Bruno groening là ai

Bruno Gröning Tôi sống để loài người có thể tiếp tục sống Grete Häusler / Thomas Eich

Bruno Gröning: Ai kính yêu Thượng Đế, người đó giúp đỡ mọi người

Bruno Gröning Tôi sống để loài người có thể tiếp tục sống Tiểu sử tóm tắt do Grete Häusler / Thomas Eich biên soạn

Cuốn sách này không bao giờ bán trong cộng đồng Bruno Gröning, nó được phân phát trên cơ sở đóng góp tự nguyện. Xuâ t ba n lâ n thư 1 năm 2010 Kreis für geistige Lebenshilfe e.v. Haidauer Str. 6 93107 Thalmassing, Đư c www.bruno-groening.org/vietnam Toàn bộ tác phẩm này được giữ ba n quyền tác gia. Mọi quyền sử dụng đều không được phép nếu không có sự đồng ý bằng văn ba n của Kreis für geistige Lebenshilfe e.v. Mọi quyền nhân ba n, kể ca in lại từng phâ n, sao chụp, truyền thanh, dựng phim và dịch ra ngôn ngữ khác đều thuộc ba n quyền của Hội ISBN 978-3-86769-153-6 vietnamesisch Nguyên ba n tiếng Đư c: Bruno Gröning Ich lebe, damit die Menschheit wird weiterleben können ISBN 978-3-933344-39-7 deutsch

NỘI DUNG Lời nói đầu 7 Phần I: Những năm chuẩn bị 11 1. Thời niên thiếu và tuổi trẻ 13 2. Trường học cuộc đời 16 3.Chiến tranh và sự trục xuâ t 24 Phần II: Đám đông vây quanh 31 1. Những sự kiện ở Herford 31 2. Mọi nỗi khổ đau của con người là mối bận tâm của tôi 33 3. Người liệt có thể đi, người mù có thể nhìn 36 4. Trên ban công ở Herford 41 5. Sự kiểm chư ng ở Heidelberg 46 6. Trường hợp của Strobel 49 7. Bệnh nhân, điều trị và xét nghiệm 53 8. Không pha i quỷ sa tăng 55 9. Sự xuâ t hiện của Bruno Gröning trong lịch sử 61 10. TE DEUM (Ba n giao hưởng: Ngợi ca Thượng Đế) ở Rosenheim 63 11. Tôi cho bạn biết 69 12. Sự quay trở về nguồn vĩ đại 75 Phần III: Áp lực và những lực lượng chống đối 83 1. Sư c khoẻ không thể mua được bằng tiền 84 2. Egon Arthur Schmidt Người viết tiểu sử Gröning 88 3. Những nhà khoa học đâ u cơ trục lợi 95 4. Những kẻ làm tiền ở Traberhof 98 5. Nhà báo, tiến sỹ Michael Graf Soltikow 105 6. Tên chỉ huy trại tập trung thời phát xít Otto Meckelburg 109 7. Lương y Eugen Enderlin và người chữa bệnh thâ n kỳ bác sỹ Kurt Trampler 112 5

8. Rudolf Bachmann một kẻ làm tiền 115 9. Hiệp hội Gröning 118 Phần IV: Lệnh cấm chữa bệnh, những vụ án và Trở về nhà 125 1. Những bác sĩ ở Herford 126 2. Cuốn sách nhỏ của TS. Weiler 130 3. Luật hành nghề y 139 4. Luật hành nghề y không áp dụng với Bruno Gröning 143 5. Vụ án lớn 148 6. Thiêu cháy trong lòng 153 7. Điều này liên quan tới mọi sinh vật sống 160 8. Bước phát triển tiếp theo của công trình 163 9. Chặng cuối cùng Paris 168 Hướng về tương lai: Công trình của Bruno Gröning 171 Ghi chú: Heilstrom (Hai-lơ-sờ-tờ-rôm): Bruno Gröning gọi những lực tinh thâ n (tâm linh) có tác dụng chữa lành bệnh. Einstellen (Ai-in-sờ-tê-len): Khi người ta ngồi để tiếp nhận Heilstrom (lực của Thượng đế) và đưa nó vào trong cơ thể mình. Regelungen (Rê-ke-lung-nghèn): Khi cơ thể tiếp nhận Heilstrom nó sẽ xa y ra quá trình tẩy rửa trong cơ thể. Điều này có thể gây đau về thể xác nhưng qua đó bệnh tật sẽ được đẩy lùi ra khỏi cơ thể. Bruno Gröning gọi đây là quá trình Regelung. 6

Lời nói đầu Bruno Gröning là một trong những nhân vật nổi tiếng nhâ t của những sự kiện sau chiến tranh ở nước Đư c. Năm 1949 hàng chục ngàn người lũ lượt kéo đến những nơi có mặt Bruno. Những ca lành bệnh xa y ra thời kỳ đó không thể nào đếm xuể. Người liệt, người mù, người câm lại khoẻ mạnh trở lại. Những người tìm kiếm sự giúp đỡ trên khắp thể giới đã kéo đến để gặp Ông. Lúc bâ y giờ đã xa y ra những ca nh tượng kỳ lạ chưa từng có trong thời đại chúng ta. Ngày nay những nhân chư ng cùng thời Ông khi kể lại những sự kiện xa y ra lúc bâ y giờ họ đã xúc động không câ m được nước mắt. Bruno Gröning đã mong muốn điều gì? Nhiệm vụ của tôi, mục tiêu của tôi là giúp đỡ và chữa lành bệnh cho tâ t ca mọi người. Tôi muốn cư u giúp và chữa bệnh. Thực ra không pha i ba n thân tôi làm điều đó, nhưng tôi biết rằng dòng lực đó cha y trong cơ thể tôi và tôi có kha năng sử dụng nó để chữa bệnh cho con người. Tôi mong muốn rằng bạn sẽ luôn chế ngự một cuộc sống mạnh khoẻ, tốt đẹp, như chính cuộc sống mà Thượng Đế đã xác định cho bạn. Bạn nên biết rằng tâ t ca các bạn đều thuộc về nhau. Bạn nên yêu thương đồng loại như yêu thương chính ba n thân bạn. Mong ước của tôi, nguyện vọng của tôi là điều đó sẽ xa y ra, rằng con người sẽ tụ hội cùng nhau. Đó là một trong những điều kiện để dẫn đến sự giúp đỡ và lành bệnh. Bruno Gröning đã nói gì? Hãy tin tưởng và có niềm tin, lực Thượng Đế sẽ giúp đỡ và chữa lành bệnh! 7

Đồng tiền có sư c mạnh, nhưng sư c khoẻ mới có sư c mạnh toàn năng. Có râ t nhiều điều xa y ra không thể gia i thích được, nhưng không có điều gì là không thể xa y ra. Không có bệnh nào là không chữa được. Thượng Đế là người thày thuốc vĩ đại nhâ t. Hãy yêu cuộc sống Thượng Đế Thượng Đế ở khắp mọi nơi! Tôi không là gì ca, Thượng Đế mới là tâ t ca! Bruno Gröning đã làm gì? Tôi kêu gọi các bạn hãy quay trở lại với cội nguồn! Bạn hãy đi lên, tôi đã xây một cây câ u cho bạn. Bạn đi từ con đường đau khổ đến con đường Thượng đế. Trên con đường này không có bâ t hạnh, không có đau khổ, không có gì là không chữa được. Ở đó tâ t ca đều tốt đẹp. Con đường dẫn bạn quay trở về với Thượng đế! Hãy đưa cho tôi tâ t ca bệnh tật của bạn, nỗi lo của bạn, sự bâ t hạnh của bạn và tâ t ca những điều không tốt Tôi sẽ lâ y đi tâ t ca! Bây giờ tôi sẽ xây một ngôi nhà trên toàn thế giới. Tôi sẽ trao lại cho bạn ba n năng khéo léo tự nhiên của con người cổ xưa. Khi đó chúng ta sẽ có mọi thư. Khi đó chúng ta sẽ có sự bình yên trên Trái đâ t này không phân biệt tôn giáo, dân tộc. Đó là phúc lành của Thượng Đế! Bạn chỉ câ n tiếp nhận chúng và điều đó câ n pha i được tiếp tục nhân rộng ra. Bruno Gröning là ai? Tôi chỉ là một công cụ của Thượng Đế. Tôi không quan tâm đến bâ t cư điều gì, tôi không giúp đỡ vì tiền, tôi chỉ làm theo những điều mà Thượng Đế đã lệnh cho tôi. Tôi không làm những điều gì khác ngoài những điều Thượng Đế ba o tôi pha i làm! 8

Sư c khoẻ không pha i là thư có thể mua được, đó là quà tặng của Thượng Đế! Ai có may mắn lâ y lại được sư c khoẻ qua a nh hưởng của tôi, người đó hãy ca m ơn Thượng Đế mọi lúc mọi nơi chư đừng cám ơn tôi, tôi chỉ là công cụ, là bề tôi trung thành của Người. Tôi không pha i là Gröning. Người ta chỉ đặt cái tên này cho thể xác của tôi. Còn thực châ t tôi là ai, con người sẽ nhận ra khi thể xác tôi không còn tồn tại trên Trái đâ t này. Tôi luôn là người gieo hạt giống của sự bình yên và hoà bình trên Trái đâ t này và tôi cũng là người sẽ thu hoạch chúng. 9

Phần I. Những năm chuẩn bị Bruno Gröning được sinh ra vào tháng năm năm 1906 tại Danzig. Tại đây ông đã tra i qua tuổi niên thiếu và tuổi trẻ của mình cũng như những năm đâ u của lư a tuổi trưởng thành. Tại đây Ông đã tiếp nhận ca m giác chuẩn bị cho những nhiệm vụ sau này của Ông. Martin Damß đã viết một bài thơ về thành phố Danzig và cũng là nói về con người Bruno Gröning: Cánh cổng vào thành chắc chắn và được làm từ gạch, gỗ, Những con tàu được xây và chở đâ y hàng hoá Những cánh buồm và con tàu mạnh mẽ Giống như cái cổ đâ y năng lượng nghiêng xuống bền bỉ Với sự tự hào trong công việc của mình Con người xuâ t chúng dưới ánh sáng dữ dội Dù được chở che, vẫn sa sẩm mặt mày Đôi vai oằn lên vì gánh nặng Nhưng luôn được soi đường bởi ánh sao xa Sự chở che tuyệt vời của sồi và đá, Biểu tượng của trâ n gian, tuyên bố rằng: Tôi là người mang vác khổ đau, Là đâ y tớ của mọi người, nhưng không ngang bằng với ai ca. 11

Biểu tượng của thành phố Danzig

1. Thời niên thiếu và tuổi trẻ Gia đình Bruno Gröning sống ở Olive, một vùng thuộc Danzig nằm cạnh biển và được bao bọc bởi những cánh rừng. Năm 1956 Bruno Gröning đã viết trong ba n lý lịch tự thuật về thời niên thiếu của mình: Tôi là người con thư tư trong số 7 người con của vợ chồng ông August Gröning và Margarethe. Tôi được sinh ra vào ngày 31.5.1906 tại Danzig, Olive. Cha tôi là đốc công thợ nề. ( ) Ngay từ khi còn râ t nhỏ và ca thời kỳ thanh niên, khi còn sống chung cùng bố mẹ, càng ngày tôi càng nhận thâ y mình có râ t nhiều kha năng đặc biệt, những kha năng đó phát ra từ chính con người tôi, chúng có thể a nh hưởng đến ca người và động vật, có thể chữa bệnh và làm cho người cũng như động vật điềm tĩnh trở lại. Khi còn là một cậu bé, người ốm thâ y hết đau khi tôi bên cạnh họ; người lớn cũng như trẻ con khi bị kích động hay cãi lộn đều lập tư c bình tĩnh trở lại chỉ nhờ vài câu nói của tôi. Tôi cũng thâ y rằng những con vật vốn được coi là hoang dại và hung dữ lại tỏ ra hiền lành và thuâ n phục khi ở quanh tôi. Chính vì vậy mà quan hệ của tôi trong ngôi nhà của bố mẹ râ t kỳ dị và ngột ngạt. Tôi đã cố gắng để tự lập và muốn ra ngoài để tránh sự hiểu lâ m của gia đình. Ngay từ khi còn nhỏ Ông thường xuyên ra khỏi nhà. Trong một ba n tha o viết tay vào năm 1949 Ông đã viết về những điều Ông đã tra i nghiệm ở đó: Tôi tiếp tục đi và đã nhận ra một bư c tranh râ t rõ ràng. Thiên nhiên, động vật, tôi và con người, đó chính là những thư do Thượng đế sáng tạo ra trên Trái đâ t này, tôi coi tâ t ca những thư đó đều là Thượng đế. Tự nhiên tôi nhận được ý nghĩ Thượng đế và tôi cư tự nói với 13

14 chính mình: Thượng đế thật tuyệt vời khi được ở bên Người, con luôn muốn được ở đây. Ở nhà bên cạnh bố mẹ cũng như bên cạnh những người khác không tuyệt vời như ở đây và cũng không yên tĩnh nữa. Phâ n lớn con người đều không tốt. Con muốn ở lại đây, ở đây con không còn pha i sợ những người xâ u nữa. Ở đây tôi cũng nhận ra một điều rằng những con vật ở lại đây cũng chỉ bởi muốn tránh xa những con người xâ u xa. Không lâu sau tôi cũng nhận ra rằng ở đây tốt hơn là ở trong ngôi nhà bố mẹ, ở đây tôi không ca m thâ y cô đơn. Các con vật cũng đột nhiên không còn nhút nhát nữa, chúng tỏ ra tin cậy và đến gâ n tôi, để cho tôi vuốt ve, mơn trớn chúng. Tôi đã nói chuyện với chúng. Chúng tôi râ t hiểu nhau. Chúng tháp tùng tôi đi qua rừng, và chúng tôi đã trở thành những người bạn tốt. Tôi đã ở lại vài ngày, vài đêm trong rừng cho đến khi có người tìm ra tôi và mang tôi trở về nhà bố mẹ. Về nhà tôi đã chịu một trận đòn roi và bị nhốt vào trong một căn phòng. Tôi không bao giờ khóc bởi những trận đòn đó, bởi tôi không thâ y đau, tuy thể xác thì tím tái vì đòn roi. Dâ u sao đi nữa, sự giam câ m trong căn nhà bố mẹ kéo dài không lâu, bởi tôi thường xuyên tự gia i thoát cho mình râ t nhanh. Rừng và những người bạn của tôi những con vật có sư c cuốn hút tôi râ t mạnh. Khi ở trong rừng tôi thường xuyên có ý nghĩ: Con người không pha i là bạn của mình sao? Tại sao mình lại luôn chạy trốn khỏi con người? Và tôi lại hiểu ra: Động vật sợ những điều xâ u ở con người, nhưng tôi không sợ bởi tôi mạnh hơn cái xâ u. Tôi muốn cho mọi người thâ y là tôi mạnh hơn. Tuy thể xác tôi lúc đó còn nhỏ bé nhưng đơn gia n tôi ca m thâ y mình mạnh hơn tâ t ca mọi người.

Kể từ đó từ lúc tôi mới hai tuổi rưỡi- tôi đã được dẫn dắt tới những người đã bị cái xâ u ngự trị. Cái xâ u mà con người gọi là bệnh tật đã huỷ hoại cơ thể họ, và khi tôi đư ng trước cơ thể một người bệnh tật, một ý nghĩ lại xuâ t hiện: Bệnh tật đã rời khỏi một số động vật khi tôi thì thâ m với chính mình: Người bạn nhỏ đáng yêu, bạn sẽ lại có một cơ thể khoẻ mạnh. Và điều đó đã xa y ra. Đối với con người cũng sẽ tương tự như vậy. Khi ý nghĩ đó được khẳng định chắc chắn thì con người lại được khoẻ mạnh trở lại. Cư thế tôi được đưa thẳng tới những người ốm, bởi ở tâ t ca những căn hộ nơi tôi xuâ t hiện luôn có người ốm và tôi chỉ nói với họ: Bạn không còn ốm nữa. Hoặc nếu có người nói: Anh â y sẽ chết thì tôi chỉ nói hết sư c ngắn gọn: Không, còn lâu anh â y mới chết, anh â y sẽ khoẻ trở lại! Tôi chỉ gặp những người bệnh hết sư c ngắn ngủi, tôi đến gâ n người bệnh, nói vắn tắt và nhẹ nhàng với họ và ngay sau đó biến đi nhanh như tia chớp. Trong một cuộc phỏng vâ n với với tạp chí Das Neue Blatt năm 1957 Ông đã kể: Ngay từ khi là một đư a trẻ, tôi đã luôn pha n đối tâ t ca những điều không tốt. Đơn gia n là tôi không thể chịu đựng được điều đó. Mọi thư trong tôi đều chống lại điều đó. Đó là lý do mà ngay từ hồi đó tôi đã bị đặt cho biệt danh là người thui thủi một mình, luôn cư ng đâ u muốn giữ quan điểm của mình. Một điều kỳ lạ là tôi luôn bị lôi cuốn đến gâ n những người ốm đau và những người đau khổ. Một sư c hút kỳ lạ đã dẫn tôi đến gâ n họ. Kỳ lạ là họ ca m thâ y khoẻ hơn khi tôi ở cạnh họ. Nhiều lâ n tôi luôn pha i nghe họ nói: Hãy ở lại đây, cậu bé của tôi, cậu làm tôi quên đi sự đau đớn của mình. Hồi đó đôi khi tôi cũng dám ca gan thể hiện sự pha n đối của mình trước mặt người quen hay 15

bác sỹ của họ: Người này sẽ khoẻ mạnh trở lại! Nhưng người kia thì lại không thể!. Họ lắc đâ u và hỏi tại sao tôi lại có thể khẳng định điều đó. Tôi đã không thể tra lời họ, tôi chỉ ca m nhận được điều đó thôi. Cũng chính cái ca m giác này đã xui khiến tôi đến thăm những người bị thương đang nằm ở các bệnh viện quân đội ở Danzig trong chiến tranh thế giới thư nhâ t. Tôi nhanh chóng trở thành một vị khách mà nơi đâu người ta cũng biết. Ở trường tôi luôn bị kết tội, thậm chí khi tôi trốn học họ doạ sẽ gửi tôi đến trường ca i tạo. Tâ t ca những điều đó cũng không ngăn ca n được tôi giúp đỡ người khác. Tình trạng đói kém vào những năm đâ u của thế kỷ 20 ở Danzig là vô cùng lớn. Cùng với một vài người bạn khác tôi đã thành lập câu lạc bộ thanh niên để tổ chư c thu thập quâ n áo cũ, thực phẩm cũng như quyên góp tiền giúp những người nghèo nhâ t. Trong ba n lý lịch cá nhân năm 1956 Ông đã viết: Tôi đã học tiểu học. Sau khi tốt nghiệp tiểu học tôi học nghề thương nghiệp. Tôi đã học ở đó hai năm rưỡi. Nhưng tôi đã pha i bỏ học theo yêu câ u của cha. Cha tôi muốn tôi học nghề xây dựng. Theo nguyện vọng của cha, tôi đã theo học nghề thợ mộc, nhưng tôi không theo được đến cùng bởi lúc bâ y giờ ở Danzig có râ t nhiều người thâ t nghiệp. Vì lý do đó mà tôi đã pha i ngừng học 3 tháng trước khi tốt nghiệp, bởi công ty nơi tôi học đã pha i đóng cửa do thiếu đơn đặt hàng. 16 2. Trường học cuộc đời Bruno Gröning đã viết tiếp: Năm 1925 tôi đã mở xưởng xây dựng và xưởng mộc và đã tự lập. Khoa ng hai năm sau tôi đã đóng cửa

xưởng. Tôi trở thành người làm thuê lặt vặt, không có công việc ổn định mãi đến năm 1943. Tôi đã từng làm trong nhà máy sô cô la, chuyển điện tín ở sở bưu điện Danzig, và làm kỹ thuật viên điện áp thâ p ở công ty Siemens và công ty Halske trong khoa ng 9 tháng. Ở đó tôi đã độc lập thực hiện hâ u hết các công việc. Tôi đã làm tâ t ca những công việc này với niềm say mê. Ở đây tôi có điều kiện để nghiên cư u về sự hiểu biết và kha năng của con người thuộc mọi tâ ng lớp khác nhau trong mọi hoàn ca nh khác nhau. Tôi cũng hiểu được người ta sống thế nào. Tôi không chỉ tìm hiểu những người nghèo nhâ t trong những người nghèo mà tôi còn tìm hiểu những người giàu nhâ t trong số những người giàu, xem họ sống như thế nào. Tôi không quan tâm đến đời tư của họ (phim a nh, quán trọ, quán ăn, chơi bài ). Ở một nơi khác Ông đã viết như sau: Trong quãng khoa ng thời gian sau đó ở Danzig, tôi không chỉ làm thợ mộc, mà còn làm đồ gia dụng, làm thợ sơn, thợ khóa. Đôi khi tôi cũng làm cho công ty Siemen và làm việc tại bưu điện. Lúc đó tôi cũng có dịp giúp đỡ cho những người đồng hương của mình trong một số trường hợp có liên quan đến pháp luật. Công việc của tôi không liên quan gì đến chủ nghĩa xã hội dân tộc. Tôi nhanh chóng được giới thiệu vào NSBO*. Nhưng do những quan điểm riêng của mình, không lâu sau tôi đã bị sa tha i. Trong ba n lý lịch cá nhân năm 1956 Ông viết tiếp: 21 tuổi tôi kết hôn cùng Gertrud Cohn, người Danzig. Cuộc hôn nhân này đã mang lại cho tôi hai người con nhưng ca hai người con đều đã chết. * NSBO: Một tổ chư c xí nghiệp xã hội chủ nghĩa dân tộc, một dạng của liên đoàn lao động xã hội chủ nghĩa dân tộc. 17

