4 câu 7 chữ là thể thơ gì

Tôi đã tìm đọc, nhưng chưa tìm thấy có bài viết nào nghiên cứu  nhịp điệu các loại thơ bảy chữ và thơ tám chữ. Muốn nghiên cứu một cách bài bản lịch sử phát triển của nó, thì phải có nguồn tư liệu phong phú trong một khoảng thời gian dài. Do đó trong bài viết này, tôi chỉ đi vào những nét khái quát cơ bản về nhịp điệu trong thơ bảy chữ và thơ tám chữ, coi như đây là bài nghiên cứu bước đầu về vấn đề này.

Trước tiên chúng ta phải xem xét nhịp điệu trong thơ Đường luật. Vì thơ Đường luật đã có từ rất lâu rồi, và ảnh hưởng đến các nhà thơ ViệtNamtrong một thời gian khá dài.

Thơ Đường luật có nhịp 4/3. Chúng ta hãy đọc hai câu trong bài Thu điếu của Nguyễn Khuyến:

Ao thu lạnh lẽo / nước trong veo

Một chiếc cần câu / bé tẻo teo

Hay như trong bài Hoài cổ của Bà Huyện Thanh Quan:

Lối xưa xe ngựa / hồn thu thảo

Ngõ cũ lâu đài / bóng tịch dương

Tất cả các câu thơ bảy chữ trong thơ Đường luật đều theo nhịp 4/3, không có ngoại lệ. Đường thi tuyệt cú cũng có nhịp 4/3 như vậy.

Sau này, các loại hình thơ bốn câu ba vần, không theo niêm, luật, đối…  như thơ Đường luật, nhưng nhịp điệu vẫn là nhịp 4/3 như thơ Đường luật. Ta hãy đọc khổ thơ đầu trong bài thơ Còn chơi theo điệu Lộng hoàn, dài 15 khổ, khá nổi tiếng của Tản Đà:

Ai đã hay đâu / tớ chán đời

Đời chưa chán tớ / tớ còn chơi

Chơi cho thật chán / cho đời chán,

Đời chán nhau thời / tớ sẽ thôi.

Hoặc thơ bốn câu hai vần cách. Ta hãy đọc một  khổ 4 câu trong bài Xuân của Chế Lan Viên:

Ai đâu trở lại / mùa thu trước

Nhặt lấy cho tôi / những lá vàng?

Với của hao tươi / muôn cánh rã,

Về đây, đem chắn / nẻo xuân sang!

Hoặc trong bài Tràng Giang của Huy Cận:

Sóng gợn tràng giang/ buồn điệp điệp

Con thuyền xuôi mái/ nước song song

Thuyền về nước lại / sầu trăm ngả

Củi một cành khô / lạc mấy giòng.

Hay như khổ thơ bốn câu hai vần bằng, trong bài Bẽn lẽn của Hàn Mặc Tử:

Trăng nằm sóng soài / trên cành liễu

Đợi gió đông về / để lả lơi

Hoa lá ngây tình / không muốn động

Lòng em hồi hộp / chị Hằng ơi…

    Hầu hết thơ tình của Xuân Diệu là thơ 7 chữ, nhịp 4/3, chia thành từng khổ 4 câu, như bài Trăng:

Trong vườn đêm ấy / nhiều trăng quá

Ánh trăng tuôn đầy / các lối đi

Tôi với người yêu / qua nhè nhẹ…

Im lìm không dám / nói năng chi.

