quyết định đúng đắn, tối ưu nhất cho quá trình dạy

học.
- Đánh giá bao giờ cũng gắn với việc học tập của người học, nghĩa là trước tiên phải chú
ý đến việc học tập của người học. Sau đó mới kích thích sự nỗ lực học tập của người học,
cuối cùng mới đánh giá bằng chuẩn đạt hay không đạt.
- Đánh giá bao giờ cũng đi kèm theo nhận xét để học sinh nhận biết những sai sót của
mình về kiến thức kỹ năng, phương pháp để học sinh nghiên cứu, trao đổi thêm kiến
thức.
- Qua những lỗi mắc phải của học sinh, giáo viên cần rút kinh nghiệm để phát hiện ra
những sai sót trong quá trình dạy và đánh giá của mình để thay đổi cách dạy sao cho phù
hợp với học sinh.
- Trong đánh giá nên sử dụng nhiều phương pháp và hình thức khác nhau nhằm tăng độ
tin cậy và chính xác.
- Lôi cuốn và khuyến khích học sinh tham gia vào quá trình đánh giá.
- Giáo viên phải thông báo rõ các loại hình câu hỏi để kiểm tra đánh giá giúp học sinh
định hướng khi trả lời.
- Phải dựa trên những cơ sở của phương pháp dạy học mà xem xét kết quả của một câu
trả lời, của một bài kiểm tra, kết hợp với chức năng chẩn đoán hoặc quyết định về mặt sư
phạm.
- Trong các câu hỏi xác định về mặt định lượng, giáo viên thông qua các câu hỏi yêu cầu
học sinh giải thích bằng lời để xác định rõ nhận thức của học sinh.


- Phương pháp và cách thức tiến hành kiểm tra đánh giá phải diễn ra trong hoàn cảnh
thoải mái, học sinh cảm thấy tự nguyện, không lo lắng hay sợ sệt.
- Không nên đặt những câu hỏi mà bản thân giáo viên không thể trả lời một cách chắc
chắn được