Là một thể loại kén người nghe, jazz gắn liền với sự tinh tế và phức tạp. Nhịp điệu lắt léo của jazz vốn khó nắm bắt với cả những tay chơi nhạc kì cựu. Bài viết hi vọng đem đến cho bạn một cái nhìn sơ lược về thể loại âm nhạc có ảnh hưởng nhất thế kí 20. Show Xem thêm: Phần 2- Thời kì hậu Big Band Giới thiệu nhạc JazzJazz là thể loại nhạc Mỹ đầu tiên có tầm ảnh hướng thế giới. Nhiều học giả nhất trí rằng những ảnh hưởng thời kì đầu của Jazz đến từ giai đoạn sau cuộc Nội chiến Hoa Kỳ và thời kì giải phóng, lúc mà những nô lệ cũ giờ đã được trả tự do để dịch chuyển, truyền bá di sản văn hóa châu Phi. Họ kiếm sống bằng cách biểu diễn tại các khách sạn, nhà hàng, câu lạc bộ, sàn nhảy và nhà thổ. Jazz là sự kết hợp của:
Ban nhạc “jass” đầu tiên là ban nhạc của nghệ sĩ trombone Tom Brown. Jass là dạng tiếng lóng thô bỉ của từ ‘jism’ dùng để chỉ mùi nước hoa nhài (jasmine) của các gái điếm đô thị. Cuối những năm 1910, ở New York, những kẻ nghịch ngợm thường hay bôi bỏ chữ J đi, nên ban nhạc hay bị trêu là Ass band (cái mông!), nên từ đó nhạc Jass mới được đổi thành nhạc Jazz. Bộ ba: Fiddle, Banjo và Trống là những nhạc cụ cơ bản của Jazz. Đến những năm 1890, danh sách này bao gồm thêm Upright bass hoặc Cello, và kèn Cornet. Đến những năm đầu thế kỉ 20, đàn Fiddle biến mất, thay vào đó là kèn Trombone và Clarinet, đôi lúc đi với kèn Tuba “Brass bass”. Điều này được lí giải do các nhạc cụ cũ được bán rộng rãi ở các tiệm cầm đồ thời kì hậu Nội chiến. Tương tự cây vĩ cầm. Nghệ sĩ chơi nhạc cổ điển phương Tây dùng Fiddle như một cách gọi gắn liền với violin, “người bạn thân” của fiddle. Tuy nhiên ở Mĩ, thường Fiddle có nghĩa là violin được sử dụng trong nhạc truyền thống Ireland-Scotland-Pháp và hậu duệ của nhạc Mỹ như Appalachian, bluegrass, Cajun, etc. Jazz ra đời khoảng năm 1895 ở New Orleans. Jazz bao gồm Rag time, âm nhạc của band diễu binh (brass marching bands), và blues. Jazz khác biệt ở phong cách ứng tấu của nhiều nhạc cụ cùng lúc. Jazz thoát ra khỏi truyền thống âm nhạc phương Tây, khi mà các nghệ sĩ đọc sheet và cố gắng tái tạo lại chính xác từng nốt nhạc. Ca khúc jazz thường mang tính chất tham khảo, để nghệ sĩ tự ứng tấu. Nhiều người không thể đọc được nốt nhạc nhưng vẫn có thể làm đám đông điên đảo với những giai điệu ngẫu hứng, niềm hân hoan mà họ đem lại. Một bài nhạc rất kinh điển của brass band là “When the saints go marching in”. Ở New Orleans, các đoàn diễu binh lớn thường xuất phát vào dịp đám tang hoặc lễ hội Mardi Gras. Sơ lược các giai đoạn của nhạc JazzNhạc Blues (cuối thế kỉ 19 tới nay)BluesSource: fistfuloftalent .com Xuất phát từ thế kỉ 19 tại miền Nam, từ bài hát của những người nô lệ và sau đó là những người lĩnh canh khi họ lao động dưới ánh mặt trời gay gắt hoặc ca hát nhảy múa trong những buổi lễ cầu thần. Khi những người Mĩ-Phi học chơi nhạc cụ châu Âu, guitar trở nên phổ biến để cất lên tiếng lòng của họ và kéo theo đó là sự phát triển của phong cách blues. Vòng hợp âm của blues là vòng 12 ô nhịp, cùng với nốt Blue. Nốt blue là nốt được hát hoặc chơi ở cao độ thấp hơn thang âm trưởng, đem lại cho nốt nhạc cảm giác thống khổ, sầu đời. Trong khi blues phát triển song song với nhạc jazz vào cuối thế kỉ 19, đầu 20, nghệ sĩ nhạc jazz mang rất nhiều hơi hướm nhạc blues vào trong jazz, nhất là vòng hợp âm kéo dài 12 ô nhịp. Khi jazz trở nên quá trừu tượng, các nghệ sĩ mượn đến nhạc blues. Nghệ sĩ tiêu biểu:
Tác phẩm nổi bật:
Ragtime (1895—1918)RagtimeKhởi nguồn từ pianists da đen chơi nhạc trong các hộp đêm và dance club, đây là một thể loại nhạc dành cho piano phát. Điểm nổi bật của ragtime là nhịp chỏi (syncope), nhấn ở phách 2 và/hoặc phách 4. Giai đoạn 1905-1915 là giai đoạn sóng gió với nhiều nghệ sĩ da đen. Dù được đào tạo nhạc cổ điển, họ không tìm được việc, nên phải chuyển sang chơi ragtime, để có thể biểu diễn ở các quán bar, clubs rẻ tiền hoặc nhà thổ. Nghệ sĩ tiêu biểu: – Scott Joplin, ông hoàng nhạc Ragtime Tác phẩm nổi bật:
New Orleans Jazz (Dixieland Jazz) (1900-1920)New Orleans jazz khởi nguồn từ các ban nhạc diễu hành ở New Orleans. Nhạc cụ chủ lực của thế loại này là đàn cornet. Ban nhạc kết hợp giữa điệu ragtime (lúc này đã là một trào lưu) với kĩ thuật đẩy dây của nhạc blues. Đàn cornetBan nhạc New Orleans jazz thường ít người, bao gồm dàn trước có đàn cornet/trumpet, clarinet, trombone, và dàn nhạc đệm bao gồm ít nhất 2 trong các nhạc cụ sau: banjo, bass dây, trống hoặc piano. Ứng tấu mang tính tập thể, có thể nghe rõ khi một nhạc cụ chủ đạo solo một câu ngẫu hứng, được các nhạc cụ khác “góp thêm” vào. Lúc này nghệ sĩ solo jazz chưa có cơ hội “nổi lên” ở vị trí trung tâm. New Orleans Jazz thịnh hành là nhờ vào sự xuất hiện của máy hát đĩa than. Nhiều nghệ sĩ New Orleans Jazz rời new Orleans để mở shop bán máy hát đĩa ở Chicago và New York vào thời kì di cư ồ ạt. Một địa danh gắn liền với giai đoạn này là Khu phố đèn đỏ nổi tiếng Storyville . Pianist Jelly Roll Morton là một trong những tượng đài nhạc jazz, khởi nghiệp bằng việc chơi nhạc ở các quán rượu và nhà thổ ở Storyville. Nghệ sĩ tiêu biểu:
Mô phỏng điệu Big Four chơi trên dàn trống:
Tác phẩm nổi bật:
Swing và thời kì Big Band (1930-1945)Cho tới những năm 30, nhạc jazz được hưởng ứng chủ yếu bởi một bộ phận văn hóa riêng biệt của Mĩ. Mối liên hệ mật thiết giữa nhạc jazz với cuộc sống nhọc nhằn và văn hóa Mĩ – Phi khiến nó trở nên khó “tiêu hóa” đổi với đa phần người Mĩ da trắng. Thời kì Big Band đã làm thay đổi điều này. Thời kì Đại Suy Thoái đã khiến cho nhiều band nhạc jazz mất việc, các nghệ sĩ nhạc jazz đầy rẫy và trở nên rẻ bèo. Vì thế, một vài đầu tàu của nhóm nhạc jazz đã gầy dựng nên những dàn nhạc lớn. Nhạc jazz lúc này không còn nhiều nhịp lỡ nữa, mà chuyển sang thể loại thoải mái, mượt mà hơn, còn gọi là Swing. Swing có gốc là nhạc dance, nhiều phong cách dance được tạo cảm hứng bởi nhạc Swing như Lindy Hop và Jitterbug. Ngoài jazz, Big Bands còn chơi nhạc theo chuẩn Mĩ, đem tới cho họ chất jazz trong quá trình biểu diễn. Sau thế chiến thứ hai, khi kinh tế tăng trưởng trở lại, duy trì những dàn nhạc lớn trở nên đắt đỏ, và Big Bands cùng với nhạc Swing cũng suy thoái từ đó. Nghệ sĩ tiêu biểu:
Tác phẩm nổi bật:
———– Xem tiếp: Lịch sử nhạc Jazz – Phần 2: Thời kì Hậu Big Band Tham khảo:
———— Commentscomments Những gì được coi là bài hát nhạc jazz hay nhất mọi thời đại?Các bài hát nhạc jazz hay nhất mọi thời đại [phiên bản mở rộng].. Honeysuckle Rose - Fats Waller. .... Mack con dao - Ella Fitzgerald. .... Đảo Cantaloupe - Herbie Hancock. .... Những điều yêu thích của tôi - John Coltrane. .... Lấy năm - Dave Brubeck. .... Chúa phù hộ cho đứa trẻ - Billie Holiday. .... Mặt trăng cao như thế nào - Ella Fitzgerald. .... Stella by Starlight - Miles Davis .. Bài hát Jazz số 1 là gì?Jazz 100. Đĩa đơn Jazz bán được lớn nhất bao giờ hết?Câu chuyện về 'Take Five Five' của Dave Brubeck được ghi lại bởi bộ tứ huyền thoại Dave Brubeck, "Take Five" vẫn là đĩa đơn nhạc jazz bán chạy nhất mọi thời đại, và giai điệu quen thuộc của nó đã giới thiệu nhiều người nghe với Jazz."Take Five" remains the biggest-selling jazz single of all time, and its familiar melody has introduced many listeners to jazz.
Bài hát jazz đẹp nhất là gì?Cuộc sống tốt đẹp.. Cuộc sống tốt đẹp.Cuộc sống tươi tốt được viết bởi Billy Strayhorn từ năm 1933 đến 1936: Strayhorn, đáng chú ý, vẫn là một thiếu niên khi ông bắt đầu sáng tác của nó..... Mắt trẻ sơ sinh..... Goodbye Pork Pie Mat..... Stardust..... Cơ thể và tâm hồn..... Naima..... Màu xanh lam trong màu xanh lá cây..... Có thể chấp nhận bạn .. |