Ý nghĩa phương pháp luận của chức năng xã hội và chức năng giai cấp

Hiện nay, Việt Nam đang xây dựng nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Để thực hiện mục tiêu này, chúng ta cần thực hiện tốt chức năng xã hội của Nhà nước. Vì thế, việc nghiên cứu quan điểm của Ph. Ăng-ghen về chức năng xã hội của nhà nước và vận dụng vào giải quyết vấn đề này ở nước ta hiện nay là cần thiết.

Ý nghĩa phương pháp luận của chức năng xã hội và chức năng giai cấp

Quan điểm của Ph. Ăng-ghen về chức năng xã hội của nhà nước

Trong tác phẩm “Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước”, Ph. Ăng-ghen đã tổng kết sự phát triển của lịch sử và rút ra kết luận: “Nhà nước quyết không phải là một quyền lực từ bên ngoài áp đặt vào xã hội. Nó cũng không phải là cái “hiện thực của ý niệm đạo đức”, là “hình ảnh và hiện thực của lý tính” như Ph. Hê-ghen khẳng định. Đúng ra, nhà nước là sản phẩm của một xã hội đã phát triển tới một giai đoạn nhất định”(1). Bởi vì, trong xã hội cộng sản nguyên thủy chưa xuất hiện nhà nước. Tổ chức xã hội đầu tiên của xã hội loài người là thị tộc, bộ lạc. Đứng đầu thị tộc, bộ lạc là tù trưởng, tộc trưởng. Quyền lực của người đứng đầu thị tộc, bộ lạc dựa vào chính sức mạnh đạo đức và uy tín của mình.

Theo Ph. Ăng-ghen, sự phát triển của lực lượng sản xuất dẫn tới sự ra đời của chế độ tư hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, theo đó, xã hội bị phân chia thành các giai cấp. Cuộc đấu tranh giữa hai giai cấp đối kháng đầu tiên xuất hiện trong lịch sử - xã hội là chủ nô và nô lệ. Cuộc đấu tranh này dẫn tới nguy cơ chẳng những các giai cấp đó tiêu diệt lẫn nhau mà tiêu diệt luôn cả xã hội. Để thảm họa đó không diễn ra, một cơ quan quyền lực đặc biệt đã ra đời, đó là nhà nước. Điều đó cho thấy, ngay từ khi ra đời, nhà nước đã là cơ quan quyền lực giải quyết những vấn đề công cộng, nhằm giữ cho xã hội có sự ổn định trong khuôn khổ nhất định.

Bên cạnh đó, “Vì nhà nước nảy sinh ra từ nhu cầu phải kiềm chế những sự đối lập giai cấp; vì nhà nước đồng thời cũng nảy sinh ra giữa cuộc xung đột của các giai cấp ấy, cho nên theo lệ thường, nhà nước là nhà nước của giai cấp có thế lực nhất, của cái giai cấp thống trị về mặt kinh tế và nhờ có nhà nước mà cũng trở thành giai cấp thống trị về mặt chính trị và do đó có thêm được những phương tiện mới để đàn áp và bóc lột giai cấp bị áp bức”(2). Từ quan niệm trên của Ph. Ăng-ghen cho thấy, nhà nước là một tổ chức xã hội đặc biệt của quyền lực chính trị được giai cấp thống trị về mặt kinh tế thành lập nhằm thực hiện quyền lực chính trị của mình. Trong lĩnh vực kinh tế, nhà nước là công cụ bảo vệ, củng cố và phát triển quan hệ sản xuất mà giai cấp thống trị là đại biểu, vì nhu cầu, lợi ích cơ bản của giai cấp thống trị và nhu cầu, lợi ích của toàn xã hội. Để đạt được mục đích đó, trước hết nhà nước phải thể chế hóa mục đích của giai cấp thống trị thành những quy định, quy tắc chuẩn mực chung (hiến pháp, pháp luật) và tạo lập tổ chức bộ máy nhà nước. Trên cơ sở những quy định, quy tắc chuẩn mực chung, các cơ quan nhà nước thực hiện những chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình trong quản lý, điều tiết đất nước trên các lĩnh vực của đời sống xã hội. Đây chính là chức năng giai cấp của nhà nước - chức năng thực hiện sự thống trị chính trị của giai cấp đối với xã hội.

