Ý nghĩa phương pháp luận của llsx và qhsx

Câu hỏi: Anh chị hãy phân tích nội dung cơ bản của quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất (hay quy luật llsx quyết định qhsx). Đảng cộng sản việt nam đã và đang vận dụng quy luật này như thế nào vào quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.

Trả lời:

1. Nội dung quy luật:

Quy luật về sự phù hợp của QHSX với trình độ phát triển của LLSX có 2 nội dung lớn:

- LLSX quyết định QHSX.

- Sự tác động ngược lại của QHSX đến LLSX.

2. Phân tích nội dung quy luật:

* Lực lượng sản xuất:

- LLSX biểu hiện mối quan hệ giữa con người với giới tự nhiên, là năng lực thực tiễn của con người trong quá trình sản xuất vật chất.

- LLSX là sự kết hợp giữa người/sức lao động với tư liệu sản xuất (TLSX).

+ Người/sức lao động bao gồm trí lực và thể lực, trong đó trí lực giữ vai trò hàng đầu.

+ TLSX gồm 2 loại là tư liệu lao động và đối tượng lao động.

- Tư liệu lao động là cái cần thiết trong quá trình lao động, nó gồm có 2 bộ phận: phương tiện lao động và công cụ lao động, trong đó công cụ lao động là quan trọng nhất. Công cụ lao động là tư liệu lao động dẫn truyền trực tiếp sức lao động của người lao động lên đối tượng lao dộng, nó là yếu tố động nhất, cách mạnh nhất, thay đổi hàng ngày hàng giờ trong quá trình sản xuất của nhân loại, nó nói lên năng suất lao động của XH. Công cụ càng hiệu quả, năng suất lao động càng cao, nó nói lên trình độ chinh phục và cải tạo tự nhiên của con người, nó nói lên sự phân biệt của các thời kỳ kinh tế.

- Đối tượng lao động gồm:

+ Đối tượng có sẵn trong tự nhiên: ngày xưa là quan trọng nhất.

+ Đối tượng do con người làm ra: ngày nay quan trọng nhất. LLSX có tính cá nhân và xã hội:

XH: LLSX do nhiều người cùng phối hợp sử dụng để tạo ra sản phẩm của XH.

Cá nhân: LLSX do 1 con người lao động sử dụng để sản xuất ra sản phẩm của XH.

→ Như vậy, XH ngày càng phát triển thì LLSX có xu hướng ngày càng mang tính XH. Ví dụ: 1 cái máy trong nhà máy nhiều người dúng những người khác nhau đứng ở giai đoạn khác nhau mới làm ra được sản phẩm, nhưng những sản phẩm làm ra rơi vào tay 1 người. Đó là sự bi đát của CNTB gây ra mâu thuẫn trong CNTB.

- Trình độ phát triển của LLSX ngày càng cao, cao nhất là trong thời đại chúng ta. Do:

+ Lý do mang tính chất xuyên suốt chiều dài lịch sử (lý do cơ bản): ngưởi lao động luôn luôn tự hoàn thiện năng lực lao động của mình, luôn luôn tìm kiếm những công cụ, phương tiện lao động mới để cho quá trình lao động của mình ngày càng nhẹ nhàng hơn và hiệu quả hơn. Vì vậy mà hàng ngày hàng giờ và muôn đời nay con người luôn luôn làm cho LLSX phát triển không ngừng.

+ Trong thời đại ngày nay, đặc biệt là từ khi CNTB ra đời đến nay, có 1 lý do, đó là sự tác động trực tiếp của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật trước đây và CM khoa học công nghê ngày nay.

→ Đây là lý do chủ yếu trong thời đại chúng ta, cho nên nói cuộc CMKH công nghệ ngày nay là cuộc CM của LLSX, nó làm thay đổi tính chất và trình độ của LLSX.

* Quan hệ sản xuất

- QHSX là quan hệ giữa con người với con người trong quá trình sản xuất, nó bao gồm 3 mối quan hệ co bản: QH về sở hữu tư liệu SX, QH trong việc tổ chức và quản lý SX, QH trong việc phân phối sản phẩm làm ra. Trong đó, QH sở hữu về TLSX giữ vai trò quyết định. Vì thường thì ai nắm quyền sở hữu TLSX, người đó được quyền tổ chức, quản lý nguồn máy sản xuất của Xh, người đó được quyền phân phối sản phẩm do XH làm ra. Vì vậy khi thay đổi QH sở hữu là thay đổi trật tự kinh tế XH. Muốn thay đổi trật tự kinh tế thì trước hết phải thay đổi chế độ sở hữu. Chế độ SH như thế nào thì trật tư kinh tế như thế ấy. Nhưng ngày nay, không phải nơi nào cũng thế.

- Trong nền sản xuất TBCN hiện đại có xu hướng tách ra quyền sở hữu với quyền tổ chức, quản lý. Ông chủ là ông chủ, còn giám đốc làm giám đốc.

-Các QHSX hợp thành hệ thống tương đối ổn định (hình thức xã hội của quá trình SX) so với sự vận động và phát triển liên tục của LLSX (nội dung xã hội của quá trình SX).