Tôi đặc biệt muốn tra i qua một cuộc rèn luyện thực tế, trong thời gian đó tôi có thể nghiên cư u về những kiến thư c và kha năng của con người trong mọi hoàn ca nh của mọi tâ ng lớp xã hội. 18 Trong ba n lý lịch cá nhân 1952 Ông đã viết về ý nghĩa của cuộc hôn nhân này đối với Ông: Râ t đáng tiếc là không lâu sau vợ tôi đã thể hiện rõ ràng là không đồng ca m với đặc thù công việc và những thành qua của tôi mà chỉ quan tâm tới vai trò kiếm kế sinh nhai. Bà â y cố gắng để gây trở ngại cho tôi, không cho tôi được tự do làm việc, ca n trở tôi giúp đỡ và chữa bệnh cho người khác và như vậy tôi lại pha i chịu sư c ép chẳng khác thời gian sống cùng bố mẹ, bị thúc giục quay trở về con đường tiểu thị dân sơ đẳng. Trong ba n lý lịch cá nhân năm 1956 Ông lại một lâ n nữa nói về kha năng đặc biệt của Ông: Ngay từ nhỏ tôi đã có kha năng đặc biệt: Có thể chữa bệnh và làm cho người cũng như động vật bình tâm trở

lại, cũng giống như trường hợp ở một số người thời xa xưa. Ảnh hưởng này đặc biệt mạnh ở những người có tố châ t thích hợp, có những bệnh về thể xác và sinh lý mà những phương pháp khác đâ u hàng. Những người này phâ n lớn được chữa khỏi hoặc chí ít thì cũng được ca i thiện về cơ ba n. Thời gian này cũng đã có những báo cáo lành bệnh đâ u tiên. Ví dụ năm 1949 bà Charlotte Adam đã viết những lời cam đoan dưới đây: Tôi biết ông Bruno Gröning từ năm 1928 tại Danzig, thành phố quê hương tôi. Lúc bâ y giờ Bruno Gröning đã râ t đam mê những vâ n đề tâm linh, đã giúp đỡ và chữa bệnh được cho nhiều người. Tôi đã biết gâ n 20 trường hợp đã có kết qua, ( ) Tôi có râ t nhiều bằng chư ng chư ng minh rằng ông Gröning đã giúp bọn trẻ như thế nào, ví dụ những đư a trẻ bị tê liệt cột sống do bị bại liệt, hay đư a trẻ bị điếc hay bị mù. Tâ t ca mọi người đều khỏi bệnh. Râ t nhiều người đã được ông chữa bệnh ngày đó, kể ca ba n thân tôi đến tận bây giờ vẫn không thể gia i thích được, không thể hiểu được điều đó xa y ra như thế nào. Max Bruhn là một người bạn và người hàng xóm của Bruno Gröning ở Danzig. Năm 1955 ông đã viết một báo cáo chi tiết về hoạt động của Bruno thời gian đó. Dưới đây là ba n tóm tắt của báo cáo này: Từ trước đến nay Bruno Gröning không bao giờ nghĩ cho ba n thân mình. Sự quan tâm lớn nhâ t của ông đều dành cho nhân loại, là giúp họ và đem lại cho họ nguồn sư c mạnh mới. Với ông không quan trọng là họ ở đâu, hoặc cho dù họ đã phạm pha i lỗi lâ m gì khiến họ lâm vào ca nh xung đột với pháp luật và sau đó bị trâ n áp. Đôi khi ông quên ca ngủ và quên ca việc kiếm tiền. Thư duy nhâ t ông quan tâm là: Giúp đỡ. 19

Thời đó, Bruno Gröning đã không bao giờ nghĩ cho ba n thân mình Max Bruhn, 1955 20 Thậm chí người bệnh thường xuyên nhờ ông đến để giúp đỡ, kể ca ban đêm. Nhưng, cho dù là chuyện gì đi nữa, ông cũng không hề lâ y một đồng tiền công. Trái lại, ông còn đem những đồng tiền cuối cùng của mình cho những người đó. Ngay ca khi có người ca m ơn ông vì những gì ông đã làm, Bruno Gröning cũng từ chối và nói thay vì ca m ơn ông thì họ có thể làm những điều có ích cho cộng đồng. Tôi đã được phép tháp tùng ông trong râ t nhiều trường hợp và đã hoàn toàn chư ng kiến những việc làm của ông. ( )

Dưới đây tôi chỉ muốn miêu ta hai trong số râ t nhiều truờng hợp đã xa y ra. Trường hợp đâ u tiên liên quan đến chị gái Maria của ông. Bà đã bị ung thư vú và theo lời khuyên của bác sỹ chỉ có một cách gia i quyết là cắt bỏ khối u. Theo bác sỹ việc phẫu thuật câ n pha i được tiến hành khẩn câ p trong 3 ngày sau đó. Điều gì sẽ xa y ra trong lòng của Maria? Bà đã đâ u tranh với chính ba n thân. Hoàn ca nh cũng như những điều xâ u đã ngăn ca n bà đến với em trai mình. Nhưng rồi vào một ngày bà đã đến gặp Bruno Gröning, bà muốn nói chuyện với ông. Đó là bước đâ u bà đã thắng những điều xâ u xa, nhưng chưa tuyệt đối. Bà nói rằng bà muốn đến gặp bác sỹ một lâ n nữa. Em trai bà, Bruno Gröning chỉ nói rằng bà có thể đi đến đó, nhưng ông cũng qua quyết rằng bà sẽ quay lại gặp ông. Và sự thật thì đã đúng là như vậy. Một ngày trước ngày â n định lịch phẫu thuật Maria đã đến gặp em trai Bruno vào buổi tối đã râ t khuya và yêu câ u ông giúp đỡ. Bruno- người em trai cười và nói trước sự có mặt của tôi: Em không còn thâ y sự bâ t ổn trong ngực của chị nữa, sáng mai chị có thể yên tâm đến gặp bác sỹ của chị hoặc đến gặp các bác sỹ nhưng nhớ yêu câ u họ làm các xét nghiệm câ n thiết trước khi mổ, chắc chắn sau khi làm xét nghiệm họ sẽ khẳng định những điều mà em đã nói với chị. Buổi chiều ngày hôm sau chị của ông, bà Maria đến gặp em trai mình và khẳng định những điều mà Bruno Gröning đã nói với bà ngày hôm trước. Các bác sĩ đối mặt với một điều bí ẩn lớn và nói rằng đó là một phép màu kì lạ đã xa y ra. Họ nói về điều đó trong một thời gian dài và bộc lộ sự kinh ngạc của họ. Có điều kỳ lạ đã xa y ra mà chúng tôi không thể nào gia i thích được. Đây là những điều giữa Thiên đường và Trái đâ t mà chúng ta- người trâ n mắt thịt không thể gia i thích được ( ) 21

22 Tôi muốn kể thêm một trường hợp khác liên quan tới người vợ đâ u tiên của tôi. Nó xa y ra ngay trong ngôi nhà Bruno Gröning vì chúng tôi sống cùng trong một ngôi nhà. Người vợ đâ u tiên của tôi bị viêm họng. Do sốt cao và sưng tâ y ở bên trong nên cô â y tưởng đã chết vì nghẹt thở. Cô â y đã được bác sĩ Hollatz điều trị trong vài ngày. Tình trạng của cô â y ngày càng xâ u đi và bác sĩ đã cho đó là một điều nghiêm trọng. Vợ tôi biết rằng Bruno Gröning có thể giúp đỡ, nếu cô â y có đủ niềm tin. Tôi đã đề nghị cô â y cho phép tôi nhờ Bruno Gröning giúp đỡ nhưng cô â y đã từ chối, bởi cô â y chưa thực sự có đủ niềm tin mà vẫn hi vọng ở sự giúp đỡ của bác sỹ. Tuy nhiên tôi đã nói với Bruno Gröning về việc đó và ông nói với tôi rằng ông sẽ tới ngay lập tư c khi vợ tôi tìm lại được niềm tin và tự mình yêu câ u sự giúp đỡ của ông. Và điều đó đã xa y ra. Tôi không có ở nhà trong ngày hôm đó. Khi vết sưng trong cổ họng to lên, cô â y tưởng chết vì nghẹt thở. Trong giờ phút nguy câ p giữa cái sống và cái chết, cô â y đã tìm lại được niềm tin. Trong nỗi sợ hãi cô â y đã ca m nhận được rằng Bruno Gröning có thể giúp được cô. Vì quá đuối sư c không thể nói được nữa cô đã dùng chút sư c lực cuối cũng gõ vào bư c tường ngăn giữa hai phòng, bởi vì cô â y biết Bruno Gröning ở nhà vào ngày hôm â y. Bruno Gröning đã can thiệp ngay lập tư c. Ông vào phòng và nhìn thâ y vợ tôi trong tình trạng có thể chết vì nghẹt thở, mặt tím tái, cô â y chỉ còn đủ sư c chỉ vào cổ. Và điều kì diệu đã xa y ra. Chỉ sau một vài giây, vết sưng đã xẹp xuống và cuộc sống mới đã bắt đâ u. Ngày hôm sau, cô â y đã ra khỏi giường và tới gặp bác sĩ Hollatz. Vị bác sĩ hiểu khá rõ tình trạng của vợ tôi đã không thể tưởng tượng nổi. Sau khi khám cho cô â y, ông nói rằng có điều gì đó đã xa y ra mà chính ông cũng

không thể gia i thích được, bởi vì tình trạng bệnh tật của cô â y có thể khỏi được chỉ nhờ vào vài lời nói của Bruno Gröning. Ông ta nói rằng nó tiếp tục là một điều bí ẩn với ông và đó là một điều kì diệu tuyệt vời đã xa y ra ở đây mà ông không thể gia i thích được. Trong một tài liệu viết vào năm 1950 Bruno Gröning đã mô ta a nh hưởng của Ông ở Danzig: Tôi biết rõ rằng việc làm cho công chúng từ tháng 3/1949 của tôi đã khiến râ t nhiều người ngạc nhiên. Họ đã tự hỏi Tại sao Bruno Gröning lại không xuâ t hiện sớm hơn? Câu tra lời của tôi là tôi đã sống 43 năm, và từ nhỏ tôi đã làm những việc mà bây giờ tôi đang làm công khai, chỉ có điều là tôi luôn cố tránh để không bị công chúng biết tới. Từ râ t lâu tôi đã luôn cố gắng, luôn trong các nhóm nhỏ, để nói cho mọi người biết rằng tôi biết một người đàn ông (tôi chỉ không nói cho họ biết rằng đó chính là tôi, mà gán những kha năng của tôi cho một người không quen biết thư 3), một người không hề học nghề y nhưng lại có kha năng chữa hâ u hết mọi bệnh tật bằng năng lượng của chính mình. Nhưng những khán gia của tôi đều nghĩ tôi bị điên, lúc bâ y giờ chỉ có râ t ít người có thể hiểu được tôi. Thỉnh thoa ng tôi có cơ hội gặp gỡ những người ốm và có kha năng lâ y đi bệnh tật của họ mà họ không hề hay biết, chỉ bằng lời nói, hoặc tiếp xúc với phâ n có bệnh của cơ thể họ, hay đưa cho họ một vật. Về sau tôi đã nhận thâ y rằng tôi có kha năng cùng đồng thời chữa bệnh được cho nhiều người, hãy gọi kha năng này là phép trị bệnh. Điều đó hoàn toàn không khó đối với tôi. Tôi vẫn tiếp tục làm việc một cách yên lặng và nghiêm khắc. Hâ u như các nỗ lực của tôi đều có kết qua. Nhóm người tôi gặp lúc đó đương nhiên là râ t ngạc nhiên và không 23

thể hiểu được điều đang xa y ra. Dù sao thì cũng không thể hiểu điều đó bằng lý trí. Những người ốm đã từng nhận được sự giúp đỡ của tôi đã nhận ra, đã bị thuyết phục và khẳng định thực tế đó, chỉ có điều họ không thể gia i thích được. Thời gian cũng như số lượng những ca khỏi bệnh đã làm tôi trở thành Người truyền tin chính. Càng ngày càng có nhiều người nhận được làn sóng chữa bệnh. Tôi có thể khẳng định rằng mỗi người đều có thể là một trạm thu làn sóng này, chỉ có điều họ câ n pha i biết họ muốn thu cái gì. Đương nhiên ngày xưa cũng đã có những nguồn phát nhỏ, nhưng tôi nghĩ rằng những người đó bị hạn chế về năng lượng và không thể mở rộng ra mà bị đẩy ra do quá yếu và bị tan vỡ. Một cách ngắn gọn tôi có thể nói giống như một sự so sánh rằng tôi đã đặt máy thu của con người vào đúng vị trí và có kha năng có thể gọi là phục hồi lại những cơ quan trong con người. Đối với những người đã được tôi chữa bệnh nó hiển nhiên như là một cái đài thu. 3.Chiến tranh và sự trục xuất Trong ba n lý lịch tự thuật của mình năm 1956, Bruno Gröning tiếp tục bộc bạch như sau: Năm 1943, khi tôi 37 tuổi, tôi bị gọi vào quân đội. Do quan điểm của tôi mà đã na y sinh bâ t hoà. Ví dụ họ doạ sẽ đưa tôi ra toà án quân sự bởi vì tôi đã tuyên bố: Cho dù tôi có pha i ra mặt trận hay không thì tôi cũng sẽ không bao giờ bắn bâ t cư người nào. Cuối cùng thì tôi vẫn ra mặt trận. Năm 1944, một ma nh lựu đạn đã làm đùi pha i của tôi bị thương. Tôi đã được đưa đến một bệnh viện quân y 24

ở quê nhà, nhưng bị tra lại, được xem như không chữa được và lại pha i ra trận đánh nhau với người Nga trên đâ t Đư c. Sau đó, tôi bị những người Nga bắt làm tù binh vào tháng 3 năm 1945. Tháng 12 năm 1945, tôi được quân Nga tha và đưa tới miền tây nước Đư c. Trong trại tập trung tù nhân của Nga, tôi đã luôn tìm mọi cách giúp đỡ những người cùng ca nh ngộ và chỉ huy người Nga đã gọi tôi lên ba lâ n để tra hỏi, trong một lâ n họ doạ sẽ bắn tôi. Một trong những điều tôi yêu câ u là họ pha i đối xử với những tù nhân Đư c ít nhâ t là như với những con súc vật, bởi vì sự đối xử mà những tù nhân nhận được khi đó kém xa so với những con súc vật. Ở đây tôi đã tận dụng mọi cơ hội có được để mang lại sự giúp đỡ và khuây khoa cho những người đồng chí của mình đang ở trong tình ca nh vô vọng. Ở một nơi khác Ông đã miêu ta tình trạng đó như sau: Trong thời gian phục vụ trong quân đội, kể ca khi ở trong tù tôi đã giúp chữa bệnh cho những người cùng ca nh ngộ. Tuy nhiên do ngoại ca nh mà những công việc mang tính hệ thống và chuyên sâu không thể thực hiện được. Trong một cuộc phỏng vâ n của tạp chí Das Neue Blatt Báo thời mới vào năm 1957, ông đã mô ta những sự cố gắng để giúp đỡ những đồng chí của mình: Giúp đỡ những người nghèo nhâ t đó là nguyện vọng của tôi sau sự sụp đổ này, khi tôi ngồi trong tù cùng với những người lính trong trại tù binh Nga. Đó là một thời kỳ vô cùng khó khăn, bởi chúng tôi không được đáp ư ng nhiều nhu câ u tối thiểu nhâ t. Những người bạn cùng ca nh ngộ với tôi đã thừa nhận rằng, tôi không e ngại bâ t cư điều gì để giúp họ để ca i thiện số phận của chúng tôi. 25