Tuy nhiên, nhà nước sẽ không thể tồn tại nếu nó chỉ phục vụ lợi ích của giai cấp thống trị mà không tính đến lợi ích của các giai cấp, tầng lớp khác trong xã hội. Điều đó cũng có nghĩa là không phải có chính quyền nhà nước trong tay rồi thì giai cấp thống trị có thể sử dụng nó như một công cụ để thực hiện những lợi ích kinh tế của mình. Nhà nước muốn hoạt động có hiệu lực, hiệu quả thì không chỉ phụ thuộc vào giai cấp thống trị về mặt kinh tế, mà còn tùy thuộc rất lớn vào mức độ phù hợp của nó đối với yêu cầu của sự phát triển xã hội, vào mức độ ủng hộ của xã hội, của quần chúng nhân dân đối với những hoạt động của nó. Do vậy, trong chừng mực nhất định, nhà nước phải quan tâm giải quyết những công việc của các giai cấp, tầng lớp khác nói riêng, của cả xã hội nói chung để bảo đảm cho xã hội ổn định và giữ cho nó hoạt động trong vòng “trật tự” nhất định. Nói cách khác, nhà nước phải hoàn thành những chức năng mà xã hội giao phó, đó là chức năng xã hội của nhà nước.

Nhà nước là bộ máy quản lý xã hội trong xã hội có giai cấp, do vậy, chức năng xã hội của nhà nước không mang tính xã hội “thuần túy”, mà cũng mang tính giai cấp. Tuy nhiên, tính giai cấp của chức năng xã hội biểu hiện ít rõ nét hơn chức năng giai cấp, nhưng suy cho cùng, nó cũng bị chi phối bởi ý chí và lợi ích cơ bản của giai cấp thống trị. Tính hiệu quả của chức năng xã hội không chỉ phụ thuộc vào mức độ phù hợp của thiết chế, tổ chức bộ máy đối với yêu cầu của sự phát triển kinh tế - xã hội, mà quan trọng hơn, còn tùy thuộc vào vai trò lịch sử của giai cấp cầm quyền. Giai cấp cầm quyền khi còn là giai cấp tiên tiến, còn là giai cấp đại biểu cho sự tiến bộ xã hội, thì nhà nước có khả năng thực hiện tốt các chức năng xã hội. Ph. Ăng-ghen viết: “Các giai cấp thống trị ở thời phát triển đi lên của mình, đã thực hiện những chức năng xã hội hoàn toàn xác định và chính nhờ điều đó họ mới trở thành giai cấp thống trị”(3). Ngược lại, khi giai cấp cầm quyền đã trở nên lỗi thời, phản động thì dù muốn hay không, nó cũng không thể thực hiện tốt chức năng xã hội của nhà nước. Khi đó, nền kinh tế - xã hội sớm muộn sẽ rơi vào tình trạng khủng hoảng. Do vậy, cố gắng thực hiện chức năng xã hội ở mức độ cần thiết có vai trò vô cùng quan trọng trong việc củng cố địa vị thống trị của giai cấp cầm quyền, của lực lượng cầm quyền. Bởi vì, chính chức năng xã hội là cơ sở, điều kiện và phương thức thực hiện chức năng giai cấp của nhà nước, “sự thống trị giai cấp chỉ có thể tồn tại với điều kiện là nó bảo đảm được cho những người bị áp bức không bị nghèo túng đến cùng cực”(4).

Đề cập đến chức năng của nhà nước xã hội chủ nghĩa, Ph. Ăng-ghen luôn nhắc nhở cần phải coi chức năng xã hội là thuộc tính cơ bản nhất và quan trọng nhất của nhà nước. Tuy nhiên, nhà nước xã hội chủ nghĩa là nhà nước không nguyên nghĩa, là nhà nước “nửa nhà nước” nên chức năng xã hội của nó cũng phải thay đổi. Ph. Ăng-ghen khẳng định: “Tất cả mọi người xã hội chủ nghĩa đều đồng ý công nhận rằng nhà nước và cùng với nhà nước là quyền uy chính trị, sẽ mất đi sau cuộc cách mạng xã hội tương lai, nghĩa là những chức năng xã hội sẽ mất tính chất chính trị và sẽ biến thành những chức năng quản lý đơn thuần chăm lo đến lợi ích của xã hội”(5). Điều đó cho thấy, khi xã hội không còn giai cấp thì những nội dung thuộc chức năng xã hội của nhà nước sẽ do xã hội tự đảm nhiệm.