Cũng như Xuân Diệu, thơ 7 chữ của Nguyễn Bính có nhịp 4/3, theo lối thơ Đường luật, ví dụ bài Cô lái đò:

Nhưng rồi người khách / tình xuân ấy

Đi biệt không về / với bến sông

Đã mấy lần  xuân / trôi chảy mãi

Mấy lần cô gái / mỏi mòn trông…

Không giống như thơ bảy chữ, được biến cải từ thơ Đường luật, có nhịp 4/3, có một loại hình thơ hoàn toàn là sáng tạo của ViệtNam. Đó là loại hình thơ bảy chữ theo nhịp điệu 3/4. Trước tiên phải kể đến thơ song thất lục bát, hai câu thất của song thất lục bát, chữ thứ bảy của câu thất đầu có vần trắc, chữ thứ bảy của câu thất thứ hai có vần bằng, hai câu thất này có nhịp 3/4:

Thuở trời đất / nổi cơn gió bụi

Khách má hồng / nhiều nỗi truân chuyên

Xanh kia thăm thẳm tầng trên

Vì ai gây dựng cho nên nỗi này.

Song thất lục bát nở rộ vào thế kỷ 18 với nhiều tác phẩm nổi tiếng như Chinh phụ ngâm của Đoàn Thị Điểm, Cung oán ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều…

Tiếp theo là sự phát triển của các loại hình thơ bảy chữ, tám chữ có nhịp điệu 3/4. Khó mà biết chính xác, các loại hình thơ này được phát triển vào thời gian nào. Thơ bảy chữ nhịp 4/3 phát triển vào khoảng thời kì Tản Đà, Hàn Mặc Tử, Thế lữ, Xuân Diệu… Thời kì này vẫn chưa có thơ bảy chữ nhịp 3/4. Đến thời kì thơ mới 1930 Xuân Diệu, Thế lữ, chế Lan Viên… vẫn làm thơ bảy chữ, mỗi khổ 4 câu ba vần bằng, nhịp 4/3.


Thơ bảy chữ nhịp 3/4:


Thơ bảy chữ, nhịp 3/4, không chia thành từng khổ 4 câu, mà liên hoàn nối tiếp nhau, có thể kéo dài vô tận (cũng có người chia thành từng khổ 4 câu). Chữ thứ bảy của câu đầu tiên có thể là vần trắc hoặc vần bằng. Nếu chữ  thứ bảy của câu đầu tiên là vần trắc thì chữ cuối của câu thứ hai và thứ ba là vần bằng và tiếp theo chữ cuối của hai câu thứ tư và thứ năm là vẫn trắc:

Bài Trường Sơn đông – Trường Sơn tây của Phạm Tiến Duật, có những câu thơ 7 chữ, nhịp 3/4:

Cùng mắc võng / trên rừng Trường Sơn

Hai đứa ở / hai đầu xa thẳm

Đường ra trận / mùa này đẹp lắm

Trường Sơn đông / nhớ Trường Sơn tây.


Một dãy núi / mà hai màu mây…

Có điều rất lạ, là Xuân Diệu không làm thơ bảy chữ nhịp 3/4, mà chỉ làm thơ bảy chữ từng khổ 4 câu, ba vần bằng, nhịp 4/3 theo nhịp thơ Đường luật.

Thơ bảy chữ, mỗi khổ 4 câu, ba vần bằng, cứ lặp lại đều đều làm cho người đọc thấy nhàm chán. Vì vậy các nhà thơ phải thay đổi hình thức thể hiện. Sự thay đổi nhịp điệu trong thơ bảy chữ từ nhịp 4/3 sang nhịp 3/4 là một sự sáng tạo đáng trân trọng của các nhà thơ. Nhịp điệu trong thơ đổi khác, sẽ làm cho thơ tươi mới hơn. Bây giờ không phải là từng khổ thơ bốn câu, mà là liên hoàn các câu thơ 7 chữ nối tiếp nhau, có thể kéo dài vô tận. Các vần bằng trắc kế tiếp, luân phiên nhau, làm cho nhạc điệu bài thơ lúc lên bổng, lúc xuống trầm, thanh điệu đa dạng, khả năng diễn đạt đa dạng hơn, làm cho người đọc không thấy nhàm chán.