Tôi không chỉ thu nhặt những chồi non của những cây non để pha trà có râ t nhiều châ t dinh dưỡng, mà còn giúp tạo ra mọi kha năng ca i thiện tình trạng của trại bằng sự khéo tay của chúng tôi, cho dù người Nga có cho phép hay không. Trong ba n lý lịch tự thuật của mình năm 1956, Bruno Gröning tiếp tục bộc bạch: Sau khi được tha vào năm 1945 tôi đã tìm thâ y vợ trong một trại tị nạn ở Schleswig và đón bà về nhà ở Dillenburg. Để duy trì cuộc sống tôi đã làm bâ t cư việc gì có thể trong thời kỳ sau chiến tranh. Ở Tây Đư c tôi cùng với những người tị nạn khác ở Sudetengau đã được kêu gọi giúp đỡ những người bị trục xuâ t. Tôi đã làm việc trong hội đồng về nhà ở bởi tôi ca m thâ y mình có trách nhiệm pha i giúp đỡ con người. Ông cũng đã nói về điều đó trong cuộc phỏng vâ n với tờ Das Neue Blatt (Tờ báo thời mới): [Ông chỉ cho nhà báo tâ m thẻ xác nhận ông là người trợ giúp cho những người tị nạn] Đó là giai đoạn sau khi được ra tù. Mặc dù có lệnh câ m của người Mỹ tôi đã cùng với một số ít những người giúp đỡ khác đã thành lập một tổ chư c cư u trợ ở nhiều địa phận thuộc Hessen. Tôi tin rằng sự giúp đỡ đó có thể tạm thời ca i thiện tình hình cho nhiều gia đình tị nạn. Đó là sự khởi đâ u tốt đẹp sau quãng thời gian khốc liệt và vâ t va. Trong ba n lý lịch tự thuật năm 1952, ông đã kể lại về những sự lành bệnh đã diễn ra ở Tây Đư c: Sau khi ca i cách tiền tệ diễn ra, khi mọi thư dâ n trở về ổn định, tôi bắt đâ u lại nhiệm vụ của mình là giúp đỡ những người bệnh. Mục tiêu lâ n này của tôi là không rời bỏ sư mệnh, tìm mọi cách có thể để thực thi nhiệm 26

vụ một cách công khai. Tôi đã suy nghĩ râ t nhiều về các vâ n đề mang tính lý thuyết và thủ tục hành chính có liên quan và tiếp tục cống hiến hết mình cho sự nghiệp này. Và cũng trong thời gian đó, đã có một số báo cáo lành bệnh, một trong số đó là báo cáo của Elizabeth Janssen ở Duisburg (tháng 2 năm 1949): Tôi đã gặp ông Gröning khi chăm sóc cho một người hàng xóm bị tê liệt thâ n kinh, mâ t ca m giác. Bác sĩ Wink đã giới thiệu ông Gröning với chúng tôi. Lâ n thư hai khi Bruno Gröning đến thăm người hàng xóm của tôi, vào ngày 24 tháng hai năm 1949, tôi đã than phiền với Bruno rằng con gái của tôi ở Ruhrort đang bị cúm, và cháu trai của tôi cũng đang râ t mệt mỏi vì pha i chống chọi với bệnh cúm này. Chỉ sau một sự điều trị* cơn sốt biến mâ t ngay lập tư c, và cùng với đêm đó, nó cũng không ho nữa. Thực ra tôi chỉ mang theo một bư c a nh của con gái mình, ông Gröning đã điều trị* cho con gái tôi thông qua bư c a nh và đa m ba o chắc chắn với tôi rằng cháu sẽ hết sốt vào lúc 20 giờ. Khi tôi đến thăm con gái vào ngày 25 tháng hai, nó đã hết sốt hoàn toàn từ tối ngày hôm trước. Chúng tôi râ t biết ơn ông Gröning và hy vọng sẽ nhận được sự giúp đỡ của Ông thường xuyên hơn. Râ t đáng tiếc chữ ký của người viết báo cáo nhân chư ng dưới đây không đọc được cho nên chúng tôi không biết được tác gia của báo cáo này: Tôi là nhân chư ng của sự kiện dưới đây: Chị tôi là bà Heise đến từ Brackwede, bị ốm đã 17 năm nay. Chị tôi đã bị Basedow (một loại bưới cổ) và đã được mổ. Do căn bệnh này và cũng do dùng quá nhiều thuốc nên * Xem khái niệm điều trị, bệnh nhân trong chương Bệnh nhân, điều trị, thí nghiệm Phâ n II, chương 7, trang 53 27

chị â y đã bị nhiễm độc toàn cơ thể và kéo theo việc xuâ t hiện nhiều bệnh khác. Chị â y còn bị viêm thâ n kinh vùng thắt lưng, hai chân, có vâ n đề về tim, dạ dày, gan, mật, đau đâ u triền miên và luôn có ca m giác lo lắng về họng. 17 năm nay lúc nào chị â y cũng pha i đến bác sĩ điều trị nhưng không có kết qua. Qua một người quen tôi đã biết ông Gröning. Ông đã cùng với tôi đến gặp chị â y. Không câ n pha i nghe chúng tôi kể gì ông đã biết ngay bệnh của chị tôi và nói với chị â y về những chỗ đau của chị â y và thậm chí truyển sự đau đớn đó sang cho cha tôi ngồi bên cạnh và một người làm chư ng khác. Cuối buổi điều trị* chị tôi đã hoàn toàn hết đau, thậm chí có thể đi lên, đi xuống câ u thang mà không hề đau, điều mà trước kia chị â y không thể làm được. Đó là một điều tuyệt vời mà chúng tôi không thể tưởng tượng được lại có thể xa y ra như vậy. Đây là một báo cáo cũng được viết vào thời gian đó, và xa y ra ở Duisburg: Thật là may mắn khi gặp được ông Gröning vào ngày 30.01.49. Con gái tôi bị liệt chân pha i đã 9 năm, nay đã được ông điều trị. Tính đến ngày hôm nay cháu đã được ông Gröning điều trị 6 lâ n. Biểu hiện của sự lành bệnh là rõ ràng. Tôi râ t may mắn được là nhân chư ng của râ t nhiều ca bệnh nặng. Tôi muốn nêu ra đây một trường hợp đặc biệt. Một người đàn ông trẻ đã được ông Gröning điều trị tại căn phòng của tôi đã chỉ cho ông bư c a nh của bố vợ, người bị bệnh lao. Từ trong căn phòng của tôi, ông Gröning đã điều trị cho người đàn ông bị bệnh lao này qua a nh. Ông yêu câ u người đàn ông trẻ nói cho cha vợ pha i quan sát cơ thể. Sau khi người đàn ông trẻ ra khỏi căn phòng của tôi, ông Gröning nói với * Xem khái niệm điều trị, bệnh nhân trong chương Bệnh nhân, điều trị, thí nghiệm Phâ n II, chương 7, trang 53 28

tôi điều sẽ xa y ra với ông bố vợ. Vào sáng ngày hôm sau, sau 12 tiếng đồng hồ người thanh niên trẻ đến chỗ tôi và kể cho tôi nghe đúng điều ông Gröning đã nói với tôi buổi tối hôm trước. Tôi luôn sẵn sàng kể hết những trường hợp mà tôi đã chư ng kiến. Tôi xin cam đoan tâ t ca những điều tôi viết ở đây đều là sự thật. Winkels. Những sự kiện trên đã cho thâ y rằng việc đưa ra công chúng một con người phi thường như Bruno Gröning chỉ là vâ n đề thời gian. Cuối cùng thì điều đó đã xa y ra vào tháng ba năm 1949. 29

Ai có vận may lâ y lại được sư c khỏe qua tôi hãy ca m ơn Thượng Đế từ sâu thẳm trái tim mình. Tôi chỉ là công cụ và bâ y tôi trung thành của Người. 30

Phần II. Đám đông vây quanh Năm 1949 đánh dâ u bước ngoặt vĩ đại trong công việc của Bruno Gröning. Trước đó những việc ông làm diễn ra thâ m lặng và không được công chúng chú ý tới, nhưng đến năm 1949 thì, như ông nói, ông bị lôi vào tâ m ngắm của công luận. Bâ t cư nơi nào ông xuâ t hiện, hàng tá, hàng trăm, hàng nghìn người lập tư c kéo đến. Ông bị vây quanh bởi đám đông reo hò cổ vũ cư như thể ông là ngôi sao trong làng gia i trí thế giới. Nhưng không pha i những người hâm mộ tuổi thiếu niên đang vây quanh ông, mà là những người ốm, và đa phâ n trong số họ mắc những căn bệnh mà y học cho là không thể chữa trị được. Một đám đông những người đau khổ nhiều không tưởng tượng nổi lúc nào cũng vây lâ y ông. Tên của ông được biết đến ở nhiều nơi trên thế giới, không chỉ ở Đư c mà còn ở nước ngoài, ở châu Âu, châu Mỹ và ở các vùng khác trên Trái đâ t. Người ốm đến từ khắp mọi nơi và mục tiêu duy nhâ t của họ là: Bruno Gröning. Mọi việc trở nên nghiêm trọng hơn; sau chuyến thăm của ông tới một tòa soạn ở Munich năm 1949, thậm chí ông pha i mặc đồng phục ca nh sát thì mới ra được khỏi tòa nhà, và xuyên qua đám đông hàng ngàn người. 1. Những sự kiện ở Herford Sự kiện những đám đông vây quanh Bruno Gröning bắt đâ u vào tháng 3/1949, từ một thị trâ n nhỏ của Herford ở Westphalia, Đư c. Trong cuốn tiểu sử cuộc đời Bruno từ năm 1956, ông đã viết về sự kiện này như sau: Tháng 3/1949 một người phụ nữ tôi từng gặp đã giới thiệu tôi với gia đình Hülsmann, với mong muốn nhờ tôi giúp con trai của họ. Tôi đã giúp được. Sau đó ông Hülsmann đã tuyên truyền khắp nơi về việc này khiến cho người người kéo đến nhà của gia đình Hülsmann, chật kín ca trong lẫn ngoài nhà. 31

32 Ông ta lại sự kiện này trên tờ Neue Blatt như sau: Tôi bắt đâ u được biết đến khi một người quen nhờ tôi tới Herford ngày 15/3. Bà â y đề nghị tôi giúp cậu bé Dieter Hülsmann, người được chẩn đoán là sẽ chết vì căn bệnh loạn dưỡng cơ. Cậu bé đã được tôi chữa lành. Cha cậu bé hết sư c vui mừng và đưa tin này lên các báo. Tin này được người nọ truyền cho người kia râ t nhanh. Sau đó những người bị ốm kéo đến, lúc đâ u là hàng chục, sau đó hàng trăm, hàng ngàn, rồi hàng chục ngàn người. Chỉ qua một đêm mà Herford biến thành một doanh trại. Người liệt, người bệnh tim, người điếc, người tàn tật tâ t ca bọn họ đều ở trong tình trạng tuyệt vọng và mong được giúp đỡ. Nhìn lại quãng thời gian chữa bệnh hàng loạt năm 1950, ông viết như sau: Khi tôi có mặt ở nhà gia đình Hülsmann vào tháng 3/1949, tôi chưa bao giờ định ở lại đó ca. Khi tôi nói với ông Hülsmann rằng tôi muốn đi gặp những người bệnh khác nữa thì ông khẩn khoa n đề nghị tôi ở lại. Ông Hülsmann gia i thích rằng ở Herford có râ t nhiều người câ n sự giúp đỡ của tôi, và ông â y râ t sẵn lòng cho tôi sử dụng một phòng ngủ và phòng khách của gia đình, cũng như có thể sử dụng ca nhà của ông ta cho việc chữa bệnh. Vì lời đề nghị này của ông mà tôi thâ y rằng tôi nên ở lại. Gia đình Hülsmann đưa một số người đến để tôi trị bệnh và việc lành bệnh của những người này lại càng thuyết phục được họ. Những thành công trị bệnh này không thể giâ u được dân chúng; những người khỏi bệnh nói với người khác về quá trình họ khỏe lại như thế nào, và điều đó gia i thích cho dòng người bệnh đổ về Herford tăng lên từng ngày, từng giờ. Lúc đâ u những người bệnh toàn là người Herford, nhưng dâ n dâ n người dân từ các thành phố khác cũng kéo đến và cuối cùng thì có ca những người

nước ngoài. Việc trị bệnh* trong căn nhà nhỏ đó không còn phù hợp nữa và do đó người ta bắt đâ u tụ tập trong vườn của ngôi nhà, và rồi đư ng hết ở ngoài đường. Trong phâ n tóm lược cuộc đời mình từ năm 1956, Bruno tiếp tục viết: Râ t nhiều trường hợp lành bệnh đã xa y ra như vậy, thậm chí có một số người được chữa lành ngay lập tư c. Lúc đâ u, tôi đến gặp nhà chư c trách y tế công cộng ở địa phương với mong muốn hợp tác với các bác sỹ. Ngay từ đâ u, tôi đã muốn tránh những sự hiểu lâ m có thể xa y ra. Nhưng giới chư c trách không bận tâm; ngược lại, tôi nhận được một tờ giâ y có đóng dâ u chính quyền với nội dung câ m tôi tiến hành hoạt động chữa bệnh. Những người bệnh tập trung quanh nhà gia đình Hülsmann đã tổ chư c biểu tình khi tôi vắng mặt và quâ y nhiễu tòa thị chính. Thị trưởng thành phố thâ y rằng ông ta buộc pha i gọi tôi trở lại và cho tôi thêm ít nhâ t năm ngày nữa để chữa bệnh. Tôi cũng đến gặp các bác sỹ ở Hamburg, Schleswig, v v; họ đã mời tôi để tôi giúp cho một số bệnh nhân của họ khi tôi đến thăm. Ở Hamburg mọi chuyện đi quá xa, đến nỗi tôi bị thị trưởng thành phố câ m phát biểu trước dân chúng, bởi vì người dân Hamburg đã chuẩn bị trước mọi thư để tôi có thể nói chuyện với hàng ngàn người đang câ n giúp đỡ. 2. Mọi nỗi khổ đau của con người là mối bận tâm của tôi Bác sỹ, Tiến sỹ A. Kaul chư ng kiến các sự kiện diễn ra ở Herford và biên soạn lại trong một cuốn sách mỏng với tiêu đề Phép mâ u ở Herford. Dưới đây là một đoạn trích từ cuốn sách: * Xem khái niệm điều trị, bệnh nhân trong chương Bệnh nhân, điều trị, thí nghiệm Phâ n II, chương 7, trang 53 33

34 Hàng ngàn người bệnh và người đau yếu đang kéo đến thị trâ n nhỏ ở Westphalia, nơi một vị bác sỹ thâ n kỳ đang cư ngụ. Bằng xe buýt, xe ta i, ô tô, bằng tàu hỏa và đi bộ, bằng xe ngựa kéo, xe đạp, và xe ba gác, bằng xe đẩy và xe cư u thương, người người ngày đêm lũ lượt kéo tới Herford, nơi mà nhà thờ đạo Tin lành phủ bóng xuống Wilhelmsplatz, nơi mà tại số nhà 7 có Bruno Gröning đang trú ngụ cùng với bố mẹ của cậu bé đã được ông chữa lành. Nỗi thống khổ mà bao người bệnh thể hiện tại nơi đây thật khiến chúng ta choáng váng và đau xót vô bờ bến. Người đau ốm ngồi trong khu vườn và phâ n nhà phụ bao quanh, nơi đã dựng sẵn nhiều võng, ghế xếp và cáng. Những người mới đến chờ đợi ngày đêm để được chữa lành. Trong đêm 17 tháng 6/1949, ca nh sát đã muốn đưa khoa ng 50 bà mẹ cùng con nhỏ vào ngủ qua đêm trong doanh trại, nhưng nói với họ qua vô ích vì họ sẽ không rời vị trí của mình hay nhúc nhích dù chỉ 1cm; thậm chí mưa cũng không làm chọ họ rời đi. Họ kéo đến đây từ mọi vùng trên nước Đư c, những người tuyệt vọng và bị bệnh tật làm cho cùng quẫn, người trẻ, người già, phụ nữ, cô gái, trẻ em, từ mọi tâ ng lớp, giai câ p trong xã hội, người Mỹ, người Anh, người Bỉ, người Thụy Sỹ, Thụy Điển, Hungary, Ba Lan đều có mặt trong đám đông, thậm chí có ca người Romani nữa, sau khi một cháu bé Romani bị điếc được chữa lành. Người liệt, người mù, người điếc một cộng đồng đâ y khổ đau và chịu đựng. Người nghèo, người bâ t hạnh, dù họ tình cờ ngồi trên những chiếc ôtô sang trọng hay đang di chuyển nặng nề trong những chiếc nạng, người tuyệt vọng và người đâ y hi vọng, người mệt mỏi và tuyệt vọng, với mong ước duy nhâ t được lặp đi lặp lại hàng trăm hàng ngàn lâ n là: Tìm kiếm sự lành bệnh! Chẳng ai trong số họ quan tâm xem những gì đang xa y ra ở đây có được chính quyền đóng dâ u đồng ý hay

không, hay liệu khoa học đồng tình hay pha n đối hành động này. Họ cũng không hỏi xem người sẽ chữa bệnh cho họ là vị cư u tinh hay nhà thâ n học, tâ t ca những gì họ muốn là được chữa lành, được gia i thoát khỏi nỗi đau, họ muốn trở lại thành những con người vui vẻ và nhanh nhẹn, họ muốn được khỏe mạnh trở lại. Giữa một bên là nỗi thống khổ của con người, và bên kia là những tranh cãi ngày một nhiều xung quanh Bruno Gröning là hố sâu tội lỗi và sự thiếu hụt của con người. Những người đa nghi, những người hiếu kỳ, khách du lịch, những người ghen tị, buôn chuyện, những kẻ tự phụ, tự quyền và ngạo mạn, tâ t ca bọn họ đều bắt đâ u lên tiếng. Bọn họ ai cũng nghĩ rằng mình có điều muốn nói, rằng họ pha i đư ng lên vì công lý và luật pháp, và câ n pha i ba o vệ trật tự và an ninh công cộng. Khi đối mặt với bư c tranh đâ y nỗi thống khổ của con người, đáng lẽ những người này pha i giữ im lặng, quan sát kỹ rồi bỏ đi. Khi một người đã nằm liệt 20 năm trời như một cái xác đột nhiên đư ng dậy và bắt đâ u những bước đi chập chững thì cái gì đó mà chúng ta chưa từng biết đến đang xa y ra, cái gì đó vượt xa tra i nghiệm bình thường, hàng ngày của mỗi người. Với người bại liệt này và với chúng ta, điều kỳ diệu đã xa y ra, điều mà chúng ta đơn gia n không thể nào hiểu nổi, dù chúng ta có cố phân tích nó với hiểu biết thông thường và kết luận rằng, dù điều gì đang xa y ra đi chăng nữa, thì không có một bằng chư ng khoa học chính xác nào về việc Gröning đã chữa khỏi bệnh, ngoại trừ việc những căn bệnh đó đều là do tưởng tượng. Bà Klimphove 70 tuổi, ở số 123 đường Ostenfelfer, Ennigerloh, Westphalia đã bị liệt 7 năm trời; dù bệnh bà â y là do tưởng tượng hay có thật đi chăng nữa thì bác sỹ chữa cho bà bâ y lâu nay cũng không thành công. Ngày 16/6/1949, gâ n 2h chiều, người phụ nữ già này, 35

sau đúng 7 năm trời, đã nhâ c mình khỏi ghế mà không câ n giúp đỡ và tự do chuyển động hai cánh tay; sự kiện này do đích thân tôi chư ng kiến, đối với ba n thân tôi, là một trong những điều kỳ diệu mà kiến thư c ít ỏi của con người không thể nào gia i thích được, những điều mà mọi sự tính toán và đánh giá của chúng ta không thể hiểu thâ u. 36 3. Người liệt có thể đi, người mù có thể nhìn Trong cuốn sách nhỏ của mình, bác sỹ Kaul đã miêu ta râ t â n tượng về a nh hưởng của Bruno Gröning như sau: Trong số những người chờ đợi ở căn nhà số 7 Wilhelmsplatz để được chữa bệnh vào đêm 17/06/1949, có một vài đàn ông và phụ nữ người Anh, những người đã nghe kể về danh tiếng của Bruno. Một bác sỹ Đư c cũng đến cùng với ba bệnh nhân của ông: Một chàng trai trẻ bị bệnh lao phổi và lao xương với chân trái đang dâ n bị liệt, một cậu bé bị liệt ca hai chân, và một cô gái trẻ với chư ng đau đâ u kinh niên. Gröning chẳng khám xét gì ca. Không một chút châ n chừ, ông ba o chàng trai trẻ bị lao phổi rằng cậu hãy chú ý cẩn thận tới xương chân trái mình. Bây giờ cậu ca m thâ y thế nào? Một luồng điện nóng đang chạy khắp cơ thể cháu. Thế còn bây giờ? Chân trái cháu có ca m giác như bị châm. Bây giờ hãy nhâ c chân cháu cao như ta làm đây này! Gröning làm mẫu, uốn gập và nhâ c chân ông lên cao ngang bụng. Chàng trai trẻ châ n chừ. Cháu có thể làm được điều đó y như ta! Không chút khó khăn, chàng trai co chân lên ngang bụng, cái chân mà mới chỉ một vài phút trước thôi vẫn còn cư ng đờ. Không tin vào mắt mình, cậu ta hết nhìn xuống chân, lại nhìn sang ông bác sỹ. Điều này có thể thật sao? Cháu có

thể cử động chân rồi! Cháu sẽ khá hơn, nhưng câ n một chút thời gian đâ y. Hãy viết thư cho ta nhé!, và quay về phía người bác sỹ, Bruno nói ông hãy giữ liên lạc và thông báo cho tôi tình hình. Còn cậu bé bị liệt ca hai chân ngồi cạnh mẹ với đôi nạng thì Bruno nói Đư ng dậy đi, cậu bé của ta! Mẹ cậu bé lên tiếng: Cháu nó không thể đư ng dậy được; nó bị liệt! Gröning quay về phía bà. Bà không được nói như vậy!, ông nói với bà ta râ t gay gắt. Bà đang giữ khư khư bệnh tật của con trai bà đâ y! Nào đư ng dậy đi cậu bé của ta, cháu có thể làm được mà! Trên khuôn mặt nhỏ bé của cậu nổi lên những đốm đỏ, miệng cậu run run và nước mắt lăn dài trên má. Toàn bộ đám đông trong phòng nín thở, dõi theo cậu bé khi cậu từ từ nhâ c mình khỏi ghế và đư ng đó mà không câ n nạng. Và bây giờ hãy đi về phía ta! Với những bước đi nghiêng nga, cậu đi về phía Gröning, người lúc này đang dang tay đón cậu và nhìn vào mắt cậu râ t lâu. Ông âu yếm xoa đâ u đư a bé và đưa cháu về chỗ người mẹ: Hãy tiếp tục luyện tập, nhưng từ từ thôi nhé, đừng yêu câ u quá nhiều; đôi chân vẫn còn yếu lắm! Trên đường về nhà cháu hãy dùng nạng, nhưng cháu sẽ sớm vư t chúng đi thôi! Đôi mắt vui sướng của đư a trẻ và sự hạnh phúc của người mẹ là phâ n thưởng đối với Bruno. Cô gái trẻ với chư ng đau đâ u kinh niên đã hoàn toàn khỏi bệnh trước khi Gröning nói chuyện với cô. Không, cô â y không còn thâ y đau đớn gì nữa. Cô có muốn cơn đau quay trở lại không? Không, không, lạy Chúa, không! đôi môi cô ta rung lên. Và người bác sỹ thì sao? Ông â y theo dõi toàn bộ quá trình này mà không thốt nên lời. Ông đưa tay cho Gröning: Ông Gröning, tôi sẵn sàng phục vụ ông, tôi hoàn toàn thừa nhận ông. Gröning: Tôi cho ông ba cái ghế 37