* LLSX quyết định QHSX:

-Sự phát triển của LLSX (nâng cao trình độ và thay đổi tính chất) đã làm thay đổi QHSX sao cho phù hợp với LLSX được thể hiện như sau:

-PTSX mới ra đời, QHSX luôn phù hợp với trình độ và tính chất của LLSX. Khi PTSX mới ra đời, QHSX về cơ bản là phù hợp nhưng thỉnh thoảng có trường hợp không phù hợp. Ví dụ: Nước ta bắt đầu thời kỳ quá độ lên CNXH. Chúng ta duy ý chí, làm cho QHSX có nhiều yếu tố phát triển quá nhanh, vượt xa trình độ, tính chất của LLSX. Đó là QH sở hữu tiên tiến (SH Nhà nước, Sh tập thể) lại tồn tại trên 1 trật tự kinh tế LLSX rất ư là lạc hậu, dẫn đến không phù hợp. Đây là trường hợp hiếm khi xảy ra, thường thì QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX.

-QHSX (QHSH tư liệu SX…) khá ổn định, chậm thay đổi, còn LLSX (công cụ lao động,…) luôn thay đổi. Lúc đầu thì phụ hợp nhưng sau đó chúng lại không phù hợp do tốc độ thay đổi của chúng không như nhau. Vì QHSX thay đổi chậm, trong đó QHSH là thay đổi chậm nhất (do QHSh thường được pháp luật, hiến pháp quy định, nó tạo thành trật tự nền tảng KT-XH nên không dễ dàng thay đổi được. Trong khi đó, LLSX, đặc biệt là công cụ lao động thay đổi rất nhanh.

-Khi LLSX thay đổi đến một trình độ và tính chất nào đó thì nó sẽ không còn phù hợp với QHSX nữa, tức là nó mâu thuẫn với QHSX hiện có.

Mâu thuẩn này ngày càng gay gắt đòi hỏi phải được giải quyết bằng cách xóa bỏ QHSX cũ, thay thế vào đó QHSX mới cho phù hợp với trình độ và tính chất mới của LLSX. Ta thay đổi QHSX thông qua CMXH diễn ra trên lĩnh vực kinh tế, gọi là cách mạng kinh tế, mới thay đổi được QHSX.

→Từ đó PTSX cũ mất đi, PTSX mới tiến bộ hơn ra đời.

* Sự tác động của QHSX đến LLSX:

Do QHSX có tính độc lập tương đối so với LLSX nên QHSX tác động ngược lại LLSX. QHSX có tính độc lập tương đối là do:

-QHSX là hình thức XH của quá trình SX. Xét đến cùng nó phụ thuộc, nhưng nó hoàn toàn không phụ thuộc, nó có tính độc lập tương đối.

-QHSX nói chung, QHSH nói riêng trực tiếp quy định mục đích của nền SX xã hội, và vì vậy nó tác động đến LLSX.

Ví dụ: CNTB, mục đích là sản xuất ra hàng hóa bán trên thị trường để tư sản thu được giá trị thặng dư m.

XHPK, địa chủ tổ chức sản xuất để thu địa tô.

Nước ta ngày nay mục đích sản xuất xã hội là SX ra nhiều của cải để thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng của nhân dân ta ngày càng cao, để mở rộng sản xuất, không chạy theo lợi nhuận.

-QHSX chi phối trực tiếp đến lợi ích của người lao động, nhất là QH quản lý và phân phối. Trước khi đổi mớii, người ta rất thờ ơ với sự phát triển của LLSX vì làm nhiều hay làm ít thì cũng hưởng như nhau. Ngày nay, làm theo lao động hưởng theo năng lực nên tạo điều kiện phát triển LLSX.

-QHSX thúc đẩy LLSX phát triển khi nó phù hợp với LLSX: Bình thường giai đoạn đầu là thúc đẩy nhưng có chỗ bất thường: nước ta trước đổi mới rơi vào tình trạnh duy ý chí, vì vậy tạo ra QHSX có những yếu tố vượt trước so với trình độ, tính chất của LLSX  kìm hãm làm LLSX ngày càng yếu đi, kinh tế rơi vào khủng hoảng.

-QHSX kìm hãm LLSX phát triển khi nó mâu thuẫn với LLSX, thường thường là giai đoạn cuối, tuy nhiên sự kìm hãm chỉ mang tính tạm thời, 1 lúc nào đó LLSX sẽ được giải phóng ra khỏi sự kìm hãm của QHSX để thúc đẩy phát triển tiến lên, nhưng để xóa bỏ 1 QHSX cũ lập 1 QHSX mới phải thông qua 1 cuộc CMXH, trước hết là cuộc CM diễn ra trên lĩnh vực kinh tế gọi là CM kinh tế. Chỉ có CMXH mới thay đổi được QHSX.

3. Đảng cộng sản việt nam đã và đang vận dụng quy luật này vào quá trình xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở nước ta như sau:

Sự phát triển của LLSX đòi hỏi phải có quan hệ SX phù hợp với LLSX:

-Đại hội Đảng lần VII đã nêu : để phù hợp với sự phát triển của LLSX, chúng ta phải thiết lập từng bước quan hệ SX XHCN từ thấp đến cao với sự đa dạng về hình thức sở hữu, phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng XHCN, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước => Chính điều này đã tạo ra sức sống động cho sự phát triển kinh tế, tạo ra được nhiều sản phẩm do khơi dậy tiềm năng, sức sản xuất và năng động vốn có của các thành phần kinh tế.