Vận dụng quan điểm của Ph. Ăng-ghen vào giải quyết vấn đề đổi mới chức năng xã hội của nhà nước ở Việt Nam hiện nay

Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là nhà nước dựa trên chế độ công hữu về những tư liệu sản xuất chủ yếu (đó là điều kiện khách quan cho sự bình đẳng về kinh tế); mặt khác, giai cấp thống trị chính trị là giai cấp công nhân - đó là giai cấp của những người lao động, có lợi ích cơ bản thống nhất với lợi ích của quảng đại quần chúng nhân dân. Vì thế, nhà nước Việt Nam có cơ sở khách quan cho sự thống nhất giữa tính giai cấp và tính nhân dân.

Tuy nhiên, thời kỳ trước đổi mới, vì những nguyên nhân khác nhau, chúng ta có sự lệch lạc trong thực hiện chức năng xã hội của Nhà nước. Cụ thể, quy những chức năng đa dạng của Nhà nước vào chức năng giai cấp, ít quan tâm nghiên cứu tính xã hội, chức năng xã hội của Nhà nước, quá nhấn mạnh tính giai cấp, tính chính trị của Nhà nước. Đem mô hình nhà nước trong thời kỳ chiến tranh áp đặt vào thời kỳ hòa bình. Vận dụng hình thức quản lý nhà nước ở Liên Xô một cách rập khuôn, máy móc. Quan niệm một cách giản đơn về tăng cường chức năng xã hội của Nhà nước, cho rằng Nhà nước can thiệp càng sâu càng tốt, càng tỉ mỉ càng tốt, tức là tính nhà nước “càng nhiều càng tốt”. Từ đó, dẫn đến tình trạng tổ chức bộ máy cồng kềnh, nặng nề, hoạt động kém hiệu quả; nhà nước hóa tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, không kích thích được tính năng động, sáng tạo của con người.

Bước vào thời kỳ đổi mới, tại Đại hội VI, Đảng ta khẳng định: “Thực hiện một cuộc cải cách lớn về tổ chức bộ máy của các cơ quan nhà nước”(6). Tuy nhiên, sau 5 năm thực hiện, Nhà nước vẫn chưa có những chuyển biến đáng kể, có những mặt chưa vượt khỏi cơ chế cũ, thậm chí còn tạo ra khe hở và cản trở mới trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước. Từ thực tế đó, đến Đại hội VII, Đảng ta ý thức được rằng, để khắc phục những khiếm khuyết của bộ máy nhà nước, để cơ quan nhà nước thực hiện chức năng xã hội một cách có hiệu quả, không chỉ dừng lại ở cải cách bộ máy, mà là đổi mới căn bản cả về thiết chế tổ chức, cả về cơ chế hoạt động của Nhà nước. Do vậy, từ sau Đại hội VII của Đảng, chúng ta càng có quyết tâm cao hơn trong đổi mới Nhà nước, nhất là đổi mới phương thức hoạt động của Nhà nước.

Do có quyết tâm cao trong đổi mới Nhà nước từ Đại hội VII đến nay mà vị trí, vai trò và chức năng xã hội của Nhà nước có sự chuyển biến rõ rệt. Đại hội XII của Đảng nhận định: “Vai trò của Nhà nước được điều chỉnh phù hợp hơn với cơ chế thị trường, ngày càng phát huy dân chủ trong đời sống kinh tế - xã hội”(7). Nhà nước chuyển dần từ vai trò “một người bảo trợ” chung cho toàn xã hội thành “người cầm lái”, người khởi xướng tổ chức các hoạt động xã hội và là chủ thể hoạch định, thực thi các chính sách xã hội.