38 miễn phí để bệnh nhân ông ngồi! Hãy nhận ca những ca nặng lẫn ca nhẹ và hãy nói cho tôi biết mọi việc tiến triển thế nào. Trong vòng hai tuâ n, ông sẽ nhận được tin của tôi! Điện thoại liên tục đổ chuông. Có một cuộc điện thoại gọi đến từ bệnh viện ở tỉnh B. Một bệnh nhân đòi gặp Gröning khẩn câ p. Ba o với cô â y là hiện giờ tôi không đi được. Tôi bận đến sáng mai, nhưng tôi sẽ giúp cô â y. Hãy ghi lại thời gian. Gọi lại cho tôi vào 9:00 giờ sáng mai. Một cuộc điện thoại khác: Được, tôi hư a là tôi sẽ đến. Chúng tôi sẽ đi lúc 5 giờ. Tôi sẽ ở đó và tôi sẽ giúp! Một phụ nữ trẻ ở Herford bị viêm dây thâ n kinh; cô không thể nào chịu nổi các cơn đau nếu không pha i dùng một lượng thuốc gia m đau lớn; không ngủ được và đau ghê gớm. Cô không thể xoay đâ u. Vậy mà cơn đau đâ u biến mâ t, đâ u cô â y hoàn toàn tỉnh táo: Quay cổ sang trái Tốt. Giờ quay sang pha i! Đau. Lại quay sang pha i! Lâ n này đã dễ dàng hơn. Trái, pha i, trái, pha i; đâ u cô ta cư xoay liên tục như thể đang tập thể dục: Giờ thì nó râ t tuyệt! Chỉ bây giờ thôi sao? Ca đời cô chỉ là một khoa ng thời gian ngắn ngủi như vậy. Cô nghĩ rằng cơn đau sẽ quay lại như xưa. Hãy đừng nghĩ về những sự đau đớn đó nữa, cô đã khỏe mạnh hoàn toàn! Một ông già 70 tuổi mắc bệnh Parkinson bốn năm rồi. Vậy mà giờ đây ông đư ng đó, không câ n gậy, đư ng thẳng. Tôi đã được gia i thoát khỏi bệnh tật! Còn có vô vàn những ví dụ khác nữa. Viết lại những câu chuyện này dễ hơn râ t nhiều so với việc ở đó chư ng kiến sự thật. Đằng sau những lời nói này là biết bao căn bệnh đã được chữa lành; trong hàng tiếng đồng hồ, bao nhiêu quyết định được đưa ra. Ông là người trao sư c mạnh cho người khác và trao liên tục không mệt mỏi.

Bạn được giúp đỡ bởi vì bạn đã tin tưởng! 39

40 Điếu thuốc không lúc nào tắt, căn phòng bị bao phủ bởi một bâ u không khí u ám. Đã qua nửa đêm từ lâu rồi. Ca thị trâ n đang ngủ. Nhưng ở căn nhà số 7 chẳng có thời gian nào để ngủ ca. ( ) Một người đàn ông 48 tuổi, ông R.H. đến từ Duisburg, đang nằm trong chiếc ô tô 4 cửa. Ông bị liệt, không thể tự làm gì được. Người nhà của ông đặt ông nằm trên ghế ôtô và lái xe đưa ông đến gặp vị bác sỹ kỳ diệu ở Herford. Họ đã đợi ở đó mâ y ngày rồi. Trong suốt 10 năm trời người đàn ông đã tìm đủ mọi cách chữa bệnh nhưng cuối cùng vẫn pha i buộc mình với cái giường. Biết bao hi vọng đã bị dập tắt trước khi ông từ bỏ trong tuyệt vọng. Và giờ đây một tia sáng mới lại soi rọi vào cuộc đời tàn phế của ông. Có lẽ đây là cơ hội duy nhâ t mà ông được cư u rỗi? Vào thư năm, ngày 16/6/1949 (Ngày lễ thi hài Chúa Cơ đốc), như hàng ngàn người khác, ông đang chờ đợi người đàn ông khác thường đó xuâ t hiện. Bruno Gröning đi tới chiếc ôtô. Ông cúi mình vào trong xe và nói nhỏ với người bệnh. Sau một vài phút, ông ra khỏi xe. Sự thay đổi đang diễn ra với người đàn ông bị liệt. Ông nhâ c chân về phía người và nâng mình dậy với tiếng rên nhỏ. Những cái chân vốn nằm chết bâ y lâu nay đột nhiên như được thổi vào nguồn sống mới, và sau đó, hết sư c khác thường và kỳ diệu thay, ông H. tự mình bò một cách nặng nề và khó khăn ra khỏi chiếc ôtô chật hẹp mà không có sự giúp đỡ của ai ca. Họ hàng của ông trong chiếc ô tô tròn mắt kinh ngạc, tim họ như ngừng đập và có tiếng thét vọng ra từ chiếc ô tô: Ông â y đang đi! Ông â y đang đi! Run lên và thổn thư c vì xúc động, họ dõi theo người đàn ông, người mà chỉ vài phút trước đây bị liệt hoàn toàn, đi bộ vòng quanh xe. Vô cùng phâ n khích; người đàn ông thực hiện các cử động xoay tròn; bước đi chưa vững và ông thường

xuyên vâ p, nhưng ông có thể đi! Âm thanh lắp bắp thốt ra từ miệng ông, lông mày ướt đẫm mồ hôi: Thượng Đế đã giúp chúng ta! Người đàn ông được chữa lành đang tựa vào cửa xe, thở hổn hển. Ông không thể hiểu được điều này; ông câ n được khẳng định đi khẳng định lại rằng ông không bị giâ c mơ nào đó đánh lừa. Không, ông có thể đi. Bruno Gröning đư ng cạnh ông trong yên lặng. Ông đặt tay lên vai người đàn ông và nhẹ nhàng nhắc nhở ông pha i từ từ, đừng cố gắng quá sư c. Hãy kiên nhẫn; ông đã khỏi bệnh, nhưng ông vẫn câ n thời gian để khỏi hẳn. Ông U.H. ở Warendorf, 58 tuổi, cũng ngồi đó và chờ đợi râ t lâu rồi. Mười năm qua ông đi lại hết sư c khó khăn và lúc nào cũng câ n gậy. Ông tới Herford với hi vọng được giúp, và ông thực sự đang được giúp. Ông vẫn chưa hiểu được chuyện gì đang xa y ra, ông đã có thể tự đi lại, không câ n gậy. Ông muốn cám ơn Gröning, và ông chìa ca hai tay ra. Đừng ca m ơn tôi, hãy ca m ơn Thượng đế! 4. Trên ban công ở Herford Bác sỹ Kaul cũng miêu ta trong cuốn sách của mình cách Bruno Gröning nói chuyện với người bệnh từ ban công: Vào tối này 17/06/1949, khoa ng ba tới bốn nghìn người tập trung trước cửa căn nhà số 7 ở qua ng trường Wilhelm. Ca người khỏe lẫn người ốm, được trợ giúp bởi nạng, xe lăn, cáng, đang chờ đợi thời khắc Bruno Gröning bước ra ban công. Tiếng rì râ m của hàng ngàn giọng nói vọng vào phòng khách nơi các người bệnh đến từ Anh quốc đang đợi được chữa lành. Trong số đó có vợ của một quan chư c câ p cao ở khu vực do Anh chiếm đóng. 41

42 Chuông của nhà thờ Cơ đốc giáo gâ n đó đổ 9:45 tối. Cùng với các trợ tá, Gröning bước ra từ cánh cửa đóng kín; tiếng reo hò và vỗ tay chào đón ông. Ông yên lặng nhìn quanh đám đông. Đám đông nín lặng, như đang trong nhà thờ. Từng đám mây lững lờ trôi trên nền trời đen sẫm, gió rì rào thổi trên đỉnh cây. Bằng giọng trâ m, đanh, và hiếm khi to hơn tiếng thì thâ m, Bruno Gröning nói: Các bạn tìm kiếm sự lành bệnh thân mến! Việc để các bạn pha i chờ đợi không pha i lỗi của tôi. Ngày hôm qua khác, ngày hôm nay lại càng khác nữa. Tôi đã, bằng nhiều cách, thể hiện cho các bạn thâ y là tôi có thể làm một điều gì đó. Tôi không tuân theo mệnh lệnh của con người. Tôi đã gia i quyết một số vâ n đề, mà các bạn cho rằng đó là điều kỳ diệu, nhưng chúng chẳng có gì kỳ diệu ca, chúng là lẽ tâ t nhiên. Con người chẳng thể làm gì kỳ diệu ca, nhưng cũng không ai có thể thực hiện những việc mà các bạn thâ y ở đây. Người ta có thể cố ngăn ca n bạn lành bệnh, nhưng tuy vậy, bạn vẫn sẽ khỏi bệnh. Tôi không câ n pha i có mặt ở đây; tôi sẽ vẫn có thể chữa lành cho các bạn. Những người bị liệt mâ y chục năm giờ lại đi lại được, người mù có thể nhìn và người điếc có thể nghe. Thậm chí nếu họ đặt tôi trong một thùng nước mưa và chôn tôi dưới đâ t, điều gì câ n xa y ra cũng vẫn sẽ xa y ra. Nó không thể bị dừng lại. Tôi không bị bắt buộc pha i giúp tâ t ca mọi người. Tôi biết rằng trong số một trăm người thì sẽ có khoa ng 10 người không có pha n ư ng gì với việc trị bệnh của tôi ca. Bâ t kể ai nhạo báng Thượng đế và không có niềm tin thì đều không thể được chữa lành. Nếu họ muốn câ m hoàn toàn hoạt động giúp đỡ của tôi ở Đư c, tôi sẽ buộc pha i ra nước ngoài, nhưng kể ca khi đó thì mọi chuyện ở đây cũng sẽ không có gì thay đổi. Việc chữa lành này sẽ xa y ra trên toàn thế giới.

Khi nghe xong những lời này, chợt có tiếng rên và âm thanh đau đớn từ một người phụ nữ ở dưới. Gröning từ từ quay mắt về phía bà. Tiếng rên rỉ dâ n dịu đi và rồi kết thúc trong im lặng. Người phụ nữ có thể đư ng thẳng người. Tâ t ca mọi người, dù đến từ quốc gia nào, chủng tộc nào, hay tôn giáo nào, đều đáng được giúp đỡ. Tâ t ca chúng ta đều là con của Thượng đế và chúng ta chỉ có một người Cha duy nhâ t, đó là Thượng đế. Chỉ Thượng đế mới có thể giúp chúng ta thoát khỏi nỗi khổ đau và những bệnh tật mà chúng ta pha i chịu đựng. Tâ t ca mọi thư sẽ diễn ra theo ý muốn của Người, kể ca khi tôi không còn ở đây với các bạn nữa. Bâ t kể thư gì tôi có, tôi sẽ trao cho các bạn, kể ca cuộc sống của tôi. Kể ca khi tôi nghèo, tôi cũng vẫn sẽ là người hạnh phúc nhâ t thế giới vì tôi có thể giúp đỡ người khác. Có một thư mà tôi không muốn có: đó là lời ca m ơn! Hãy ca m ơn Thượng đế. Chỉ duy nhâ t Người mang lại thành công này cho chúng ta. Cuộc đời tôi thuộc về tâ t ca mọi người vì thế từng phút, từng giây đều râ t có giá trị. Câ n nói ít hơn, để có thể làm nhiều hơn. Nỗi đau đớn càng lớn, quá trình Regelung* càng dài. Cái tốt đẹp trong con người pha i đánh đuổi cái xâ u đi. Cái tốt được cân bởi việc làm, và nếu chúng không quá nhẹ thì vẫn còn hi vọng lành bệnh. Hãy vư t bỏ mọi đau đớn mà bạn pha i chịu đựng, hãy quẳng chúng khỏi con người bạn! Đột nhiên một người đàn ông lớn tuổi với nước mắt lưng tròng chạy đâ y phâ n khích qua đám đông; một tay ông câ m cái ghế gập mà trước đó người nhà đặt ông ngồi trên nó. Chân pha i của ông đã bị liệt hoàn toàn và tay trái đã không còn hoạt động. Ông đã tới giữa đám đông và đi đi lại lại một cách tự do, dù vẫn còn hơi chệnh choạng. Cánh tay ông â y vẫn yếu và hơi xưng. * xem chỉ dẫn trang 6 43

44 Bạn đã được giúp vì bạn có niềm tin! Tâ t ca các bạn, những ai đang pha i chịu đựng và có nỗi đau, hãy giơ tay lên! Hàng ngàn cánh tay giơ lên. Và bây giờ các bạn sẽ không ca m thâ y bâ t kỳ nỗi đau nào nữa. Chỉ còn một vài cánh tay vẫn giơ cao. Tôi muốn đến chỗ các bạn, đến tâ t ca mọi nơi, phía bắc, phía nam, phía tây và phía đông, để các bạn không pha i tìm đến tôi nữa! Tôi sẽ cho các bạn biết các bạn có thể tìm tôi ở đâu. Thượng đế mang lại cho các bạn những gì tốt đẹp nhâ t! Hàng trăm tiếng gọi vọng lên: Ông sẽ tới Munich, tới Stuttgart, tới Heidelberg, tới Kiel, tới hồ Constance chư? Khi tôi rời khỏi nhà Gröning khoa ng 2h sáng thì vẫn còn hàng trăm người đang đợi trước cổng, chờ đợi và hi vọng. Và ngồi trên gác là người đàn ông không hề biết đến sự mệt mỏi hay giâ c ngủ dù trong giây lát, giữa đám đông những người bệnh mà ông đang giúp. Tôi đi về khách sạn, trâ m tư suy nghĩ. Vài khách đến muộn vẫn đang ngồi trong phòng ăn, ban nhạc đang chơi và vài cặp đôi đang nha y. Tâm trí tôi đột nhiên quay về với người đàn ông kỳ lạ ở căn nhà số 7 ở qua ng trường Wilhelm. Ông ngồi đó với những con người nặng gánh bệnh tật, những người mà ông đang chiến đâ u vì họ. Trong 2 giờ nữa, ông pha i lái xe 180km tới chỗ một phụ nữ ốm nặng đang nằm viện, người đã gọi điện xin ông giúp đỡ. Những kẻ nhạo báng nên im lặng, những người hoài nghi nên giữ trật tự, vì bằng cách đó họ sẽ giúp tạo ra thiên đường cho người khỏe và cuộc sống cho những người đã được chữa lành. Tiếng nói tuân thủ pháp luật tuyệt đối của các nhà câ m quyền thật nhỏ bé biết bao so với điều gì đó

vô cùng lớn lao nhưng đang hiện hữu, cái mà người ta gọi là điều kỳ diệu nhưng không hề thờ cúng. Nơi lý trí quá bé nhỏ để có thể hiểu điều kỳ diệu này, chúng ta nên lánh xa sự ngạo mạn và tự cao thái quá. Khi khốn cùng, con người trở nên nhỏ bé và bắt đâ u hi vọng. ( ) Gröning nói: Ba n thân tôi cũng bị nhạo báng và giễu cợt. Nhưng tôi vẫn tiếp tục. Tôi không câ n lên tiếng. Âm thanh sẽ tới chỗ mọi người bệnh và mọi người sẽ nhận được điều mà họ mong chờ bao lâu nay! Tôi chỉ là người trợ giúp, ba n thân niềm tin có thể làm nên tâ t ca. Và một lâ n nữa, lời ca m ơn không pha i dành cho tôi. Chúng duy nhâ t thuộc về Thượng đế! ( ) Quá trình lành bệnh chính là Regelung. Mỗi bệnh tật, khi có Regelung, sẽ đi kèm với cơn đau do Regelung. Cơn đau sẽ đến rồi đi cho đến khi quá trình chữa bệnh hoàn tâ t. ( ) Việc này không phụ thuộc vào tôi, một người đàn ông nhỏ bé, cũng không phụ thuộc vào quyền năng vĩ đại của Thượng đế. Nó phụ thuộc vào chính con người. ( ) Tôi muốn các bạn hiểu rõ điều này: Người đáng được gọi là con người là người mang niềm tin Thượng đế trong mình, sống với niềm tin đó, hay ít nhâ t là sẵn sàng đón nhận nó; những người đó sẽ được giúp mãi mãi. ( ) Trước đây tôi chỉ có một hoặc hai nhân chư ng. Giờ số nhân chư ng của tôi đã như một quốc gia nhỏ. Bây giờ, hãy chờ đợi và hãy tiếp nhận những điều tôi nói; đó không pha i những từ trống rỗng. Tâ t ca mọi người ở đây đều có thể mang sự chữa lành về cho người thân của mình ở nhà. Con số những người được chữa bệnh từ xa đã chư ng minh điều đó. Có những người đã được cư u 45