-Đại hội IX đã xác định : “Phát triển lực lượng sản xuất hiện đại gắn liền với xây dựng quan hệ sản xuất mới phù hợp trên cả 3 mặt : sở hữu, quản lý và phân phối”. Văn kiện Đại hội IX cũng đã xác định việc xây dựng chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu không thể xác lập nhanh chóng ồ ạt như trước đây mà phải là một quá trình kinh tế - xã hội lâu dài, qua nhiều bước, nhiều hình thức từ thấp đến cao …

-Và tại Đại hội Đảng lần thứ XI, Đảng ta đã tiếp tục khẳng định xã hội xã hội chủ nghĩa, có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp, Đây chính là một trong những định hướng đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta trong thời kỳ quá độ. Đồng thời cần thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

-Và theo Đảng, kinh tế thị trường là kết quả của sự phát triển llsx đến một trình độ nhất định, kết quả của sự phân công lao động và đa dạng hóa các loại hình thức sở hữu. Đảng ta đã khẳng định “Mục đích của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là phát triển llsx, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật, nâng cao dời sống nhân dân.

Nền văn minh nhân loại suy cho cùng là do sự phát triển đúng hướng của lực lượng sản xuất quyết định. Do đó việc nghiên cứu quy luật vận động và những hình thức phát triển của lực lượng sản xuất là một vấn đề hết sức quan trọng .

Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là thời kỳ cải biến cách mạng sâu sắc, toàn diện và triệt để về mọi mặt. Từ xã hội cũ sang xã hội mới XHCN. Thời kỳ đó bắt đầu từ khi giai cấp vô sản lên nắm chính quyền. Cách mạng vô sản thành công vang dội và kết thúc khi đã xây dựng xong cơ sở kinh tế chính trị tư tưởng của xã hội mới. Đó là thời kỳ xây dựng từ lực lượng sản xuất mới dẫn đến quan hệ sản xuất mới, quan hệ sản xuất mới hình thành lên các quan hệ sở hữu mới.

Ý nghĩa phương pháp luận của llsx và qhsx

Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài: 1900.6568

1. Đôi nét về phương thức sản xuất, lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất:

a. Phương thức sản xuất là gì?

Sản xuất vật chất được tiến hành bằng phương thức sản xuất nhất định. Phương thức sản xuất là cách thức con người thực hiện quá trình sản xuất vật chất ở những giai đoạn nhất định trong lịch sử tồn tại và phát triển của xã hội loài người. Phương thức sản xuất đóng vai trò nhất định đối với tất cả mọi mặt trong đời sống kinh tế xã hội. Phương thức sản xuất chính là sự thống nhất giữa lực lượng sản xuất ở một trình độ nhất định và quan hệ sản xuất tương ứng.

b. Lực lượng sản xuất là gì?

Lực lượng sản xuất là mối quan hệ của con người với tự nhiên hình thành trong quá trình sản xuất. Trình độ của lực lượng sản xuất thể hiện ở trình độ khống chế tự nhiên của con người. Đó là kết quả năng lực thực tiễn của con người tác động vào tự nhiên để tạo ra của cải vật chất đảm bảo sự tồn tại và phát triển của loài người.

Trong cấu thành của lực lượng sản xuất, có thể có một vài ý kiến nào đó khác nhau về một số yếu tố khác của lực lượng sản xuất, song suy cho cùng thì chúng đều vật chất hóa thành hai phần chủ yếu là tư liệu sản xuất và lực lượng con người. Trong đó tư liệu sản xuất đóng vai trò là khách thể, còn con người là chủ thể.

Tư liệu sản xuất được cấu thành từ hai bộ phận đó là đối tượng lao động và tư liệu lao động. Thông thường trong quá trình sản xuất phương tiện lao động còn được gọi là cơ sở hạ tầng của nền kinh tế. Trong bất kỳ một nền sản xuất nào công cụ sản xuất bao giờ cũng đóng vai trò là then chốt và là chỉ tiêu quan trọng nhất. Hiện nay công cụ sản xuất của con người không ngừng được cải thiện và dẫn đến hoàn thiện, nhờ thành tựu của khoa học kỹ thuật đã tạo ra công cụ lao động công nghiệp máy móc hiện đại thay thế dần lao động của con người. Do đó công cụ lao động luôn là độc nhất, cách mạng nhất của lực lượng sản xuất.

Xem thêm: Chuyên chính vô sản là gì? Nhà nước chuyên chính vô sản theo Mác – Lênin

Bất kỳ một thời đại lịch sử nào, công cụ sản xuất bao giờ cũng là sản phẩm tổng hợp, đa dạng của toàn bộ những phức hợp kỹ thuật được hình thành và gắn liền với quá trình sản xuất và phát triển của nền kinh tế. Nó là sự kết hợp của nhiều yếu tố trong đó quan trọng nhất và trực tiếp nhất là trí tuệ con người được nhân lên trên cơ sở kế thừa nền văn minh vật chất trước đó.