Tuy nhiên, quá trình thực hiện chức năng xã hội của Nhà nước ở Việt Nam hiện nay cũng đang đặt ra một số vấn đề:

Thứ nhất, xây dựng môi trường pháp lý chưa đầy đủ, thiếu đồng bộ, chưa bảo đảm thuận lợi cho phát triển xã hội, còn có sự nhầm lẫn giữa chức năng kinh tế và chức năng xã hội. Chẳng hạn, Việt Nam đang phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Điều đó đòi hỏi Nhà nước phải đổi mới phương thức điều hành, quản lý kinh tế, xã hội, giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa Nhà nước với doanh nghiệp và công dân, giữa các thành phần kinh tế và giữa các chủ thể sở hữu. Thế nhưng, hệ thống pháp luật trong quản lý kinh tế thị trường chưa hoàn thiện; hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về kinh tế còn kém, mà nguyên nhân là do Nhà nước can thiệp quá mức vào nền kinh tế, không phù hợp với sự vận động của thị trường, trong khi lại thiếu công cụ và cơ chế giám sát, chế tài để bảo đảm các chủ thể tham gia các quan hệ thị trường tuân thủ “luật chơi” đã đề ra. Do đó, Đại hội XII của Đảng nhận xét: “Hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước chưa cao; kỷ luật, kỷ cương không nghiêm; Nhà nước còn can thiệp trực tiếp, quá lớn trong nền kinh tế. Vẫn còn tình trạng bao cấp, xin - cho trong xây dựng và thực hiện một số cơ chế, chính sách”(8).

Thứ hai, việc thực hiện các chính sách xã hội vẫn còn nhiều hạn chế. Đặc thù của chính sách xã hội ở Việt Nam hiện nay là nó được Nhà nước đứng ra tổ chức thực hiện. Nhà nước vẫn vừa là người ban hành chính sách, vừa là người thực hiện chính sách thông qua bộ máy của mình. Tại nhiều địa phương còn có tình trạng thiếu sự phân tách giữa quản lý nhà nước và cung cấp dịch vụ (cán bộ chính quyền vừa xét duyệt đối tượng trợ cấp xã hội, vừa thực hiện việc chi trả trợ cấp). Hệ thống chính sách xã hội hiện còn phân tán, chưa có sự gắn kết, tính thống nhất chưa cao và độ bao phủ thấp. Nguồn tài chính để thực hiện chính sách xã hội chủ yếu là từ ngân sách nhà nước. Người dân vẫn chưa ý thức được nguyên tắc “có đóng thì có hưởng” trong hoạt động bảo hiểm.

Trong điều kiện hiện nay, để thực hiện tốt chức năng xã hội của mình, hoạt động của Nhà nước cần dựa trên một số nguyên tắc sau:

Một là, thực hiện chức năng xã hội trên cơ sở thống nhất biện chứng với chức năng giai cấp; xây dựng chính sách xã hội dựa trên điều kiện kinh tế của đất nước và phát triển kinh tế phải gắn liền với phát triển văn hóa, tiến bộ xã hội và công bằng xã hội. Do vậy, đổi mới và tăng cường chức năng xã hội của Nhà nước không có nghĩa là coi nhẹ, bỏ qua chức năng giai cấp, mà là sự thể hiện và khẳng định bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước ta do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Đồng thời, trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chức năng giai cấp của Nhà nước cũng cần đổi mới theo hướng xây dựng nhà nước kiến tạo, như mục tiêu của Chính phủ đề ra: “Phải chuyển mạnh từ nhà nước điều hành nền kinh tế sang nhà nước kiến tạo phát triển”. Nhà nước cần phát huy thế mạnh của mình là tạo khuôn khổ thể chế và mọi điều kiện cần thiết khác để từng người dân có thể dễ dàng làm ăn và mưu cầu hạnh phúc. Xây dựng cho được những khuôn khổ thể chế cần thiết để công việc làm ăn của người dân ngày một dễ dàng hơn. Trong sản xuất, kinh doanh, sự minh bạch phải được tăng cường, các hợp đồng phải được tôn trọng và bảo vệ, các tranh chấp phải được giải quyết nhanh chóng và hiệu quả. Ngoài ra, một điều kiện không thể thiếu trong vai trò của Nhà nước ở đây là bảo đảm sự ổn định kinh tế vĩ mô.