thoát từ bờ vực của sự chết chóc. Mọi sự diễn ra y như những gì tôi nói. ( ) Việc chữa bệnh là điều ít nhâ t tôi có thể làm. Bạn sẽ dâ n hiểu thêm về điều này. Bạn sẽ hoàn toàn ngạc nhiên. 5. Sự kiểm chứng ở Heidelberg Ngay từ đâ u, mục đích của Bruno Gröning là làm việc với các bác sỹ. Khi ông nhận được lời đề nghị kiểm tra phương pháp chữa bệnh * của mình bằng các thí nghiệm y khoa với sự hợp tác của bệnh viện trường đại học Heidelberg vào mùa hè 1949, ông đã đồng ý. Tạp chí Revue đã yêu câ u hai phóng viên và nhà tâm lý học ở Marburg Giáo sư Tiến sỹ Gerd Heinz Fischer điều tra các ca lành bệnh ở Herford, và họ đã chư ng minh được những ca lành bệnh trên. Tờ tạp chí này sau đó quyết định chi tra kinh phí cho toàn bộ dự án kiểm chư ng. Năm 1950 Bruno Gröning gia i thích vì sao ông đồng ý tham gia thí nghiệm này như sau: Sự thực rằng tôi đã và vẫn là người hỗ trợ các bác sỹ lý gia i cho việc tôi châ p thuận lời đề nghị hợp tác với các bác sỹ ở Heidelberg dưới sự chỉ đạo của Giáo sư Weiszäcker, Giáo sư Fischer và Tiến sỹ Wüst với mong muốn thực tâm là chư ng minh cho họ thâ y phương pháp trị bệnh của tôi, và để họ biết rằng tôi muốn giúp mọi người nhưng không muốn làm các bác sỹ thâ t nghiệp. Trong một ba n tha o có tiêu đề Sự kiểm chư ng ở Heidelberg, Bruno Gröning miêu ta những cuộc kiểm tra đó diễn ra như thế nào: Tháng 6/1949 tôi nhận được lệnh câ m chữa bệnh từ chính quyền bang. Điều này chẳng có cơ sở gì ca vì tôi * Xem khái niệm điều trị, bệnh nhân trong chương Bệnh nhân, điều trị, thí nghiệm Phâ n II, chương 7, trang 53 46

không chữa bệnh, mà chính Thượng Đế mới là người chữa bệnh. Những lời tôi nói trước đám đông tụ tập ở đó mong được giúp đỡ đã có sư c mạnh râ t lớn và đã giúp họ lành bệnh, những người đã mắc những căn bệnh mà các bác sỹ đều tuyên bố là không thể chữa được. Râ t nhiều người đã kinh ngạc về việc đó. Giáo sư F., người sống ở Marburg vào thời điểm đó, cùng với tạp chí Revue, cũng â n tượng đến nỗi sau đó ông đã nghiên cư u về những ca lành bệnh và khẳng định rằng sự lành bệnh rõ ràng đã xa y ra. Việc này càng làm họ hư ng thú và sau đó họ đã liên tục khẳng định sự thành công trong những cuộc điều tra trên diện rộng, và việc làm của họ lại càng khẳng định sự thành công của quá trình chữa lành. Ba n thân tôi lúc đó cũng không ở Herford, mà là ở bắc Đư c. Giáo sư F. đã huy động mọi phương tiện ở Herford để tôi có thể nhận được tin và quay về Herford ngay lập tư c, vì giáo sư F. và một vài người đàn ông khác nóng lòng đợi tôi về và họ có kế hoạch dọn đường cho tôi để tôi có thể làm việc tự do. Tôi châ p thuận lời đề nghị này. Tôi đã vài lâ n nói chuyện với Giáo sư F. ở Herford, và ông đã hư a sẽ cùng với Giáo sư W. và bệnh viện của ông ở Heidelberg giúp tôi mọi việc. Họ đã không chỉ muốn làm mọi thư để dọn đường cho tôi. Các bác sỹ đã râ t hư ng thú với tôi và việc tôi làm, vì thế họ muốn hợp tác lâu dài với tôi. Những quí ông ở đây râ t hào hư ng, vì như họ nhâ n mạnh, họ đã bị thuyết phục 100% bởi những gì tôi làm, và trên hết, họ câ n pha i để a nh hưởng của tôi mang lại lợi ích cho toàn nhân loại. Chúng tôi đã thống nhâ t rằng tôi câ n pha i có mặt ở bệnh viện ở Heidelberg 10 ngày để có thể chư ng minh cho tập thể bác sỹ rằng việc chữa bệnh qua con người của Gröning có thể được kiểm chư ng và được ba o đa m về y học. Vài ngày sau đó, tôi phát hiện ra rằng tạp chí Revue sẵn lòng tài trợ kinh phí cho toàn bộ dự án này. Tôi được thu 47

xếp một ngôi nhà ở gâ n Frankfurt ngay cạnh con sông Main để nghỉ ngơi vài ngày, để có thể tập trung tâm lực để chuẩn bị cho nhiệm vụ sắp tới. Tạp chí Revue tường thuật đặc biệt về những nghiên cư u này: Bruno Gröning trước mặt các bác sỹ của bệnh viện trường đại học Heidelberg. ( ) Chúng tôi nhâ t trí với Tiến sỹ W. rằng thí nghiệm nên bắt đâ u vào ngày 27/7/1949. Bệnh nhân được lựa chọn từ số những người gửi thư yêu câ u Gröning giúp đỡ. Có khoa ng 80.000 thư như vậy: Những lá thư của người bệnh chỉ còn một hi vọng duy nhâ t là được Gröning chữa lành, và những lá thư ca m ơn từ các bệnh nhân đã được Gröning điều trị* Từ Herford, chúng tôi mang theo 80.000 lá thư đó bằng xe ta i. Một số bệnh nhân khác sẽ được chuyển đến từ bệnh viện Ludolf Krehl để điều trị. Ngày 26/7 Revue thuê một ngôi nhà ở Heidelberg cho Gröning và những trợ tá thân cận của ông để ông có thể thực hành*ở đây. Sáng ngày 7/7, Gröning rời ngôi nhà cô quạnh trong rừng ở dãy núi Taunus và đến Heidelberg một vài giờ sau đó, an toàn và khỏe mạnh, bằng ô tô của chúng tôi. Những nghiên cư u ở Heidelberg được ghi lại hết sư c cẩn thận bằng băng ghi âm và cũng được ghi chép đồng thời bởi một người viết tốc ký. Các bác sỹ quan sát râ t kỹ những việc làm của Gröning cũng như tác động của việc làm đó lên người bệnh. Tâ t ca bệnh nhân đều được kiểm tra ở bệnh viên trước và sau khi gặp Gröning để xác định những thay đổi do hoạt động của Gröning mang lại. Ba n thân Gröning không hề nhận được thông tin gì về kết qua của các cuộc nghiên cư u sơ bộ, cũng như không hề biết về lịch sử của căn bệnh và các chẩn * Xem khái niệm điều trị, bệnh nhân trong chương Bệnh nhân, điều trị, thí nghiệm Phâ n II, chương 7, trang 53 48

đoán về căn bệnh trước đó. Tuy vậy, những ca lành bệnh hết sư c phi thường đã diễn ra. 6. Trường hợp của Strobel Tờ Revue đã báo cáo một cách chi tiết về những sự việc xa y ra ở Heidelberg. Một trong những số đó là trường hợp của Strobel: Strobel là một thợ đã được đào tạo, làm việc trong nhà máy cáp, sinh ngày 30 tháng 1 năm 1906, lập gia đình năm 1928 và đã có một con. Ngoài bệnh viêm phổi, trước đây ông ta chưa bao giờ mắc pha i bệnh gì. Trong chiến tranh, ông đã ba lâ n bị thương ở chân và mông do ma nh lựu đạn. Một tai nạn nghiêm trọng đã xa y đến với ông ta vào năm 1944. Ông ta nhớ như in rằng mình đã bị gãy cổ nhưng chưa bao giờ ông nói về điều đó. Ông đã từng là tù nhân chiến tranh nhưng đã được tha tự do vào tháng tư năm đó. Tháng 8 năm 1945, ông ta bắt đâ u gặp pha i một số khó khăn khi cử động cổ, tiếp theo là đau ở háng, và cuối cùng thì đi lại khó khăn. Cột sống bị vôi hoá hoàn toàn, không thể cử động đâ u, đau khủng khiếp khi đi lại và khi lên xuống câ u thang. Đây là một biểu hiện của bệnh Bechterew (viêm và vôi hoá cột sống.) Đây là một đoạn trích từ băng ghi âm, nó đã cho thâ y Bruno Gröning đã a nh hưởng đến người bệnh như thế nào: Strobel: (đột nhiên ca m thâ y đau ở hai bên xương chậu) Gröning: Bạn vẫn còn đau pha i không? Strobel: Vâng, nhưng bây giờ không quá đau nữa. Gröning: Nó sẽ hết dâ n. Hãy nhắm mắt lại và quan sát! Bây giờ thì điều gì đang xa y ra? 49

Strobel: Chỗ đau đã đỡ hơn. Xương sống tôi đang cư ng lại. Tôi có ca m giác nó sắp bị gãy vụn. Gröning: Một vài nhồn nhột nhẹ sẽ làm cho các đốt sống mềm hơn. Đư ng dậy nào, cúi lưng xuống dâ n, uốn cong từ cổ bạn xuống dưới ( Strobel uốn cong người xuống dưới sàn nhà). Gröning: Bây giờ thì từ từ- hãy nâng dâ n lên! Strobel: Lưng phía sau bị đau. Gröning: Cúi đâ u xuống- như thể bạn muốn nhìn xuống sàn nhà vậy! Nghiêng đâ u sang pha i, sang trái- cư tiếp tục như thế! Nhìn lên và xuống và sang bên này rồi sang bên kia, lên và xuống và sang bên này rồi đến bên kiasang bên pha i và sang bên trái. Strobel: (Lặp lại những cử động đó nhiều lâ n). Gröning: Cong ngón cái ở bàn tay pha i của bạn lên. Bạn ca m thâ y điều gì ở ngón cái? (dừng lại) Strobel: Một ca m giác dễ chịu. Gröning : Và bây giờ thì bạn ca m thâ y gì trên lưng của bạn? 50

Strobel: Tôi không ca m thâ y gì ca. Nó hoàn toàn yên tĩnh ở phía sau. Gröning: Bạn lại ngồi xuống đi! Bây giờ, cái gì đang xa y ra trong cơ thể bạn? Strobel: Bây giờ thì hoàn toàn dễ chịu. Gröning: Còn bây giờ bạn ca m thâ y thế nào? Strobel: Bây giờ thì tôi chưa thể nói ngay được. Gröning: Bạn đã bắt đâ u thâ y gia m bớt căng thẳng ở phâ n dưới cơ thể. Strobel: Tôi chưa ca m thâ y gì ca. Gröning: Hãy nhắm mắt lại và quan sát cơ thể bạn! Strobel: Xương sống của tôi đã hết đau rồi, Tôi thâ y thật dễ chịu (ông ta đư ng bật dậy mà không ca m thâ y khó khăn gì). Gröning: Trước đây bạn đư ng lên như thế nào? Strobel: Trước đây tôi đã pha i râ t khó khăn mới có thể đư ng dậy được- vì trước đó người tôi hoàn toàn cư ng đờ. Gröning: Bạn hãy bước vài bước! 51

Strobel: Tôi đau nhiều ở vùng bàn chân, nhâ t là khi leo câ u thang, hâ u như không bước lên cao được, đau ghê gớm, bên trái đau nhiều hơn bên pha i. Gröning: Bạn hãy thử chạy lên câ u thang xem nào! Strobel đi tới câ u thang, bâ t ngờ nha y lên nha y xuống vài bậc. Ông mừng vô hạn. Gröning: Bạn hãy quay đâ u sang pha i và sang trái! Strobel: Nó kêu răng rắc cư như có cát ở trong. Gröning: Thế bây giờ như thế nào? Strobel: Tôi thâ y nhẹ hơn. Gröning: Tiếng răng rắc đã hết chưa? Strobel: Chưa nó vẫn răng rắc! Gröning: Bạn hãy để tay vào đó bạn hãy bỏ tay ra! Strobel vẫn tiếp tục cử động đâ u. Gröning: Rồi sẽ ít đi. Strobel: (vẫn cử động đâ u). Vâng, tốt rồi. Gröning bận rộn với mâ y bệnh nhân khác. Strobel: Tôi thâ y nhẹ nhõm tôi hết đau rồi, hết đau 52

ca trong xương chậu nữa, mọi đau đớn đã biến sạch. Gröning đề nghị Strobel bước lên câ u thang một lâ n nữa. Strobel: lại nhẹ nhàng nha y lên rồi nha y xuống. Kết qua giám định: Sau lâ n điều trị* đâ u tiên thông qua Bruno Gröning việc đi lại đã hoàn toàn dễ dàng. Bệnh nhân hoàn toàn dễ chịu. Làm thế nào mà những điều như thế lại có thể xa y ra? Bruno Gröning chỉ nói chuyện với người bệnh, xem ông ta ca m thâ y những gì, và đề nghị ông ta quan sát cơ thể trong vòng vài phút những đau đớn đã biến mâ t, một căn bệnh mà trước đó đã tra i qua những ca chữa trị của các bác sĩ nhưng không có kết qua, một căn bệnh mà cho đến ngày nay y học vẫn chưa chữa được. 7. Bệnh nhân, điều trị và xét nghiệm Bên cạnh những bài báo đưa tin giật gân, tin tư c của tờ Revue cũng có một a nh hưởng không nhỏ. Một cách hiển nhiên, trong những lời bình luận về trường hợp của Strobel trên, những a nh hưởng của Bruno Gröning luôn được * Xem khái niệm điều trị, bệnh nhân trong chương Bệnh nhân, điều trị, thí nghiệm Phâ n II, chương 7, trang 53 53

mô ta với các thuật ngữ y hoc như: Sự chữa bệnh thông qua Gröning, Gröning bận rộn với những bệnh nhân khác, Phương pháp chữa bệnh của Gröning, Phòng điều trị bệnh, Sự chẩn đoán, v.v. Thoáng qua thì điều đó có thể dễ dàng châ p nhận và dư luận ít chú ý. Nhưng về sau nó gây cho Bruno Gröning râ t nhiều phiền phư c. Một trong những lý do chính chống lại ông đó là ông đã vi phạm luật chữa bệnh. Chúng ta sẽ tìm hiểu kĩ hơn về việc này ở phâ n sau của cuốn sách, nhưng điều đáng chỉ ra là ở đây ông đã bị buộc tội vì tiếp nhận người bệnh và chữa trị cho họ, và đã chẩn đoán bệnh, và vì ông hành nghề y mà không có bằng bác sỹ hoặc công nhận được hành nghề chữa bệnh. Thoạt nhìn thì đó là những dẫn chư ng có vẻ dễ châ p nhận. Những gì Bruno Gröning thực hiện cũng giống hệt như những gì người ta viết về công việc của một bác sĩ: Người ốm sẽ khoẻ mạnh trở lại. Do đó, hệ qua là những gì Bruno làm cũng giống như những gì mà một bác sĩ thông thường vẫn làm. Bruno đã làm mà không có giâ y phép, và do vậy, ông đã bị câ m chữa bệnh. Qua các xét nghiệm ở Heidelberg và những báo cáo mà tờ Revue đăng công khai như: Gröning điều trị, Gröning có bệnh nhân, Gröning chẩn đoán bệnh. Công việc của ông được mô ta bởi những chuyên từ y học. Không chỉ các bác sỹ ở Heidelberg mà ca những người tìm kiếm sự giúp đỡ, những người đã được lành bệnh đều nói như vậy, họ nói rằng họ đã từng ở trong phòng khám của Bruno Gröning. Ngay chính ba n thân Bruno Gröning trong những năm đâ u tiên cũng đã từng công khai nói về a nh hưởng của Ông với những khái niệm như phương pháp chữa bệnh, điều trị, bệnh nhân, chẩn đoán. Chỉ mãi sau này, khi Ông nhận ra điều tai hại này Ông đã loại bỏ nó và khẳng định rằng những gì Ông làm hoàn toàn không liên quan đến sự chữa bệnh mang ý nghĩa y học, mà nó xa y ra thuâ n tuý bằng con đường tinh thâ n. Ông đã liên tục chỉ ra rằng không pha i Ông, mà là Nó đã chữa lành bệnh, rằng những lời 54

dạy của Ông đưa những con người ốm yếu trở lại khoẻ mạnh và lại sống tốt, và rằng Thượng Đế là người thày thuốc vĩ đại nhâ t và cũng là người chữa lành bệnh chân chính nhâ t. Sau này bác sỹ Wilhelm Beyer đã viết trong một ba n đánh giá về Bruno Gröning như sau: Có thể nói một cách khác rằng nhờ khuynh hướng đặc biệt của mình mà ông có vai trò như một trạm biến áp, một người trung gian mang dòng lực Thượng Đế đến cho mọi vật, nuôi dưỡng và ba o vệ cuộc sống trên Trái đâ t. Ông ca m nhận a nh hưởng của mình và đã diễn đạt hết sư c rõ ràng rằng: Không pha i là tôi chữa bệnh mà là NÓ (Thượng Đế) chữa bệnh thông qua tôi. Kiến thư c này không pha i là của Ông mà Ông chỉ là công cụ của một thế lực cao hơn, đó là tín ngưỡng chân chính. Nhưng những bác sĩ ở Heidenberg lại không nắm bắt và hiểu được những a nh hưởng thực sự của Bruno Gröning. Họ chỉ được chỉ định miêu ta những sự việc xa y ra quanh Bruno Gröning bằng những từ ngữ và mô hình gia i thích của họ để có thể xếp chúng vào chuyên mục riêng của họ. Và họ cũng mô ta a nh hưởng của Bruno Gröning bằng những thuật ngữ riêng của họ. Điều đó đã gây tổn hại cho Bruno Gröning. Ông đã đâ u tranh chống lại điều đó trong nhiều năm nhưng vô ích. Ảnh hưởng của Ông qua nhật ký lành bệnh của Strobel đã chỉ ra rằng: Công việc của ông không liên quan gì đến việc chữa bệnh. Ông không điều trị, không xét nghiệm mà ông luôn nói rằng những thành công của Ông có được là do Thượng Đế. 8. Không phải quỷ sa tăng Bruno Gröning đã viết về kết qua cuộc kiểm tra ở Heidelberg như sau: Kiểm tra y học đã mang lại một kết qua tốt đẹp. Giáo sư F. và Tiến sỹ W. đã thông báo cho tôi như vậy. Tiến 55

sỹ W. là người đã trực tiếp thực hiện những cuộc kiểm tra này theo đề nghị của Giáo sư F. Trên cơ sở các kết qua kiểm tra này, tôi được đa m ba o rằng con đường làm việc tương lai của tôi sẽ được dọn quang. Tôi được hoạt động tự do trong các trung tâm chữa bệnh, với sự cộng tác của các bác sỹ, để họ có thể theo dõi từng ca bệnh một cách cẩn thận nhâ t có thể, để có thể xác nhận chính xác hơn nữa về kha năng của tôi, không pha i chỉ để cho dân chúng biết, mà còn vì sự tôn trọng đối với ngành y nữa. Giáo sư Fischer đã xác nhận trong ba n tiền giám định được in trong tạp chí Revue rằng Bruno Gröning không pha i là quỷ sa tăng. Tuy nhiên ông vẫn chưa đưa ra kết luận cuối cùng như đã hư a. Nguyên nhân của vâ n đề này chúng ta sẽ xem xét kỹ trong phâ n 3 của cuốn sách này. Trong phâ n này chúng ta chỉ xem xét những khó khăn ngày một rõ ràng trong mối liên hệ giữa Bruno Gröning và nghề y. Tờ Neue Presse ở Passau đã đăng một bài vào ngày 10.09.1949 như sau: Công việc chữa lành bệnh của Bruno Gröning không liên quan gì tới y học. Bruno Gröning đã tạo ra một căng thẳng bâ t thường trong lĩnh vực y tế. Sau khi có lệnh câ m chữa bệnh ông đã biến mâ t không để lại dâ u vết. Bây giờ vâ n đề được đặt ra là ông đang ở đâu. Tạp chí Revue đã cử một giáo sư y khoa và hai nhà báo điều tra về hiện tượng Gröning và bây giờ các kết qua điều tra của họ đã được công bố trong một loạt phóng sự. Dựa trên quan điểm của chuyên gia, giáo sư, tiến sỹ G. H. Fischer ở Marburg và nhà tâm lý học Germer cộng thêm với kết qua kiểm tra của trường đại học y khoa Heidelberg có thể kết luận rằng Gröning không pha i là quỷ sa tăng, không pha i nhà thôi miên, không pha i thày thuốc thâ n kỳ, mà ông là nhà tâm lý trị liệu bẩm sinh, một bác sỹ tâm thâ n, một người có phong cách làm việc 56

khoa học, thú vị, một phong cách trị liệu tâm lý đâ y hư a hẹn. Những tin đồn xung quanh những ca lành bệnh bâ t thường đã được xác nhận. Và như vậy Bruno Gröning đã được giới chuyên môn công nhận. Những căng thẳng phát sinh xung quanh con người ông đã cho chúng ta thâ y rõ hơn về những hoàn ca nh xâ u xa trong thời đại chúng ta: Một số lượng lớn bệnh tật được xác định là không chữa được. Hàng loạt con số thống kê đã chư ng tỏ rằng y học ngày càng có những tiến bộ vượt bậc trên phạm vi toàn câ u. Và nếu thế thì chúng ta pha i thâ y ngày càng có ít người ốm, bệnh viện càng ngày càng ít bệnh nhân và các bác sỹ sẽ có nguy cơ thâ t nghiệp cao hơn chư. Nhưng khi nhìn vào cái gương của Bruno Gröning thì chúng ta thâ y điều hoàn toàn ngược lại, và với những người chữa bệnh thâ n kỳ khác, câu chuyện cũng xa y ra tương tự. Râ t nhiều người mắc những căn bệnh được coi là không chữa được đã hành hương đến gặp họ. Những người bệnh này đã tốn kém râ t nhiều tiền của và thời gian để mong được lành bệnh, mặc dù phâ n lớn trong số những người này có thể được các bác sỹ chuyên môn tư vâ n miễn phí. Vậy mâu thuẫn giữa y học hiện đại, với vô vàn thành tích khoa học â n tượng, và vô số những căn bệnh được xem là không chữa được sẽ được gia i thích như thế nào? Điều đó chỉ có thể gia i thích được bằng thực tế là chúng ta vẫn chưa hiểu một cách đâ y đủ về ba n châ t của con người. Điều đó có nghĩa là một con người không đơn thuâ n chỉ là một thể xác; một con người còn bao gồm ca tâm hồn và tinh thâ n nữa. Khi con người bị ốm thì lúc nào cũng là toàn bộ cơ thể họ bị ốm, ca thể xác, tâm hồn và tinh thâ n đều bị tâ n công. Điều trị thể xác hay nói khác đi là điều trị các cơ quan bị bệnh không 57