Nước ta là một nước giàu tài nguyên thiên nhiên, có nhiều nơi mà con người chưa từng đặt chân đến nhưng nhờ vào tiến bộ của KHKT và quá trình công nghệ tiên tiến con người có thể tạo ra được sản phẩm mới có ý nghĩa quyết định tới chất lượng cuộc sống và giá trị của nền văn minh nhân loại. Chính việc tìm kiếm ra các đối tượng lao động mới sẽ trở thành động lực cuốn hút mọi hoạt động của con người.

Tư liệu lao động dù có tinh sảo và hiện đại đến đâu nhưng tách khỏi con người thì nó cũng không phát huy tác dụng của chính bản thân. Chính vậy mà Lê Nin đã viết: “ lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn thể nhân loại là công nhân, là người lao động “. Người lao động với những kinh nghiệm, thói quen lao động, sử dụng tư liệu sản xuất để tạo ra của cải vật chất. Tư liệu sản xuất với tư cách là khách thể của lực lượng sản xuất, và nó chỉ phát huy tác dụng khi nó được kết hợp với lao động sống của con người . Đại hội VII của Đảng đã khẳng định: “ Sự nghiệp phát triển kinh tế đặt con người lên vị trí hàng đầu, vị trí trung tâm thống nhất tăng trưởng kinh tế với công bằng khoa học và tiến bộ xã hội”.

Người lao động với tư cách là một bộ phận của lực lượng sản xuất xã hội phải là người có thể lực, có tri thức văn hóa, có trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao, có kinh nghiệm và thói quen tốt, phẩm chất tư cách lành mạnh, lương tâm nghề nghiệp và trách nhiệm cao trong công việc. Trước đây do chưa chú trọng đúng mức đến vị trí của người lao động, chúng ta chưa biết khai thác phát huy mọi sức mạnh của nhân tố con người. Đành rằng năng lực và kinh nghiệm sản xuất của con người còn phụ thuộc vào những tư liệu sản xuất hiện có mà họ đang sử dụng. Nhưng tích cực sáng tạo của họ đã thúc đẩy nền kinh tế phát triển.

c. Quan hệ sản xuất là gì?

Quan hệ sản xuất là phạm trù triết học chỉ quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất (sản xuất và tái sản xuất xã hội). Quan hệ sản xuất bao gồm quan hệ sở hữu các tư liệu sản xuất chủ yếu, quan hệ về tổ chức và quản lý sản xuất và quan hệ về phân phối các sản phẩm làm ra… Quan hệ sản xuất do con người tạo ra nhưng sự hình thành và phát triển một cách khách quan không phụ thuộc vào ý chí con người.

Nếu như quan niệm lực lượng sản xuất là mặt tự nhiên của sản xuất thì quan hệ sản xuất lại là mặt xã hội của sản xuất.

Quan hệ sản xuất gồm có 3 mặt:

Xem thêm: Quan điểm toàn diện là gì? Cơ sở lý luận, nội dung và yêu cầu?

+ Quan hệ giữa người với người trong việc chiếm hữu những tư liệu sản xuất chủ yếu (gọi tắt là quan hệ sở hữu)

+ Quan hệ giữa người với người trong việc tổ chức, quản lý xã hội và trao đổi hoạt động cho nhau (gọi tắt là quan hệ tổ chức, quản lý).

+ Quan hệ giữa người với người trong phân phối, lưu thông sản phẩm làm ra (gọi tắt là quan hệ phân phối lưu thông)

 Trong ba mặt của quan hệ sản xuất thì quan hệ sử hữu các tư liệu sản xuất chủ yếu là quan hệ cơ bản và đặc trưng cho từng xã hội. Quan hệ về sở hữu quyết định quan hệ về tổ chức quản lý sản xuất và quan hệ phân phối các sản phẩm làm ra.

Trong cải tạo và củng cố quan hệ sản xuất vấn đề quan trọng mà Đại hội VI nhấn mạnh là phải tiến hành cả ba mặt đồng bộ: chế độ sở hữu, chế độ quản lý và chế độ phân phối không nên coi trọng một mặt nào cả về mặt lý luận, không nghi ngờ gì rằng: chế độ sở hữu là nền tảng quan hệ sản xuất. Nó là đặc trưng để phân biệt chẳng những các quan hệ sản xuất khác nhau mà còn các thời đại kinh tế khác nhau trong lịch sử như mức đã nói.

– Thực tế lịch sử cho thấy rõ bất cứ một cuộc cách mạng xã hội nào đều mang một mục đích kinh tế là nhằm bảo đảm cho lực lượng sản xuất có điều kiện tiếp tục phát triển thuận lợi và đời sống vật chất của con người cũng được cải thiện. Đó là tính lịch sử tự nhiên của các quá trình chuyển biến giữa các hình thái kinh tế – xã hội trong quá khứ và cũng là tính lịch sử tự nhiên của thời kỳ quá độ từ hình thái kinh tế – xã hội tư bản chủ nghĩa sang hình thái kinh tế – xã hội cộng sản chủ nghĩa.