Hai là, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Chỉ có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa mới có đầy đủ cơ sở khách quan để giải quyết hài hòa các quan hệ lợi ích trong xã hội; phát huy được quyền dân chủ của nhân dân, bảo đảm quyền sống, quyền được làm việc, lao động, học hành của công dân, bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn xã hội. Ở đó, mọi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đều xuất phát từ nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, được nhân dân tham gia ý kiến khi xây dựng, hoạch định và ở đó, dân chủ được thực hiện đầy đủ, nghiêm túc trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó dân chủ đi đôi với kỷ cương, trật tự, được thể chế hóa thành pháp luật và trong khuôn khổ của pháp luật. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân phải biểu hiện được sức mạnh trực tiếp của hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Ba là, Nhà nước sử dụng các nguồn lực của mình và các công cụ, cơ chế, chính sách để định hướng, điều tiết nền kinh tế, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội trong từng bước, từng chính sách phát triển. Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, bên cạnh sự phát triển tất yếu của xã hội, xuất hiện sự phân hóa giàu nghèo ngày càng tăng. Do vậy, Nhà nước cần có những biện pháp phân phối lại của cải xã hội nhằm hạn chế sự phân hóa này, giữ vững ổn định xã hội, tránh để xảy ra mâu thuẫn, xung đột trong xã hội. Nhà nước thực hiện phân phối thu nhập quốc dân một cách công bằng, thực hiện tăng trưởng kinh tế gắn với cải thiện đời sống nhân dân, với tiến bộ và công bằng xã hội. Điều này thể hiện rõ nhất tính định hướng xã hội của nền kinh tế thị trường ở nước ta.

Trong thu nhập, Nhà nước sử dụng các biện pháp: điều tiết tăng thu nhập thông qua trợ cấp, ưu đãi đối với người có công với đất nước; có chính sách đối với người yếu thế, dễ bị tổn thương trong xã hội, như người già, trẻ mồ côi không nơi nương tựa, người tàn tật; điều tiết giảm thu nhập thông qua công cụ thuế đối với người có thu nhập cao, như thuế thu nhập cá nhân, thuế thu nhập doanh nghiệp. Việc điều chỉnh thuế sẽ góp phần phân phối lại một bộ phận thu nhập trong xã hội.

Trong giải quyết vấn đề an sinh xã hội, Nhà nước có vai trò quyết định tới việc nâng cao phúc lợi công cộng, xóa đói, giảm nghèo, giải quyết các vấn đề về việc làm, sức khoẻ, bảo hiểm y tế, lương hưu, trợ cấp khó khăn.

Bốn là, kết hợp hài hòa giữa “nhà nước hóa” và “xã hội hóa”, kết hợp Nhà nước và nhân dân cùng làm trong việc giải quyết các vấn đề xã hội và trong các lĩnh vực thiết yếu như y tế, văn hóa, giáo dục đào tạo, bảo vệ môi trường...

Trong tình hình hiện nay, chức năng xã hội của Nhà nước phải được nhận thức và thực hiện theo tư duy mới, cơ chế mới, phương thức và cách làm mới. Trên cơ sở phân định rõ sự bao cấp và sự đầu tư xã hội, Nhà nước không thể đầu tư hoặc bao cấp tràn lan, đơn phương, độc quyền, tự coi mình là nhà cung cấp duy nhất, chịu trách nhiệm duy nhất trong việc thực hiện chức năng xã hội, mà cần có cơ chế, chính sách phù hợp để khai thác mọi tiềm năng, động viên mọi nguồn lực trong nhân dân và các thành phần kinh tế, thực hiện chủ trương xã hội hóa, kết hợp nhà nước và nhân dân cùng làm./.

-------------------------------------------

(1), (2), (3) C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 21, tr. 252, 255, 700
(4) C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Toàn tập, Sđd, t. 16, tr. 779
(5) C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Toàn tập, Sđd, t. 18, tr. 421 - 422
(6) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1987, tr. 118
(7), (8) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr. 98, 100

PGS. TS.Lê Thị Thanh Hà