58 có nghĩa là điều trị con người bị bệnh. Nguyên nhân gây bệnh trong tâm hồn và tinh thâ n thì vẫn còn đó và chúng lại a nh hưởng trở lại các cơ quan. Một thể xác đã được chữa lành không có nghĩa là một con người đã được chữa lành. Khách thường trực của bệnh tật lại xâm nhập vào cơ thể từ phía cửa sau và đẩy con người tới tình trạng bệnh không chữa được. Nhưng y học là một ngành khoa học chỉ có thể nghiên cư u khía cạnh vật châ t đơn thuâ n và chỉ có thể điều trị một cách giới hạn. Những thâ y y hành nghề không nhâ t thiết pha i tuân thủ những qui định của y học. Ngày xưa họ đã từng là linh mục, là bác sỹ tâm linh và hôm nay họ cũng có thể sẽ là như vậy nếu họ không gặp những vướng mắc với chính quyền bởi những qui định khắt khe về hệ thống ba o hiểm y tế. Một hệ thống sai lâ m! Các công ty ba o hiểm y tế được thành lập trên cơ sở lý thuyết rằng bệnh tật chỉ thuâ n tuý là vật châ t, là các quá trình hữu cơ và do đó có thể ba o hiểm được. Do vậy hệ thống ba o hiểm y tế không tạo điều kiện để điều trị về mặt tinh thâ n và tâm linh. Một tồn tại thực tế là ba o hiểm y tế chỉ giới hạn trong việc chẩn đoán các cơ quan nội tạng, bác sỹ được tra lương thâ p, bộ máy hành chính quan liêu đã can thiệp vào quan hệ giữa bác sỹ và bệnh nhân ngay từ đâ u với giâ y xác nhận ốm đau. Do vậy mối quan hệ cá nhân bị ca n trở, mà đó lại là thư không thể thiếu trong việc điều trị những vâ n đề về tinh thâ n. Hàng tỷ đồng ngân sách quốc gia đã được chi cho việc chữa trị những bệnh nội tạng trong khi những bệnh tâm hồn thì vẫn còn đó và lại là nguyên nhân sinh ra những bệnh nội tạng khác. Vô vàn những căn bệnh gọi là không chữa được tạo gánh nặng cho ba o hiểm y tế, vốn là một hệ thống phá vỡ quan điểm rằng bác sỹ chỉ đơn thuâ n là người hành nghề chữa bệnh.

Theo truyền thuyết về Procrustes, con quái vật đã buộc người khác pha i nằm chung giường với nó bằng cách kéo lê họ hoặc chặt chân họ. Câu chuyện này đã cho thâ y một tội ác thời trung cổ, và tội ác này lại một lâ n nữa bám theo chúng ta, để chúng ta lại thâ y nó trong trường hợp của Bruno Gröning. Một thiên tài chữa bệnh bị buộc pha i nằm chung giường với y học hiện đại, vốn có ba n châ t khác xa nhau. Thậm chí một vị giám kha o thiện chí và không thành kiến như giáo sư Fischer cũng sợ rằng Bruno Gröning có thể gây thiệt hại do không công nhận một số căn bệnh nguy hiểm nên ông yêu câ u Gröning pha i tham gia tập huâ n gì đó về y tế hoặc pha i làm việc dưới sự giám sát của một bác sỹ. Nhưng cũng ở điểm này, giáo sư Fischer lại mâu thuẫn với chính những lời nói của ông trước đây bởi khi nếu Bruno Gröning thực sự có năng lượng trị liệu lạ thường thì nó câ n được đem ra sử dụng đối với những căn bệnh nguy hiểm mà y học hiện đại đã đâ u hàng. ( ) Nếu buộc Bruno Gröning pha i nằm chung giường Procruste của y học hiện đại, thì sẽ chẳng mang lại kết qua gì ca, ngoại trừ sự phá hủy năng lực trị liệu của ông và điều này, với vô số những người mắc những căn bệnh được xem là không chữa được, thì qua là điều đáng tiếc. Món quà kha năng chữa bệnh mà Gröning có được không thể so với công việc tri thư c hóa mà các nghiên cư u y học thường làm. Và nếu như bên cạnh Bruno Gröning luôn có một người chuyên gia y tế theo sát thì nguồn năng lượng từ Gröning phát ra tới người bệnh sẽ bị tiêu diệt. Do vậy những cuộc thí nghiệm đã thực hiện với Gröning không thể có được các điều kiện nguyên ba n giống như những ca lành bệnh mà Gröning đã thực hiện trước đó, bởi các nhà thí nghiệm đã tự đặt 59

Ngày xưa tôi chỉ có 1 hoặc 2 người làm chư ng. Ngày nay thì có ca một quốc gia nhỏ. 60 họ vào hoàn ca nh mà sẽ hủy hoại kha năng chữa bệnh chư không đem lại ích lợi gì ca. Không ai có thể áp đặt ý chí của họ lên một người có kha năng chữa bệnh khác thường dù bằng bâ t cư cách nào. Kha năng chữa bệnh của họ không phụ thuộc vào thuốc, và chúng ta câ n để kha năng đó phát triển như vậy, phát triển tự thân. Hãy để y học đi theo con đường của y học và Bruno Gröning đi theo con đường của riêng ông. Họ đã dựa vào luật hành nghề chữa bệnh từ năm 1939 vẫn còn có hiệu lực vào thời điểm đó để câ m hoạt động chữa bệnh của Gröning, và cũng chính luật này đã cho phép những người hành nghề y kiểm tra người có kha năng chữa bệnh là Gröning. Nhưng họ lại không kiểm tra xem ông có thể chữa lành bệnh hay không, điều mà ông đã chư ng minh từ lâu, mà họ chỉ kiểm tra xem ông có biết vị trí của cơ ư c đòn chũm ở đâu không hay bệnh lao phổi được phát hiện khi nào, v v, và làm cho

kha năng chữa bệnh bằng tinh thâ n lệ thuộc vào những thư đó. Đối diện với đám đông mang những căn bệnh được cho là không chữa được, thì những việc làm như vậy thật lố bịch. 9. Sự xuất hiện của Bruno Gröning trong lịch sử Năm 1950 Bruno Gröning đã viết về sự tiến triển của sự việc sau sự kiểm chư ng ở Heidelberg như sau: Hülsmann đã liên lạc với Munich và, sau này tôi đã phát hiện ra, ông liên lạc với nhà báo Slaweg của tờ báo tin tư c buổi tối München. Slaweg đề nghị cung câ p cho Hülsmann một viện điều dưỡng, và sau này tôi đã phát hiện ra là họ định lâ y Traberhof ở vùng Rosenheim phục vụ cho mục đích này. Ba n thân tôi được người chủ sở hữu là ông Harward tiếp đón và đề nghị tôi làm khách của ông. Ông đề nghị để tôi tự do sử dụng một căn hộ đâ y đủ tiện nghi, để tôi có thể di chuyển tự do trong ngôi nhà, và ông cũng bố trí vài phòng ở cho những người đi cùng tôi. Việc ở, ăn, uống của chúng tôi là hoàn toàn miễn phí. Trong những ngày đâ u ở đây chúng tôi đã được yên tĩnh một cách tuyệt vời. Nhưng rồi càng ngày càng có nhiều nhà báo, bác sỹ, và những người ốm kéo đến. Những người ốm đến ngày một đông khiến ngày nào căn nhà cũng đâ y ắp người bệnh, ca ở trong lẫn ngoài nhà. Trong ba n lý lịch 1956 Bruno Gröning đã viết: Bâ t cư nơi nào tôi có mặt đều có sự lành bệnh. Tháng 9/1949, nhiều ngày liền, cái sân trước mặt ngôi nhà Traberhof đều chật kín với khoa ng trên 30.000 người đổ về Rosenheim từ khắp vùng miền của nước Đư c và ca từ những nước khác trên thế giới nữa. 61

Những điều xa y ra quanh Bruno Gröning râ t khác thường, đó là những điều mà cho đến tận hôm nay người ta vẫn khó lòng tưởng tượng nổi. Năm 1950 Tiến sỹ Kurt Trampler một luật sư, một nhà báo đã viết trong lời mở đâ u cuốn sách của ông Cuộc trở về nguồn vĩ đại như sau: Năm 1949 ở Đư c không có sự kiện nào lại gây sự chú ý mạnh mẽ và sự đồng ca m nội tâm sâu sắc như những sự kiện quanh Bruno Gröning. Ý nghĩa về sự xuâ t hiện của người đàn ông này hoàn toàn không thể mô ta bằng một bư c tranh vật châ t về thế giới. Đây cũng chính là nguyên nhân sâu xa của các cuộc chiến quan điểm vô cùng gay gắt về con người và kha năng chữa bệnh của Ông. Những người tư duy vật châ t vốn chỉ tin những điều có thể sờ mó được, đo đếm được thì không thể hiểu được kha năng của Gröning và do đó chống đối nó. Nhưng ai còn mang trong mình nỗi kính sợ với những điều vô tận và thâ n thánh; ai không chịu giao phó những quyết định quan trọng nhâ t của cuộc đời mình cho lý trí đơn thuâ n thì người đó ít nhâ t cũng cố gắng tìm hiểu một cách nghiêm túc và có trách nhiệm về dòng lực trị liệu của Bruno Gröning, dòng lực đến từ một nguồn năng lượng vĩnh cửu, ngoài sư c tưởng tượng của chúng ta. Thêm vào đó, những người như vậy sẽ có thể tin vào những hiện tượng mà chính họ đã quan sát cẩn thận, ngay ca khi họ không tìm thâ y bâ t kỳ sự gia i thích thoa đáng nào bằng những kiến thư c hiện có. Dù cho những khám phá sau cùng về Bruno Gröning hay công việc của ông là thế nào đi chăng nữa, thì sự xuâ t hiện của ông đã tạo ra một ngã rẽ tư tưởng cho loài người chúng ta: Một bên là những người về thâm tâm đã sẵn sàng châ p nhận sự tồn tại của những thư không thể đo đếm được, và bên kia là những người từ chối tin vào điều đó. 62

Quan điểm chung trên thế giới hiện nay là vật châ t sẽ tự nó huỷ diệt nó. Cũng tại đây sẽ chia ra hai nhóm người: Một nhóm cam chịu để mình trôi dạt về phía tha m hoạ một cách khờ dại, hoặc nếu họ thuộc về những giai câ p có sư c mạnh thì họ hi vọng sẽ sống sót với đạo đư c của những kẻ lợi dụng người khác; Nhóm kia là những người luôn giữ vững đư c tin trong sự hỗn loạn và tin tưởng rằng một cuộc sống mới sẽ trở lại, và sẽ dẫn dắt mọi cuộc đời quay về với sự cân bằng, hài hoà và hợp tác trong một trật tự cao hơn. Sở dĩ có thực tế này là vì hiện nay râ t nhiều người trên thế giới đang tự hỏi mình câu hỏi này, bởi ý nghĩa của cuộc đời họ gắn liền với câu tra lời rằng không chỉ những người ốm đau trong vô vọng mới cậy nhờ Gröning. Những người khỏe cũng đặt câu hỏi rằng liệu những ca lành bệnh không thể gia i thích được có pha i là dâ u hiệu của một bước ngoặt trong thời đại chúng ta. Thực ra, với nhiều người bệnh, câu hỏi cuối cùng này thậm chí còn quan trọng hơn ca sự lành bệnh của chính họ. 10. TE DEUM (Bản giao hưởng: Ngợi ca Thượng Đế) ở Rosenheim Ông Trampler đã mô ta những sự kiện xa y ra ở Traberhof theo cách riêng khó có thể tưởng tượng được của ông như sau: Gröning gặp gỡ hàng ngàn những người đang tìm kiếm sự giúp đỡ trước Traberhof gâ n Rosenheim. Đó là một sự kiện gây xúc động mạnh mẽ: Một bước ngoặt đáng nhớ, tại thời điểm mà hôm nay chúng ta đang đư ng đây, với một biểu tượng hết sư c rõ nét. Dòng người cuồn cuộn đổ về Traberhof. Đó là những con người đau khổ, những người bị bỏ rơi, những số phận cay đắng với niềm hy vọng cuối cùng là được an 63

64 ủi và được chữa lành bệnh. Họ đều bị buộc tội là những người chống lại chủ nghĩa duy vật thời bâ y giờ. Họ đã bị đánh đập tàn nhẫn, trên người mang đâ y vết thương chiến tranh. Họ bị bắt buộc pha i rời bỏ quê hương, bị bỏ rơi trong sự thâ t vọng và nghèo khổ, họ đến với Gröning. Có thể râ t ít người trong số họ có ý thư c bư c ra khỏi sự ốm yếu và giác quan thật sự của thế giới. Khoa ng thời gian tội lỗi và vượt qua ranh giới đến với một thời đại mới. Những người có lòng tin vững chắc tạo sự hài hòa, có tổ chư c và không tách rời khỏi Thượng đế. Nhưng tâ t ca những người đó đều ngự trị những ca m giác không gia i thích được mà họ pha i chịu đựng từ cái lạnh và sự tách rời vô ca m khỏi Thượng đế, được mang ra từ chủ nghĩa duy vật, và từ đó cũng như những người chữa bệnh hay nói. Họ đang giao phó số phận của họ cho lòng nhân từ độ lượng của Thượng đế. Những hình a nh giờ tận thế của các bậc thày thời trung cổ đã hiển hiện tại đây và người ta thâ y rõ ràng rằng bệnh tật sinh ra khi con người tiếp nhận những điều tồi tệ. Tâ t ca những gì ẩn giâ u trong những vết thương và chư ng bệnh nan y, tâm thâ n và trâ m ca m nặng nề sợ sệt chốn ở trong nhà trước sự tò mò vô ca m đều được phơi bày ra ở đây thật phũ phàng. Đàn bà và con trẻ với những khuôn mặt bợt bạt kiệt sư c và đôi mắt quằn quại cháy bỏng không còn biết khóc nữa; người què cụt và liệt không tự cử động được; những người lắc lư bởi các cơn co giật thâ n kinh khủng khiếp với những khuôn mặt méo mó đâ y bọt mép, những người khác thì co giật và khóc nư c nở tâ t ca đã tụ tập ở đây, họ đã được đưa đến đây: Hàng ngàn và nhiều nhiều ngàn vô tận. Sư c sống, sư c sáng tạo, hạnh phúc và niềm tin đã từng dâng tràn trong họ nay đã bị vùi dập sau những dây thép gai trại tập trung, đã bị chôn vùi trong các ngôi nhà tàn phá

vì bom đạn, đã nằm lại ở quê hương đã bị chiếm đóng. Vào những tuâ n này tôi không tìm thâ y được một ai đã từng tra i qua những đau khổ quá sư c tưởng tượng như thế. Nếu ai để mắt vào núi vô vàn các bư c thư câ u giúp của những người vì bệnh tật, nghèo khổ mà không thể đến gặp Gröning được, thì sẽ rõ hơn rằng những người đã đợi chờ ở đây bao ngày cho hy vọng cuối cùng của họ chỉ là những người đại diện của vô vàn người bệnh, người tàn tật và tuyệt vọng. Họ xuâ t hiện ở nhiều nơi vì chiến tranh, vì mối thù ghét và sự ngờ vực, do qui tắc và số phận quốc gia. Chắc chắn rằng trong số những người này cũng có những người mắc bệnh trong thời bình. Phâ n lớn những người tìm kiếm sự giúp đỡ là nạn nhân của những thiết bị khoa học phư c tạp của sự khá hủy loài người, và tâ t ca những điều đó làm cho con người không thể chịu đựng nổi về mặt tinh thâ n, những gánh nặng tâm lý của thời gian chúng ta. Hâ u hết trong số họ là những người tàn tật, trở về từ ngục tù, họ là những người đã bị đánh bom, những người lánh nạn đã quá mệt mỏi vì pha i đi bộ quá nhiều ngày từ nơi này đến nơi khác, trước khi họ nhận được sự chăm sóc, hay nhận được một mái â m che thân. Họ là những nhóm người thuộc vô vàn khu hành chính mà ở đó họ chỉ gặp những khuôn mặt dơ bẩn và nhẫn tâm chư không pha i là sự â m áp của một tâ m lòng nhân đạo, sẵn sàng giúp đỡ của con người. Phâ n lớn họ đều thâ y rõ rằng những người giàu có có thể cho đi một thư gì đó rồi lại được nhận lại một thư gì đó dễ dàng hơn so với người nghèo, những người chẳng có thư gì ngoài ốm đau, bệnh tật và đau khổ. Những người chờ đợi Bruno Gröning không pha i là những người nhẹ dạ ca tin hay những người có kha năng phâ n khích. Phâ n lớn họ thuộc týp người dửng dưng, hoài nghi nhưng lại râ t thính tai với bâ t kỳ sự bâ t công hay 65