– Và xét riêng trong phạm vi một quan hệ sản xuất nhất định thì tính chất của sở hữu cũng quyết định tính chất của quản lý và phân phối. Mặt khác trong mỗi hình thái kinh tế – xã hội nhất định quan hệ sản xuất thống trị bao giờ cũng giữ vai trò chi phối các quan hệ sản xuất khác ít nhiều cải biến chúng để chẳng những chúng khong đối lập mà còn phục vụ đắc lực cho sự tồn tại và phát triển của chế độ kinh tế – xã hội mới.

Nếu suốt trong quá khứ, đã không có một cuộc chuyển biến nào từ hình thái kinh tế – xã hội sang hình thái kinh tế – xã hội khác hoàn toàn là một quá trình tiến hóa êm ả, thì thời kỳ quá độ từ hình thái kinh tế – xã hội tư bản chủ nghĩa hoặc trước tư bản chủ nghĩa sang hình thái kinh tế cộng sản chủ nghĩa (CSCN) trong thời đại ngày nay càng không thể là một quá trình êm ả. Chủ nghĩa Mác – Lênin chưa bao giờ coi hình thái kinh tế – xã hội nào đã tồn tại kể từ trước đến nay là chuẩn nhất.

Xem thêm: Phủ định biện chứng là gì? Các đặc điểm cơ bản của phủ định biện chứng?

Trong mỗi hình thái kinh tế – xã hội cùng với một quan hệ sản xuất thống trị, điển hình còn tồn tại những quan hệ sản xuất phụ thuộc, lỗi thời như là tàn dư của xã hội cũ. Ngay ở cả các nước tư bản chủ nghĩa phát triển nhất cũng không chỉ có một quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa thuần nhất. Tất cả các tình hình trên đều bắt nguồn từ phát triển không đều về lực lượng sản xuất không những giữa các nước khác nhau mà còn giữa các vùng và các ngành khác nhau của một nước. Việc chuyển từ quan hệ sản xuất lỗi thời lên cao hơn như C.Mác nhận xét: “Không bao giờ xuất hiện trước khi những điều kiện tồn tại vật chất của những quan hệ đó chưa chín muồi…” phải có một thời kỳ lịch sử tương đối lâu dài mới có thể tạo ra điều kiện vật chất trên.

2. Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất:

Quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất mâu thuẫn hay phù hợp

Trong tác phẩm góp phần phê phán khoa kinh tế – chính trị năm 1859 C.Mác viết “Trong sự sản xuất xã hội ra đời sống của mình, con người ta có những quan hệ nhất định, tất yếu không phụ thuộc ý muốn của họ, tức những quan hệ sản xuất. Những quy luật này phù hợp với một trình độ phát triển nhất định của lực lượng sản xuất. Những quan hệ này phù hợp với một trình độ phát triển nhất định của lực lượng sản xuất vật chất của họ…” Người ta thường coi tư tưởng này của Mác là tư tưởng về “quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất”.

Cho đến nay hầu như quy luật này đã được khẳng định cũng như các nhà nghiên cứu triết học Mác xít. Khái niệm “phù hợp” được hiểu với nghĩa chỉ phù hợp mới tốt, mới hợp quy luật, không phù hợp là không tốt, là trái quy luật. Có nhiều vấn đề mà nhiều lĩnh vực đặt ra với từ “phù hợp” này. Các mối quan hệ trong sản xuất bao gồm nhiều dạng thức khác nhau mà nhìn một cách tổng quát thì đó là những dạng quan hệ sản xuất và dạng những lực lượng sản xuất từ đó hình thành những mối lien hệ chủ yếu cơ bản là mối liên hệ giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Nhưng mối liên hệ giữa hai yêu tố cơ bản này là gì? Phù hợp hay không phù hợp. Thống nhất hay mâu thuẫn? Trước hết cần xác định khái niệm phù hợp với các ý nghĩa sau.

– Phù hợp là sự cân bằng, sự thống nhất giữa các mặt đối lập hay “sự yên tính” giữa các mặt.

– Phù hợp là một xu hướng mà những dao động không cân bằng sẽ đạt tới.

Trong phép biện chứng sự cân bằng chỉ là tạm thời và sự không cân bằng là tuyệt đối. Chính đây là nguồn gốc tạo nên sự vận động và phát triển . Ta biết rằng trong phép biện chứng cái tương đối không tách khỏi cái tuyệt đối nghĩa là giữa chúng không có mặt giới hạn xác định. Nếu chúng ta nhìn nhận một cách khác có thể hiểu sự cân bằng như một sự đứng im, còn sự không cân bằng có thể hiểu như sự vận động. Tức sự cân bằng trong sản xuất chỉ là tạm thời còn không cân bằng không phù hợp giữa chúng là tuyệt đối. Chỉ có thể quan niệm được sự phát triển chừng nào người ta thừa nhận tính chân lý vĩnh hằng của sự vận động. Cũng vì vậy chỉ có thể quan niệm được sự phát triển chừng nào người ta thừa nhận, nhận thức được sự phát triển trong mâu thuẫn của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất chừng nào ta thừa nhận tính vĩnh viễn không phù hợp giữa chúng.