Có lẽ, sự thay đổi nhịp điệu thơ bảy chữ từ 4/3 sang 3/4 bắt nguồn từ thơ song thất lục bát. Thời gian ra đời của loại hình thơ này khó mà xác định được chính xác. Cho đến nay, cũng chưa biết ai là người làm loại thơ này đầu tiên. Chỉ có thể phỏng đoán, loại thơ này ra đời vào khoảng nửa sau thế kỉ 20, tức là cách nay khoảng năm, sáu chục năm. Thời gian như vậy không phải là lâu, cho việc phát triển một loại hình thơ mới.


Thơ tám chữ nhịp 3/5


Giống như thơ 7 chữ nhịp 3/4, thơ 8 chữ, nhịp 3/5, là một sáng tạo mới của các nhà thơ ViệtNam. Vần rơi vào chữ thứ 8 mỗi câu. Nếu chữ thứ 8 câu đầu là vần trắc, thì chữ thứ 8 của hai câu tiếp theo (câu 2 và câu 3) là vần bằng, và hai chữ này vần với nhau. Chữ thứ 8 của hai câu kế tiếp vần với nhau và là vần trắc (câu 4 và câu 5). Cứ thế vần chuyển từ bằng sang trắc rồi lại bằng, luân phiên. Chúng ta hãy đọc bài thơ Nhớ con sông quê hương của Tế Hanh, rất điển hình cho loại thơ này:

Quê hương tôi / có con sông xanh biếc

Nước gương trong / soi tóc những hàng tre

Tâm hồn tôi / là một buổi trưa hè

Tỏa nắng xuống / lòng sông lấp loáng

Chẳng biết nước / có giữ ngày giữ tháng

Giữ bao nhiêu / kỷ niệm của dòng trôi

Hỡi con sông / đã tắm cả đời tôi

Tôi giữ mãi / mối tình mới mẻ…

Ngoài thơ 7 chữ, nhịp 4/3 cổ điển, Xuân Diệu cũng làm thơ 8 chữ, nhịp 3/5. Nhưng ông không viết liên hoàn như Tế Hanh, mà lại chia thành từng đoạn, như trong bài Tương tư chiều:

Bữa nay lạnh / mặt trời đi ngủ sớm,

Anh nhớ em / em hỡi! Anh nhớ em,

Không gì buồn / bằng những buổi chiều êm

Mà ánh sáng / đều hòa cùng bóng tối.

Gió lướt thướt / kéo mình qua cỏ rối;

Vài miếng đêm / u uất lẩn trong cành;


Mây theo chim / về dãy núi xa xanh…

Trong bài Tình thứ nhất, Xuân Diệu làm theo thể thơ 8 chữ, nhịp 3/5, nhưng lại quay về với các khổ thơ 4 câu, vần cách theo kiểu cũ:

Thư thì mỏng / như suốt đời mộng ảo,

Tình thì buồn / như tất cả chia ly.

Giấy phong kỹ / mang thầm trong túi áo,

Mãi trăm lần / viết lại mới đưa đi…

Xuân Diệu có rất ít bài thơ 8 chữ, nhịp 3/5. Hầu hết thơ ông là thơ 7 chữ, nhịp 4/3, theo kiểu cũ.

Cũng như Xuân Diệu, Nguyễn Bính chỉ có lác đác mấy bài thơ 8 chữ, nhịp 3/5. Điển hình là bài Những người của ngày mai, thơ 8 chữ, nhịp 3/5, viết vào khoảng năm 1949:

Ở chòi hẹp / nhưng hồn trùm vũ trụ

Trái tim đau / nhưng thương cả loài người

Đã nhiều hôm / không thấy bóng mặt trời

Bởi làm việc / liên miên và bí mật

Mắt quầng lại / đêm đêm ròng rã thức

Da xanh xao / vì muỗi thật là nhiều

Này của riêng / soát lại có bao nhiêu…

Bài thơ Chuyện một con đường mòn của Anh Ngọc, thơ 8 chữ, có nhịp 3/5, nhưng câu đầu tiên 9 chữ, nhịp 4 /5, câu thứ 6 là thơ 7 chữ, nhịp 3 /4:

Khi tôi sinh ra / con đường đã có rồi

Trôi lặng lẽ / như một dòng nước mát

Chỗ bờ tre / ông tôi ngồi chẻ lạt

Dáng lưng còng / tạc xuống tháng năm

Chuyện gợi về / sau ánh mắt xa xăm

Sống lại chàng / lực điền sôi nổi

Đường chứng kiến / mối tình ông bà nội

Có hoa xoan / hoa khế rụng trên đâu…

Anh Ngọc không làm thơ thuần chất 8 chữ, nhịp 3/5, trong một bài có cả thơ 7 chữ, 8 chữ, nhịp 3/4, 3/5, 4/4…

Bài thơ Tản mạn thời tôi sống của Nguyễn Trọng Tạo, đa số là thơ 8 chữ, nhịp 3/5, nhưng lẫn cả nhịp 4/4:

Những bông hoa / vẫn cứ nở đúng mùa

Nhưng màu hoa / thời tôi thì có khác

Xe đến công trường / bay mù bụi cát

Màu hoa thường / lấm bụi suốt mùa khô…

Trần Nhuận Minh ít làm thơ 8 chữ, nhịp 3/5, chỉ có bài Đà Lạt, Chiều xanh, Lời từ biệt, sau đây là một đoạn trong bài Thơ tình ngày không em:

Nếu biết rằng / sẽ chẳng gặp lại nhau

Anh đã chẳng / buộc em bao tội lỗi

Em đứng lặng. / Mặt úp vào bóng tối

Khổ thân em / có nói được gì đâu


Nếu biết rằng / sẽ chẳng gặp lại nhau…

Các nhà thơ đã đưa thơ 7 chữ, 8 chữ vào trong thơ tự do, vì vậy nhịp điệu trong thơ 7 chữ, 8 chữ không còn thuần nhất nữa, mà có thể là nhịp 4/3, 3/4, 3/5, 4/4… Ngày nay khi đọc thơ tự do, ta vẫn gặp bóng dáng của những loại hình thơ và nhịp điệu thơ như đã nói ở trên.

Sự phát triển và sáng tạo của thơ 7 chữ, 8 chữ theo nhịp điệu 3/4, 3/5 là một bước tiến đáng kể, trên con đường tìm kiếm cái mới của loại hình thơ dân tộc, rất đáng trân trọng. Có thể, điều này sẽ đưa đến những khác biệt, những nét riêng của thơ tự do ViệtNamso với thơ các nước khác. Tìm kiếm cái mới, ngay trong lòng văn hóa dân tộc, không phải là ý tưởng không đáng quan tâm.

Thể thơ 8 câu 7 chữ là gì?

Thể thơ song thất lục bát (雙七六八, đôi 7 6-8), cũng được gọi lục bát gián thất (六八間七, 6-8 xen 7) hay thể ngâm một thể văn vần (thơ) đặc thù của Việt Nam.

Thể thơ gì?

Mục lục.
Thể thơ lục bát..
Thể thơ song thất lục bát..
Thể thơ bốn chữ.
Thể thơ năm chữ.
Thể thơ sáu chữ.
Thể thơ bảy chữ.
Thể thơ tám chữ.
Thể thơ tự do..

Câu 6 Câu 8 là thể thơ gì?

Lục bát (chữ Hán: 六八) một thể thơ của Việt Nam, đúng như tên gọi, một cặp câu thơ cơ bản gồm một câu sáu âm tiết và một câu tám âm tiết, phối vần với nhau.

Đặc điểm thể thơ là gì?

- Thơ chú trọng đến cái đẹp, phần thi vị của tâm hồn con người và cuộc sống khách quan. Vẻ đẹp và tính chất gợi cảm, truyền cảm của thơ có được còn do ngôn ngữ thơ cô đọng, hàm súc, giàu hình ảnh và nhạc điệu. Sự phân dòng, và hiệp vần của lời thơ, cách ngắt nhịp, sử dụng thanh điệu…