Tôi kêu gọi các bạn quay trở về nguồn (großen Umkehr) 66 những lời nói tâ m thường nào, những người chỉ có thể được thuyết phục bởi những hành động giúp đỡ thực sự. Vào những ngày những đêm trước sự kiện to lớn chữa khỏi bệnh ngày 9 tháng chín lúc đó Gröning đang ở miền bắc nước Đư c -, thì sự chữa lành bệnh từ xa đã

xa y ra trong những người đang đợi Ông. Dưới â n tượng mạnh mẽ của những sự kiện như thế một biến đổi đã diễn ra từ từ trong các người bệnh : Một lực đã có tác dụng ngay trước mắt họ mà không có người nào gia i thích nổi, và dòng lực đó đã đem lại sự cư u gia i cho người bệnh, mà chẳng ai đã có thể cư u giúp họ được nữa. Những người chư ng kiến điều này cho dù là những nhà học gia thông thái đi chăng nữa thì cũng không thể phân tích hiện tượng kỳ lạ này bằng những kiến thư c sách vở của họ. Họ chỉ là những người đang tìm kiếm sự giúp đỡ mà họ không có kha năng tìm ở đâu được nữa, và họ là những người đã chịu đựng mọi thử thách của mọi đau đớn. Và giờ đây họ sẵn sàng, tại thời điểm này, từ những sự khỏi bệnh mà họ đã nhận được, để nhận ra bàn tay Thượng đế, để tra i nghiệm sư c mạnh Thượng đế. Đó là bằng chư ng cho thâ y họ câ n pha i thoát ra khỏi cơ chế của thời đại vật châ t cư ng nhắc. Họ, những người nghèo nhâ t trong những người nghèo đã trở nên giàu có trong giờ phút này bởi vì họ đã ca m nhận một sự chuyển biến sâu thẳm trong trái tim họ, cái mà một số người khoẻ mạnh giàu có không thể có được trong suốt cuộc đời họ. Một lâ n nữa, màn đêm sâu thẳm bao trùm hàng ngàn người đang chờ đợi. Và sau đó NÓ đã xa y ra: Một số người bắt đâ u câ t lên những tiếng nói mà trước đó họ đã không thể nói được trong một thời gian dài, và càng ngày càng nhiều người tham gia cùng câ u nguyện: Cha chúng ta, Người ở thiên đàng Và sau đó TE DEUM (ba n giao hưởng ngợi ca Thượng Đế) vang lên một cách trang trọng và nghiêm trang. Trong giờ khắc này, một điều tuyệt diệu hơn đã xa y đến hơn ca sự lành bệnh của một người đã bị liệt ca chân, tay và thâ n kinh: Con người đã tìm được đường đến với Thượng đế. 67

68 Buổi chiều ngày hôm sau khi Bruno Gröning đư ng trước những người đang tìm kiếm sự giúp đỡ, ông nhận thâ y họ chưa bao giờ sẵn sàng đón nhận sự lành bệnh đến như vậy. Ông đư ng im lặng gâ n một tiếng trước đám đông đang câ u nguyện, thu nhận và sử lý những nỗi đau của họ. Sau đó ông nói những lời lẽ cư u rỗi linh hồn đến từ Thượng đế, người cha và bác sĩ của tâ t ca mọi người, hâ u như những dòng kinh thánh đã trở thành hiện thực. Những người bệnh nhổm dậy khỏi cáng, những người liệt quăng nạng đi và tự đi được, một em nhỏ mù được sáng mắt nhìn thâ y rõ. Tiếng kêu ca m ơn vang dội từ những người mới được chữa khỏi, trong số những người này mới chỉ có một phâ n đã thể hiện rõ kết qua của sự trị liệu ngay tại chỗ. Hai tháng sau và còn lâu hơn tiếp tục nhiều người khỏi bệnh đã thông báo. Đư ng từ tiền sa nh của Traberhof một trong những bác sĩ giỏi nhâ t của chúng ta đã chư ng kiến tâ t ca những gì đã xa y ra. Ông xúc động sâu sắc trước những sự kiện đã xa y ra và lâ y những hoa trái của giờ phút thiêng liêng đó là niềm tin theo suốt cuộc đời rằng con người sẽ chẳng là gì hết nếu không nhận được ân huệ của Thượng đế, hiểu biết và năng lực không thể làm ta khỏi bệnh nếu ta tỏ ra không khiêm nhường trước ân huệ đó. Đêm lại đến. Bruno Gröning đã đi nhiều ngày không ngủ, lại ngồi một mình trong một thời gian ngắn trước khi ông gặp những trường hợp đặc biệt nặng. Với cách cư xử thể hiện sự tốt bụng và lòng trắc ẩn, ông lắng nghe tiếng nói của những người tìm kiếm sự giúp đỡ. Im lặng bao trùm căn phòng. Không ai có thể diễn ta nổi ca m giác đã làm tâ t ca chúng ta pha i động lòng. Nhưng chúng ta đều nghe thâ y từ bên ngoài, như một câu tra lời cho hy vọng của chúng ta, một câu hỏi thoáng qua: Đế chế của Người đã đến với chúng ta.

11. Tôi cho bạn biết Tiến sĩ Trampler tiếp tục mô ta những sự việc xung quanh Gröning: Như chúng ta đã biết, trong tâ t ca những xung đột ý kiến về Bruno Gröning; các nhà báo, các bác sĩ và các nhà khoa học tự nhiên vẫn cố gắng tìm hiểu bí mật về năng lượng của Gröning bằng cách điều tra, xem xét những ca lành bệnh thành công đã được xác định dưới những góc nhìn như họ vẫn thường nghĩ, để có thể tiếp cận Bruno Gröning. Và thật lạ lùng, nguồn thông tin chủ yếu được sử dụng nhưng lại hiếm được nói tới là: Những lời nói của Gröning. Con người ta, một cách thiển cận nhâ t, lại quen với những lời nói và từ ngữ ông thường dùng để bổ xung chú thích cho những ca lành bệnh của mình, và những từ ngữ đó có thể được loại bỏ. Họ không hiểu được rằng đó là những từ khoá ông cho chúng ta để làm tăng thêm hiểu biết của chúng ta về sự kỳ lạ không thể lý gia i được trong những ca lành bệnh ông mang tới. Một số người ốm khi đến gặp Bruno đã tiếp nhận dòng lực trị liệu râ t rõ ràng nhưng lại không được lành bệnh, và theo tôi thì đó là do họ đã không có ý thư c tiếp nhận, tin tưởng và mở rộng lòng đón nhận những lời nói của người chữa bệnh. Những lời nói và những từ ngữ trong những ca lành bệnh của Gröning có một sư c mạnh và ý nghĩa tinh thâ n râ t lớn nên nó câ n pha i được suy ngẫm một cách thận trọng và nó có ý nghĩa đến mư c người ta có thể nói rằng: Ai không muốn nghe những lời đó thì có nghĩa là người đó không câ n được lành bệnh bởi lời nói chính là sư c mạnh dẫn đến sự lành bệnh và duy trì sự lành bệnh.- Tôi cho các bạn biết Bruno Gröning muốn gửi thông điệp đến cho người nghe rằng đó không pha i là một bài nói chuyện bình thường. Những 69

70 từ này chính là món quà ông ban tặng cho người nghe, để người nghe có thể hiểu được ba n châ t sư c mạnh của ông, cái mà cho đến lúc đó họ chỉ có thể phỏng đoán, hoặc hoài nghi. Chúng ta hãy nghe một trong những bài nói chuyện của ông (Traberhof, buổi tối ngày 27 tháng 8 năm 1949) về sự lành bệnh: Ai tiếp nhận và ai được phép tra i nghiệm sự lành bệnh? Người được phép tiếp nhận sự lành bệnh là người luôn có Thượng Đế trong tim và có niềm tin ở Thượng Đế và luôn sống với niềm tin đó. Ngoài ra còn có những người nhiều năm nay họ đã đánh mâ t niềm tin, đã không còn tin ở Thượng Đế, xa rời Thượng Đế, đã bị kẻ xâ u lôi kéo và họ bị a nh hưởng bởi những điều xâ u xa, bẩn thỉu. Tôi cho các bạn biết rằng tâ t ca các bạn những người đang sống trong một thế giới Thượng Đế vĩ đại này, đều là con của Thượng Đế. Bác sỹ duy nhâ t và bác sỹ của tâ t ca loài người là và mãi là cha Thượng Đế của chúng ta. Chỉ có Thượng Đế mới có thể giúp đỡ chúng ta. Nhưng Người chỉ có thể giúp đỡ những người đã tìm thâ y và đi theo con đường của Người hoặc những người như tôi đã nói, sẵn sàng đi theo con đường Thượng Đế, có niềm tin nơi Thượng Đế và sống với niềm tin đó. Bạn không câ n pha i tin vào Bruno Gröning nhỏ bé này nhưng bạn hãy đặt niềm tin ở tôi và cám ơn Thượng Đế về những hành động vĩ đại của Người, về quyền năng và sự huy hoàng, lộng lẫy của Người. Bạn không câ n pha i cám ơn tôi. Tôi cũng không nhận tiền của ai. Tôi chỉ làm nghĩa vụ của mình cũng như những gì các bạn đã làm đối với nghề nghiệp của các bạn Điều đó phụ thuộc hoàn toàn vào con người, vào việc họ sẵn sàng đón nhận sự lành bệnh như thế nào. Điều đó có nghĩa rằng: Họ pha i trong sạch. Họ pha i biết rằng họ không được phép báng bổ Thượng

Đế. Họ pha i biết rằng họ có nghĩa vụ pha i kết nối với Thượng Đế. Có như vậy họ mới được coi là con người trong sạch. Trong những lâ n nói chuyện riêng, tôi cũng thường nghe Gröning nói qua quyết rằng ông lãnh trách nhiệm do Thượng Đế giao phó là giúp đỡ những người đau khổ được lành bệnh hoàn toàn chỉ thông qua lực Thượng Đế, chí ít là giúp những người thật sự muốn sống theo luật của Thượng đế, loại trừ những người không sẵn sàng từ bỏ điều xâ u. Có một lâ n ông nói: Gia dụ tôi có thể làm cho hàng loạt người được khỏi bệnh đồng thời và nói rằng: Tâ t ca những người bệnh của một thành phố hay một đâ t nước đồng thời khỏi bệnh! Như vậy thì những người bệnh có sẵn sàng từ bỏ những điều xâ u trong họ để quay trở về với điều thiện không? Như vậy họ sẽ chỉ lạm dụng sư c khoẻ mà họ vừa có được hay không? Không, trước tiên con người pha i thay đổi nội tâm, pha i sẵn sàng từ bỏ những điều xâ u trong con người họ và tìm đường quay trở về với Thượng Đế. Có như vậy họ mới xư ng đáng được lành bệnh. Những kẻ đối đâ u với Gröning ngay lập tư c tâ n công lại quan điểm đó và cho rằng những người ốm không nhận được sự chữa lành bệnh từ Gröning sẽ ca m thâ y bị Thượng đế bỏ rơi, họ sẽ suy sụp tinh thâ n và bị tổn thương nghiêm trọng, họ thậm chí sẽ đau đớn hơn ca trước kia. Gröning kiên quyết bác bỏ luận điệu đó và cho rằng họ chỉ cố tình làm điều độc ác. Bâ t kỳ ai có thói quen xem xét kĩ từng từ, suy ngẫm những gì ông Gröning nói thì không thể hiểu sai ý của ông. Những người được chữa lành bệnh không thể là những kẻ làm những điều độc ác, hay những kẻ báng bổ Thượng Đế. Điều đó không có nghĩa là tâ t ca mọi người sẽ được lành bệnh. Điều đó chỉ có nghĩa rằng tâ t ca mọi người 71

72 đều được phép câ u xin sự lành bệnh. Liệu có xa y ra với những trường hợp cá biệt hay không, điều đó phụ thuộc vào một loạt tiêu chuẩn nằm ngoài phán quyết của người bệnh. Đó là những vâ n đề mà Bruno Gröning không muốn nói tới ngay ca với những người thân cận. Nguyên nhân sự khủng hoa ng của loài người mà ngày nay chúng ta vẫn thường thâ y đã được nói tới trong bài nói chuyện của Bruno Gröning buổi tối ngày 31.8.1949 tại Traberhof: Đã nhiều thế kỷ nay con người đã đi chệch khỏi con đường tự nhiên, xa rời niềm tin ở Thượng Đế của chúng ta. Mọi người đều tin rằng họ có thể tự khẳng định ba n thân. Ai cũng nghĩ rằng Bây giờ chúng ta đang ở trên Trái đâ t này. Chúng ta sẽ quyết định mọi thư chúng ta muốn, và chẳng bao lâu nữa chúng ta sẽ biết cách tự giúp mình. Ai cũng tin là như vậy. Nhưng tôi cho các bạn biết rằng không có cha Thượng Đế của chúng ta thì không ai có thể được giúp đỡ. Người nào tin rằng mình có thể xa rời tự nhiên điều tuyệt vời mà Thượng Đế đã tạo ra cho con người, thì hãy để cho người đó đi bâ t kỳ đâu anh ta muốn. Con người cho rằng một người có thể chỉ ra sự khác biêt giữa họ với người khác bằng cách từ bỏ thiên nhiên và leo lên bậc thang của văn hóa. Sai lâ m là ở đó, ở đó chư a đựng tâ t ca, cái mà con người thiếu là: Thiên nhiên. Hãy quay trở về với thiên nhiên! Hãy quay trở về với Thượng Đế của chúng ta, quay trở về với niềm tin vào những điều tốt đẹp của con người! Cho đến ngày nay, sự căm thù và ghen tỵ vẫn còn, chúng không chỉ tồn tại giữa những người Đư c với nhau mà giữa các dân tộc trên Trái đâ t với nhau. Việc đó nhâ t thiết pha i kết thúc. Và điều đó chỉ xa y ra khi tâ t ca mọi người tìm thâ y con đường trở về với niềm tin. Khi đó không còn sự căm ghét giữa con người, giữa các dân tộc

trên Trái đâ t này. Và chỉ có như vậy hoà bình thế giới mới được đa m ba o. Điều mà Ông mong chờ ở những người mong muốn được tra i nghiệm sự lành bệnh đã được ghi chép lại trong bài nói chuyện ở Traberhof (tối ngày 27.8.1949): Bạn nên đối xử với những người xung quanh bạn như con người với con người. Hãy yêu người hàng xóm như yêu chính ba n thân bạn! Đừng ghét bỏ, đừng làm điều sai trái, không làm điều gì xâ u cho bâ t kỳ ai. Bạn pha i đối sử tốt với tâ t ca mọi người, đối sử tốt với nhau. Các bạn pha i biết rằng các bạn thuộc về nhau, không phân biệt giàu, nghèo. Không bao giờ được ghen tỵ! Có người có cái này nhưng người khác lại không có. Điều tốt nhâ t và tuyệt vời nhâ t, điều có giá trị thực sự không pha i là tiền bạc như bạn vẫn nghĩ. Sư c khoẻ mới là điều quí giá nhâ t. Sư c khoẻ là tâ t ca, nó có giá trị hơn tiền bạc. Và do đó bạn không có quyền nói rằng người có nhiều tiền hơn bạn là người giàu hơn bạn. Ba n thân Gröning là một người theo đạo Thiên Chúa giáo. Nhưng trong khi ông mong đợi niềm tin của những người tìm kiếm sự lành bệnh, ông không chỉ nghĩ đến tôn giáo của mình. Ông thường xuyên nhâ n mạnh rằng không có sự khác biệt khi con người tìm đến với Thượng Đế bằng bâ t cư cách nào bởi tâ t ca mọi người đều là con của Thượng Đế. Tuy nhiên ông luôn đòi hỏi những người kiếm tìm Thượng Đế sự trung thực và ngay thẳng một cách tuyệt đối. Ông thù ghét mọi sự phô trương tôn giáo. Trong một buổi nói chuyện với những người bệnh (Rosenheim, ngày 17 tháng 10 năm 1949), ông đã cho họ một lời khuyên như sau: Con người chỉ câ n trao cho tôi niềm tin của họ, không chỉ những khi gặp nhau, mà mọi lúc mọi nơi. Nhưng điều khó nhâ t ở đây là niềm tin vào Thượng đế, niềm tin 73

mà anh ta ca m nhận thực sự và luôn sống với niềm tin đó. Nó không pha i như mọi người nghĩ rằng một lâ n một tuâ n, vào chủ nhật, họ đi đến ngôi nhà của Thượng đế*, để câ u nguyện và như vậy là họ đã hoàn thành nghĩa vụ của tuâ n đó, sau đó họ có thể đi và làm những việc theo sở thích và ý muốn của riêng họ. Điều đó là sai hoàn toàn. Nếu tôi nói tôi tin vào Thượng đế, tôi cũng pha i làm điều mà một người có niềm tin đó pha i làm và pha i là một người gương mẫu, pha i tỏ rõ rằng mình là một con người tốt. Giữa bài nói chuyện những người tìm kiếm sự giúp đỡ đã cám ơn về sự lành bệnh họ đã được tra i nghiệm. Bruno Gröning đã tiếp tục: Những lời ca m ơn không dành cho tôi. Những lời đó dành cho Thượng đế. Hãy ca m ơn Người trong suốt cuộc đời bạn! Hãy chư ng tỏ rằng bạn là một người tin tưởng vào Thượng đế! Hãy đi đến ngôi nhà của Thượng đế*, câ u nguyện ở đó với sự thành tâm! Hãy đừng làm cái điều mà một số người vẫn từng làm cho đến nay là chỉ đền đó để nhìn xem những người khác đang mặc trên mình loài trang phục gì và nói về họ, và nói những điều bẩn thỉu khác mà chính tôi đã mắt thâ y tai nghe. Các bạn không nên làm điều đó. Khi một người đi vào nhà thờ** anh ta nên thành kính ca m ơn Thượng đế về tâ t ca những điều tốt đẹp mà Người đã làm cho anh ta. Bằng những lời nói này Gröning đã chư ng minh rằng ông không cố gắng để gây dựng một giáo phái hay tôn giáo xung quanh mình ( ) Ông hướng dẫn mọi người đi vào nơi thờ tự tôn giáo của riêng họ. Ông yêu câ u ở họ một chiều sâu trong đời sống tôn giáo của mình ( ) Và điều đó gia i thích vì sao chúng ta thâ y khi những người nghe bài nói chuyện của ông, lại có thể khẳng định một * Giáo đường, nhà thờ, đền, chùa ** Khái niệm tôn giáo 74

cách chắc chắn rằng họ tăng cường niềm tin chính trong tôn giáo của họ chư không pha i ở một tôn giáo mới nào khác. Họ đã xác nhận niềm tin này qua sự lành bệnh mà họ đã tra i nghiệm và ca m tạ sự lành bệnh này ngay trong chính nhà thờ* của họ mà không câ n để ý đến việc người khác có cho điều đó là hợp lý hay không. 12. Sự quay trở về nguồn vĩ đại Trampler tiếp tục: Bruno Gröning thường xuyên nói với các thính gia rằng rằng: Tôi muốn biết chắc chắn rằng tâ t ca các bạn đều là những người tốt và có niềm tin. Ông luôn nhắc nhở những người được chữa lành bệnh về sư c mạnh của kẻ xâ u và lưu ý họ rằng không chỉ pha i nhận ra sự xâ u xa của chúng mà còn pha i nhận ra sự cám dỗ cũng như cách nguỵ trang của chúng. Một lâ n khi tra lời câu hỏi của tôi ông đã nói: Ngày nay bằng cách này hay cách khác kẻ ác đã nắm được 9/10 nhân loại. Tôi pha i có trách nhiệm làm đa o ngược điều này. Tôi pha i tách họ ra khỏi điều ác để cuối cùng con số 9/10 đó pha i quay trở lại với điều tốt. Ông cho rằng kẻ xâ u luôn tìm cách chống lại cái tốt. Có những người luôn có ý thư c phụng sự kẻ xâ u đến mư c họ không bao giờ có thể thoát ra khỏi điều đó. Mặt khác Gröning cho rằng phâ n lớn những người đã và đang có những hành động tội lỗi, đều là nạn nhân, chịu a nh hưởng xâ u của môi trường do sự yếu kém của ba n thân họ. Tuy nhiên trong sâu thẳm trái tim họ cũng khao khát vươn tới điều thiện. Đó chính là những người Ông đặc biệt muốn giúp đỡ. ( ) Trong những buổi nói chuyện về chủ đề điều thiện và điều ác, có một lâ n tôi hỏi ông về vâ n đề tự do ngôn * Khái niệm tôn giáo 75