Từ những lý luận đó đi đến thực tại nước ta cũng vậy với quá trình phát triển lịch sử lâu dài của mình từ thời đồ đá đến nay thời văn minh hiện đại. Nước ta đi từ sự không phù hợp hay sự lạc hậu từ trước lên đến nay nền văn minh đất nước. Tuy nhiên quá trình vận động và phát triển của sản xuất là quá trình đi từ sự không phù hợp đến sự phù hợp, nhưng trạng thái phù hợp chỉ là sự tạm thời, ngắn ngủi, ý muốn tạo nên sự phù hợp vĩnh hằng giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất là trái tự nhiên, là thủ tiêu cái không thủ tiêu được, tức là sự vận động.

Xem thêm: Chế độ tư hữu là gì? Chế độ tư hữu tư liệu sản xuất của tư bản chủ nghĩa?

Tóm lại, có thể nói thực chất của quy luật về mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là quy luật mâu thuẫn. Sự phù hợp giữa chúng chỉ là một cái trục, chỉ là trạng thái yên tĩnh tạm thời, còn sự vận động, dao động sự mâu thuẫn là vĩnh viễn chỉ có khái niệm mâu thuẫn mới đủ khả năng vạch ra động lực của sự phát triển mới có thể cho ta hiểu được sự vận động của quy luật kinh tế.

3. Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất:

Tất cả chúng ta đều biết, quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất là hai mặt hợp thành của phương thức sản xuất có tác động qua lại biện chứng với nhau. Việc đẩy quan hệ sản xuất lên quá xa so với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là một hiện tượng tương đối phổ biến ở nhiều nước xây dựng xã hội chủ nghĩa. Nguồn gốc của tư tưởng sai lầm này là bệnh chủ quan, duy ý chí, muốn có nhanh chủ nghĩa xã hội thuần nhất bất chấp quy luật khách quan. Về mặt phương pháp luận, đó là chủ nghĩa duy vật siêu hình, quá lạm dụng mối quan hệ tác động ngược lại của quan hệ sản xuất đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất. Sự lạm dụng này biểu hiện ở “Nhà nước chuyên chính vô sản có khả năng chủ động tạo ra quan hệ sản xuất mới để mở đường cho sự phát triển của lực lượng sản xuất”.

Nhưng khi thực hiện người ta đã quên rằng sự “chủ động” không đồng nghĩa với sự chủ quan tuỳ tiệ, con người không thể tự do tạo ra bất cứ hình thức nào của quan hệ sản xuất mà mình muốn có. Ngược lại quan hệ sản xuất luôn luôn bị quy định một cách nghiêm ngặt bởi trạng thái của lực lượng sản xuất, bởi quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất chỉ có thể mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển khi mà nó được hoàn thiện tất cả về nội dung của nó, nhằm giải quyết kịp thời những mâu thuẫn giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất.

+ Lực lượng sản xuất quyết định sự hình thành biến đổi của quan hệ sản xuất: lực lượng sản xuất là cái biến đổi đầu tiên và luôn biến đổi trong sản xuất con người muốn giảm nhẹ lao động nặng nhọc tạo ra năng suất cao phải luôn tìm cách cải tiến công cụ lao động. Chế tạo ra công cụ lao động mới. Lực lượng lao động quy định sự hình thành và biến đổi quan hệ sản xuất ki quan hệ sản xuất không thích ứng với trình độ, tính chất của lực lượng sản xuất thì nó kìm hãm thậm chí phá hoại lực lượng sản xuất thì nó kìm hãm thậm chí phá hoại lực lượng sản xuất và ngược lại.

+ Sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất khi đã được xác lập thì nó độc lập tương đối với lực lượng sản xuất và trở thành những cơ sở và những thể chế xã hội và nó không thể biến đổi đồng thời đối với lực lượng sản xuất. Thường lạc hậu so với lực lượng sản xuất và nếu quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ sản xuất, tính chất của lực lượng sản xuất thì nó thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất.

Nếu lạc hậu so với lực lượng sản xuất dù tạm thời thì nó kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Sở dĩ quan hệ sản xuất có thể tác động mạnh mẽ trở lại đối với lực lượng sản xuất vì nó quy định mục đích của sản xuất quy định hệ thống tổ chức quản lý sản xuất và quản lý xã hội, quy định phương thức phân phối và phần của cải ít hay nhiều mà người lao động được hưởng. Do đó nó ảnh hưởng tới thái độ tất cả quần chúng lao động. Nó tạo ra những điều kiện hoặc kích thích hoặc hạn chế sự phát triển công cụ sản xuất, áp dụng thành tựu khoa học kỹ thuật vào sản xuất hợp tác phân công lao động quốc tế.

4. Sự vận dụng của Đảng ta trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam:

a. Những sai lầm về quy luật quan hệ sản xuất – lực lượng sản xuất trước kia

Trong tiến trình lãnh đạo và quản lý đất nước của Đảng và Nhà nước ta trong suốt mấy chục năm qua, thực tiễn cho thấy những mặt được cũng như những mặt cũng như hạn chế trong quá trình nắm bắt và vận dụng các quy luật kinh tế cũng như quy luật quan hệ sản xuất – lực lượng sản xuất vào thực tiễn ở nước ta, với đặc điểm của nước ta là Nước nông nghiệp, nghèo nàn, lạc hậu, lực lượng sản xuất thấp kém, con trâu đi trước cái cày đi sau, trình độ quản lý thấp cùng với nền sản xuất nhỏ tự cấp, tự túc là chủ yếu. Mặt khác Nước ta là nước thuộc địa nửa phong kiến lại phải trải qua hai cuộc chiến tranh, nhiều năm bị đế quốc Mỹ bao vây cấm vận nhiều mặt, nhất là về kinh tế.

Do vậy lực lượng sản xuất chưa có điều kiện phát triển. Sau khi giành được chính quyền, trước yêu cầu xây dựng CNXH trong điều kiện nền kinh tế kém phát triển, Nhà nước ta đã dùng sức mạnh chí trị tư tưởng để xóa bỏ nhanh chế độ tư hữu, chuyển sang chế độ công hữu với hai hình thức toàn dân và tập thể, lúc đó được coi là điều kiện chủ yếu, quyết định, tính chất, trình độ xã hội hóa sản xuất cũng như sự thắng lợi của CNXH ở nước ta. Song trong thực tế cách làm này đã không mang lại kết quả như mong muốn, vì nó trái quy luật QHSX phải phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất, đã để lại hậu quả là:

Thứ nhất: Đối với những người sản xuất nhỏ (nông dân, thợ thủ công, buôn bán nhỏ) thì tư hữu về tư liệu sản xuất là phương thức kết hợp tốt nhất giữa sức lao động và tư liệu sản xuất. Việc tiến hành tập thể nhanh chóng tư liệu sản xuất dưới hình thức cá nhân bị tập trung dưới hình thức sở hữu công cộng, người lao động bị tách khỏi tư liệu sản xuất, không làm chủ được quá trình sản xuất, phụ thuộc vào lãnh đạo HTX, họ cũng không phải là chủ thể sở hữu thực sự dấn đến tư liệu sản xuất trở thành vô chủ, gây thiệt hại cho tập thể.

Thứ hai: Kinh tế quốc doanh thiết lập tràn lan trong tất cả các ngành. Về pháp lý tư liệu sản xuất cũng thuộc sở hữu toàn dân, người lao động là chủ sở hữu có quyền sở hữu chi phối, định đoạt tư liệu sản xuất và sản phẩm làm ra nhưng thực tế thì người lao động chỉ là người làm công ăn lương, chế độ lương lại không hợp lý không phản ánh đúng số lượng & chất lượng lao động của từng cá nhân đã đóng góp. Do đó chế độ công hữu về tư liệu sản xuất cùng với ông chủ của nó trở thành hình thức, vô chủ, chính quyền (bộ, ngành chủ quản) là đại diện của chủ sở hữu là người có quyền chi phối, đơn vị kinh tế mất dần tính chủ động, sáng tạo, mất động lực lợi ích, sản xuất kinh doanh kém hiệu quả nhưng lại không ai chịu trách nhiệm, không có cơ chế giàng buộc trách nhiệm, nên người lao động thờ ơ với kết quả hoạt động của mình.

Đây là căn nguyên nảy sinh tiêu cực trong phân phối, chỉ có một số người có quyền định đoạt phân phối vật tư, vật phẩm, đặc quyền đặc lợi.

Tuy vậy, trong quá trình lãnh đạo xã hội đẩy mạnh phát triển kinh tế Đang ta đang vận dụng quy luật sao cho quan hệ sản xuất luôn luôn phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất, trên thực tế Đảng và Nhà nước ta đang từng bước điều chỉnh quan hê san xuất cả tầm vi mô và vĩ mô thời coi trọng việc đẩy mạnh phát triển lực lương san xuất. Điều đó đã có một tác động tích cực đối với nền kinh tế nước ta.

a. Sự hình thành và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần trong giai đoạn hiện nay ở nước ta

Nhìn thẳng vào sự thật chúng ta thấy rằng, trong thời gian qua do quá cường điệu vai trò của quan hệ sản xuất do quan niệm không đúng về mối quan hệ giữa sở hữu và quan hệ khác, do quên mất điều cơ bản là nước ta quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội từ một xã hội tiền tư bản chủ nghĩa. Đồng nhất chế độ công hữu với chủ nghĩa xã hội lẫn lộn đồng nhất giữa hợp tác hóa và tập thể hóa. Không thấy rõ các bước đi có tính quy luật trên con đường tiến lên CNXH nên đã tiến hành ngay cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nền kinh tế quốc dân và xét về thực chất là theo đường lối “đẩy mạnh cải tạo xã hội chủ nghĩa, đưa quan hệ sản xuất đi trước mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển. Thiết lập chế độ công hữu thuần nhất giữa hai hình thức sở hữu toàn dân và tập thể”. Quan niệm cho rằng có thể đưa quan hệ sản xuất đi trước để tạo địa bàn rộng rãi, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển đã bị bác bỏ. Sự phát triển của lực lượng sản xuất xã hội này đã mâu thuẫn với những cái phân tích trên.

Nhưng thực ra mâu thuẫn giữa yêu cầu phát triển lực lượng sản xuất với những hình thức kinh tế – xã hội xa lạ được áp đặt một cách chủ quan kinh tế thích hợp cần thiết cho lực lượng sản xuất mới nảy sinh và phát triển. Khắc phục những hiện tượng tiêu cực trên là cần thiết về mặt này trên thực tế chúng ta chưa làm hết nhiệm vụ mình phải làm. Phải giải quyết đúng đắn giữa mâu thuẫn lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất từ đó khắc phục những khó khăn và tiêu cực của nền kinh tế. Thiết lập quan hệ sản xuất mới với những hình thức và bước đi phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất luôn luôn thúc đẩy sản xuất phát triển với hiệu quả kinh tế cao.

Trên cơ sở củng cố những đỉnh cao kinh tế trong tay nhà nước cách mạng. Cho phép phục hồi và phát triển chủ nghĩa tư bản và luôn bán tự do rộng rãi có lợi cho sự phát triển sản xuất. Mới đây các nhà báo của nước ngoài phỏng vấn Tổng bí thư Lê Khả Phiêu rằng “với một người có bằng cấp về quân sự nhưng không có bằng cấp về kinh tế ông có thể đưa nước Việt Nam tiến lên không”, trả lời phỏng vấn Tổng bí thư khẳng định rằng Việt Nam chúng tôi khác với các nước ở chỗ chúng tôi đào tạo một người lính thì người lính ấy phải có khả năng cầm súng và làm kinh tế rất giỏi, và ông còn khẳng định là không chấp nhận Việt Nam theo con đường chủ quan của tư bản, nhưng không phải triệt tiêu tư bản trên đất nước Việt Nam và vẫn quan hệ với chủ nghĩa tư bản trên cơ sở có lợi cho đôi bên và như vậy cho phép phát triển thành phần kinh tế tư bản là sáng suốt. Quan điểm từ đại hội VI cũng đã khẳng định không nhưng khôi phục thành phần kinh tế tư bản tư nhân và kinh tế cả thế mà phải phát triển chúng rộng rãi theo chính sách của Đảng và Nhà nước.

Nhưng điều quan trọng là phải nhận thức được vai trò của thành phần kinh tế nhà nước trong thời kỳ quá độ. Để thực hiện vai trò này một mặt nó phải thông qua sự nêu gương về các mặt năng suất, chất lượng và hiệu quả. Thực hiện đầy đủ đối với nhà nước. Đối với thành phần kinh tế tư bản tư nhân và kinh tế cá thể thực hiện chính sách khuyến khích phát triển. Tuy nhiên với thành phần kinh tế này phải có những biện pháp để cho quan hệ sản xuất thực hiện phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong thời kỳ quá độ. Vì như thế mới thực sự thúc đẩy sự phát triển của lực lượng lao động.

Ở nước ta trong giai đoạn hiện nay, phát triển kinh tế tập trung ở hai lực lượng chính: lực lượng sản xuất của doanh nghiệp nhà nước (thường gọi là quốc doanh, thuộc thành phần kinh tế nhà nước); lực lượng sản xuất ngoài quốc doanh (thường gọi là dân doanh, thuộc kinh tế tư nhân).

Ông bà ta thường nói: muốn biết bơi phải nhảy xuống nước. Còn Lênin, trong tác phẩm Chính sách kinh tế mới và những nhiệm vụ của các Ban giáo dục chính trị, đã viết: “Hoặc là tất cả những thành tựu về mặt chính trị của chính quyền X ô viết sẽ tiêu tan, hoặc là phải làm cho những thành tựu ấy đứng vững trên một cơ sở kinh tế. Cơ sở này hiện nay chưa có. Đấy chính là công việc mà chúng ta cần bắt tay vào làm đúng theo quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.

c. Công nghiệp hóa vận dụng tuyệt vời quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay

Thuộc phạm trù của lực lượng sản xuất và vận động không ngoài biện chứng nội tại của phương thức sản xuất, vấn đề công nghiệp hóa gắn chặt với hiện đại hóa, trước hết phải được xem xét từ tư duy triết học. Trước khi đi vào công nghiệp hóa – hiện đại hóa và muốn thành công trên đất nước thì phải có tiềm lực về kinh tế con người, trong đó lực lượng lao động là một yếu tố quan trọng. Ngoài ra phải có sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ phát triển lực lượng sản xuất đây mới là nhân tố cơ bản nhất.

Đất nước ta đang trong quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa với tiềm năng lao động lớn cần cù, thông minh, sáng tạo và có kinh nghiệm lao động nhưng công cụ của chúng ta còn thô sơ. Nguy cơ tụt hậu của đất nước ngày càng được khắc phục. Đảng ta đang triển khai mạnh mẽ một số vấn đề của đất nước về công nghiệp hóa – hiện đại hóa trước hết trên cơ sở một cơ cấu sở hữu hợp quy luật gắn liền với một cơ cấu các thành phần kinh tế hợp quy luật, cũng như cơ cấu một xã hội hợp giai cấp. Cùng với thời cơ lớn, những thử thách ghê gớm phải vượt qua để hoàn thành sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước vì dân giàu nước mạnh công bằng văn minh hãy còn phía trước mà nội dung cơ bản trong việc thực hiện là phải nhận thức đúng đắn về quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong giai đoạn hiện nay của nước ta.