luận. Ông đã tra lời một cách hết sư c rõ ràng và dư t khoát rằng ông không bao giờ can thiệp vào quyền tự do của mỗi người. Tôi được phép giúp đỡ cho con người đi tìm con đường đến với điều thiện, nhưng tôi không được phép quyết định thay họ hoặc bắt họ làm điều thiện. Mỗi người pha i tự tìm lâ y con đường của mình. Đó chính là lý do vì sao ông không bao giờ xâm phạm đến quyền tự do của bâ t kỳ ai, ông không cho rằng ám thị và thôi miên là điều hiểm ác. ( ) Lời nói của những người nghèo nhâ t trong số những người nghèo, những người bị những căn bệnh đã được cho là không chữa được đeo bám, những người đang chờ đợi Gröning ở Traberhof, đã cho thâ y rằng họ đã trung thành với ông với một sự tận tâm râ t ca m động và với lòng trung thành. Ngoài sự điều trị* trên thực tế, họ còn thực sự đã ca m nhận niềm hạnh phúc và sự an toàn, vì họ đã được tiếp cận với một con người với lòng nhân từ và sẵn sàng giúp đỡ mà không câ n bâ t cư một điều kiện gì về tài chính cũng như thủ tục hành chính giâ y tờ. Đặc biệt là những người còn mặc ca m về sự nghèo đói của họ, những người thậm chí không có kha năng tài chính để chăm lo cho sư c khoẻ của họ, còn chưa biết cách yêu câ u người khác giúp đỡ, đã tỏ lòng biết ơn vô hạn tâ m lòng nhân hậu vĩ đại của người đàn ông, người đã giúp họ không vụ lợi, thậm chí còn không hỏi ngay ca đến tên của họ. ( ) Những người chưa thật hiểu về con người Bruno thường hay hỏi ông câu đâ u tiên là: Ông có thể chữa được những căn bệnh nào? Gröning gia i thích rằng về căn ba n ông có thể chữa khỏi mọi căn bệnh, nhưng không pha i ai cũng có thể được giúp đỡ. Ở một số * Xem khái niệm điều trị, bệnh nhân trong chương Bệnh nhân, điều trị, thí nghiệm Phâ n II, chương 7, trang 53 76

những căn bệnh nghiêm trọng, điều đó còn phụ thuộc vào việc người bệnh đang ở vào giai đoạn nào. Có những căn bệnh ông có thể lâ y ra khỏi cơ thể họ chỉ trong vài tích tắc, còn có những người khác câ n một thời gian chuẩn bị lâu hơn. Ông gia i thích rằng: Tôi câ n pha i làm cho những bộ phận đã bị chết từ lâu phục hồi lại. Không pha i lúc nào người ta cũng ca m nhận được ngay rằng cuộc sống mới đã quay trở lại. Thường thì người ta pha i chờ đợi lâu, nhưng sau đó thì nó có thể xuâ t hiện một cách bâ t ngờ Miễn là bạn không bao giờ cho phép mình bị kẻ ác tâ n công và không bao giờ được phép nghi ngờ. Ông râ t hay nói với những người bệnh pha i chờ đợi lâu rằng: Việc bạn đã thay đổi cũng có một giá trị nhâ t định. Trên thực tế thì việc này sẽ được lặp đi lặp lại nhiều lâ n. Ông câ n gia i thích cho họ hiểu rõ rằng một sự thay đổi một sự quay trở về đã xa y ra. Điều này hoàn toàn phụ thuộc vào họ, vào việc họ thay đổi quay trở về thế nào. Ông đã kết thúc bài nói chuyện của mình: Bạn đã nhận được những gì mà vì nó bạn đã có mặt ở đây. Việc bạn giữ được điều đó như thế nào hoàn toàn phụ thuộc vào bạn. Không còn nghi ngờ gì nữa, việc giữ được sư c khoẻ sau khi đã được lành bệnh đòi hỏi niềm tin tuyệt đối và tuân thủ kỷ luật tinh thâ n của người đã được lành bệnh. Đó là điểm quan trọng quyết định sự ổn định của sư c khoẻ họ vừa lâ y lại được.( ) Thường thì đau Regelung cũng đủ làm người bệnh hoang mang. Gröning thường nói: Đau Regelung là đương nhiên. Khi Regelung xuâ t hiện nó làm cho một số người lo sợ rằng bệnh lại tái phát. Họ lo sợ và nói rằng: Bệnh tình lại xâ u đi, chúng ta hãy đến gặp bác sỹ. Gröning: Chính vì vậy tôi ca nh báo các bạn rằng 77

78 khi đau Regelung xuâ t hiện bạn hãy cố gắng chịu đựng. Đó không pha i là điều không tốt mà ngược lại đó chính là biểu hiện cho thâ y bạn sẽ khoẻ mạnh trở lại. ( ) Đó là niềm tin câ n thiết mà những người đang tìm kiếm sự giúp đỡ được phép hoàn toàn tin tưởng vào Gröning khi ông nói rằng dù bạn chỉ một lâ n tiếp nhận năng lượng trị liệu thì nó cũng sẽ tiếp tục a nh hưởng đến con người bạn và Bruno luôn có thể giúp đỡ kể ca khi giữa họ và Gröning có một khoa ng cách không gian râ t lớn về địa lý như ông đã từng nói. Ai tin thì bây giờ có thể về nhà, ai không tin thì ở lại, đó là câu ông tra lời nhiều người bệnh khi họ tin rằng họ có thể nhận được nhiều hơn khi họ đi theo ông khắp nơi và bao vây ông vì những mong muốn và đòi hỏi của họ. Trên thực tế thì chính sự vội vã và phâ n khích của họ là nguyên nhân ca n trở quá trình lành bệnh của họ. Ngay ca khi họ nhìn thâ y Gröning hàng ngày nhưng lại đạt được điều mong muốn ít hơn những người khiêm tốn và trung thành nhưng thực sự muốn thay đổi nội tâm, muốn quay trở về nguồn ngay ca khi họ chỉ có một qua câ u thiếc ở trong tay. Thay đổi nội tâm chính là con đường dẫn ta tới đích! Bruno Gröning đã từng khuyên những người đang kiếm tìm sự giúp đỡ rằng: Nếu khiêm tốn và tin tưởng thì Thượng Đế có thể cho con người mọi thư. Ông pha n đối những người yêu câ u sự giúp đỡ thông qua năng lực trị liệu của ông giống như yêu câ u chính sách ba o hiểm cho họ, đòi được bồi thường vì họ đã tra lệ phí hoặc những người muốn điều khiển ông pha i hoàn thành nghĩa vụ của ông như thế nào (tâ t nhiên đâ u tiên là với họ!) ( ) Ai đủ trưởng thành, có kha năng tập trung và có xu hướng thay đổi nội tâm thì sự lành bệnh của họ sẽ không phụ thuộc vào sự hiển diện về thể xác của Bruno Gröning, bởi họ ca m nhận rõ ràng sự hiển diện siêu hình

của ông trong mọi tình huống bằng ý nghĩ của họ trong nhiều trường hợp. Một mặt, qua câ u chữa bệnh (hoặc một vật dụng khác có nguồn năng lượng) sẽ có tác dụng sau lời nói của Gröning với sự hiển diện về thể xác của ông, mặt khác là sự kết nối với nguồn năng lượng trị liệu của Thượng Đế. Ca hai thư đó đều câ n thiết cho sự lành bệnh. ( ) Gröning: Khi tôi chạm vào qua câ u biểu tượng của thế giới thu nhỏ của chúng ta, thì tâ t ca những tia bư c xạ cha y quanh Trái đâ t của chúng ta dồn về đó và mang đến cho người sử dụng nó sự kết nối với những tia bư c xạ không bao giờ cạn kiệt của của Trời. Vào thời điểm con người mang qua bóng trong tay thì anh ta sẽ được tra i nghiệm một sự điều chỉnh mới hoàn toàn. Tâ t ca các trung tâm kích thích của hệ thâ n kinh con người được kích hoạt, máu lại được lưu thông trở lại. Chúng chiến đâ u với tâ t ca mọi bệnh tật trong các cơ quan nội tạng cũng như ở chân và tay, chúng sẽ bị dòng lực trị liệu áp đa o kể ca đó là những bệnh nghiêm trọng như bệnh lao, teo xương, thậm chí thay đổi ca trong các đốt sống và cột sống cũng như ung thư ở giai đoạn đâ u. Không có cái gì không thể gia i quyết được bằng qua câ u này. Khi tôi pha n đối Bruno đã tra lời rằng: Có những người tốt và tin tưởng nhưng vẫn không thể làm được điều gì với qua câ u này. Sai lâ m của họ chính là ở chỗ họ thiếu kiên trì. Ở râ t nhiều người thâ n kinh ca m giác bị suy gia m hoặc hoàn toàn không có ca m giác gì và nó câ n pha i được kích động để làm sống lại. Nó có thể kéo dài nhiều phút, nhiều giờ, nhiều ngày và nhiều tuâ n cho đến khi cuộc sống mới có thể bắt đâ u. Năng lượng từ qua câ u có thể chữa lành bệnh ngay trong khoa nh khắc khi người ta tiếp xúc với nó lâ n đâ u tiên, chỉ có điều là người bệnh chưa có kha năng ca m nhận nó. ( ) 79

Điều quan trọng câ n lưu ý trong khi sử dụng những đồ vật trên bên cạnh sự chuẩn bị nội tâm, một yếu tố nhỏ nhưng không kém phâ n quan trọng là tư thế bên ngoài. Người ta pha i ngồi lưng không dựa, chân không dính chân, tay không dính tay. Theo Gröning tay chạm nhau sẽ làm cho dòng năng lượng cuộc sống bị ngắt ở nửa trên cơ thể, chân chạm vào nhau sẽ gây ra hiện tượng tương tự ở nửa dưới. Những người có thói quen ngồi trong tư thế sai như vậy trong một thời gian dài có thể phát sinh những căn bệnh râ t khó chịu. ( ) Tôi cũng đã hỏi ông xem liệu ông có mang theo quyền lực của ông xuống mồ không thì ông tra lời rằng: Khi tôi không còn có mặt trên thế gian này nữa thì con người cũng đã có kha năng tự chữa bệnh cho mình. Dưới tiêu đề Sự quay trở về nguồn vĩ đại Trampler đã viết lời kết của cuốn sách như sau: Sự xuâ t hiện của những người tìm kiếm sự giúp đỡ ngày càng đông ở Traberhof gâ n Rosenheim đã gây nên những lời cáo buộc trong một thời gian dài vô vọng (trong ý nghĩa xác thực nhâ t của từ này). Người ta có thể đọc chúng trong hơn 1/4 triệu lá thư gửi đến cho Bruno Gröning với những lời lẽ râ t thương tâm trong đó ( ). Sự phát triển kỹ thuật, thiên về vâ t châ t thông qua việc chuyên môn hoá ngày càng tăng đã dẫn đến sự phân hoá tính thống nhâ t của toàn bộ cuộc sống, người ta đã sử dụng những phát minh vĩ đại trước hết để phá huỷ ý chí trong một phạm vi chưa từng thâ y từ trước đến nay. ( ) Chúng ta câ n pha i thoát ra khỏi thời kỳ cơ khí máy móc để tiến tới thời kỳ của sự sống, áp dụng tiến bộ của khoa học kỹ thuật không cho những mục đích xâ u mà là để phục vụ con người. Thời đại mà những luật lệ bắt nguồn từ những tôn giáo văn hoá lớn sẽ thực sự được 80

áp dụng cho mối quan hệ giữa con người với con người, cũng như giữa các quốc gia. ( ) Gröning đoán trước được rằng con người sẽ học được cách tự chữa bệnh cho mình bằng việc tiếp nhận sư c manh Thượng Đế thông qua Ông. Nhưng hiện tại và tương lai để có thể tự chữa lành bệnh cho minh câ n pha i: Quay trở về nguồn! Câ n quay trở về đâu, hướng tới đâu. Chúng ta có thể nhận ra điều này một cách rõ ràng nhâ t khi chúng ta xem xét con đường sai trái đã dẫn dắt chúng ta trong một thời gian dài sẽ dẫn chúng ta tới đâu. ( ) Nhưng vì có một người đàn ông có thể thu nhận năng lượng trị liệu vô tận bí ẩn và vì thế ông ta có thể truyền năng lượng cuộc sống này cho bâ t kỳ một đối tượng nào trên thế giới thông qua một vật dụng chỉ bằng cách đơn gia n chạm vào nó. Với nguồn năng lượng luôn ở trong tay, tâ t ca những điều ông muốn là con người hãy quay lưng lại với sự cám dỗ vật châ t nguy hiểm chết người và câ n nhận ra tính thực tế của một quyền lực tối cao hơn của đâ ng bề trên. Điều này râ t có thể là một dâ u hiệu báo trước một hiện thực của một bước ngoặt lịch sử bởi tâ t ca những thành phố thời đại hạt nhân cùng những lực lượng quân đội, công nhân và những nhà khoa học của họ cũng không có kha năng tạo ra quyền lực này, năng lượng trị liệu này, quyền lực chỉ đơn gia n phát ra từ qua câ u nhỏ đến những người có niềm tin, qua câ u mà Bruno Gröning đã chạm tay vào. 81

Người ta đã dùng mọi thủ đoạn để làm giàu cho riêng mình bằng cách sử dụng tên tuổi và con người tôi ( ) Tôi cho các bạn biết rằng khi â y bạn sẽ mâ t tâ t ca!

Phần III. Áp lực và những lực lượng chống đối Kể từ ngày Bruno Gröning đã được ca thế giới biết đến, có râ t nhiều kẻ đã toan tính lợi dụng người đàn ông bé nhỏ đến từ Danzig này để kiếm lời. Râ t nhiều người đã nuôi hy vọng rằng họ sẽ trở nên giàu có và nổi tiếng thông qua Bruno Gröning, vì Ông đã làm được những điều chưa từng bao giờ xa y ra. Nhưng đồng thời cũng có hàng ngàn, hàng trăm ngàn những người đang mong muốn và hy vọng được Ông giúp đỡ và chữa lành bệnh. Do đó, bâ t kỳ ai có thể đặt mình giữa hai bên và đưa được Gröning và những người câ n giúp đến với nhau với sự tra công thỏa đáng sẽ tự nhiên là kẻ mafia. Càng ngày càng có nhiều người bu quanh Ông giống như những con mối bu quanh ánh đèn, họ hư a hẹn sẵn sàng giúp đỡ Ông, quyến rũ Ông bằng những lời nói ngọt ngào, nhưng thực châ t họ đều chỉ vì lợi ích và lợi nhuận của riêng mình. Năm 1952 Bruno Gröning đã viết trong một ba n lý lịch cá nhân như sau: Song hành cùng những thành công của tôi là hai loại người sau: 1. Đoàn thể bác sỹ và những người có quyền thế trong ngành y, những người đã câ m mọi hoạt động của tôi bởi tôi không có giâ y phép hành nghề chữa bệnh và, 2. Những người được gọi là qua n lý, thư ký, người giúp đỡ hay những loại người tương tự như vậy. Về loại người thuộc nhóm thư nhâ t chúng ta sẽ nói tới trong phâ n 4 của cuốn sách này. Trong phâ n dưới đây chúng ta sẽ nói về đại diện của nhóm người thư hai cùng với những âm mưu của họ. Nhưng để bắt đâ u, chúng ta sẽ nói về Bruno Gröning. 83

Ông cũng đã bị buộc tội là làm giàu trên sự đau khổ của những người đau ốm. 84 1. Sức khoẻ không thể mua được bằng tiền Khi đã lên tới đỉnh cao ca thế giới đã biết về a nh hưởng của Ông Bruno Gröning đư ng giữa hai con đường: một là Ông có thể trở thành người giàu có nhâ t thế giới, một người danh tiếng, được tôn kính; hai là tiếp tục đi theo con đường đâ y gian khó, chông gai và hy sinh gian khổ. Trong cuốn tạp chí Die Umkehr (Sự quay trở về) xuâ t ba n lâ n thư nhâ t năm 1950 tác gia đã viết: Đối với Bruno Gröning việc trở thành người đàn ông giàu nhâ t thế giới là quá đơn gia n nếu như người ta có thể mua được sư c khoẻ từ Ông. Ông sẽ có thể thậm chí không gây ra bâ t kỳ phẫn nộ nào nếu Ông làm như vậy, bởi vì hành vi như vậy không trái với tinh thâ n của thời đại lúc bâ y giờ. Nhưng Ông lại từ chối nhận tiền thù lao và mong những người bệnh đến với Ông pha i thay đổi nội tâm, thay đổi thực sự cuộc sống của họ. Bằng việc làm này, Ông đã phá vỡ tâ t ca các chuẩn mực mà những người cùng thời thường sử dụng khi đưa ra những lời nhận xét, đánh giá. Và vì vậy Ông đã tự biến mình thành đối tượng nghi ngờ trong mắt những người không thể hiểu được việc một con người của thế kỷ 20 mà lại hoàn toàn không quan tâm đến tiền bạc. Ba n thân Bruno Gröning đã có lâ n nói rằng: Tôi không chữa bệnh với mục đích kinh doanh! Người giàu và người nghèo đều bình đẳng như nhau. Bạn có tin được vào tâ t ca những gì mà người ta đã muốn tặng cho tôi? Ô tô, xe sang trọng, nhiều như tôi muốn, biệt thự,

bâ t động sa n lớn, lâu đài, tiền bạc, vàng, tâ t ca những thư này đều đã được đặt dưới chân của tôi. Vâ n đề mà Ông thực sự quan tâm là giúp đỡ, chữa lành và đưa mọi người trở về với Thượng Đế. Ông đã nói rằng: Tôi muốn biết rằng tâ t ca mọi người đều mạnh khoẻ và có đư c tin. Tôi muốn họ tìm lại được ba n năng Thượng Đế mà họ đã đánh mâ t. Nhiệm vụ của tôi là làm cho điều này sẽ trở thành hiện thực. Ông đã nhận được đủ các lời gợi ý về cách kiếm tiền. Ví dụ, ngày 04 tháng 5 năm 1950, tờ báo Wochenpost đã viết như sau dưới tiêu đề: Gröning trong một ánh sáng mới! Đô la cám dỗ Gröning đã không đi! : Sự bình yên đột nhiên bị gián đoạn bởi những âm thanh của động cơ. Một chiếc xe dừng ở phía trước cửa ra vào. Tiếng nói mỗi lúc một to; có người muốn gặp Gröning. Một người đàn ông xuâ t hiện ở cửa và thông báo rằng đang có một người Mỹ và ai đó từ đoàn làm phim đã đến và có một số điều quan trọng câ n nói chuyện với Ông. Đó là một nhà báo Mỹ, một đại diện của một hãng tin quốc tế, và một người đàn ông của một hãng phim hàng đâ u của Đư c; họ muốn mời Bruno Gröning đến Mỹ một chuyến. Gröning lắng nghe chăm chú và ngay lập tư c nói rằng Ông sẵn sàng tha o luận những vâ n đề sâu xa hơn với các vị khách này. Ông sẽ là khách của chúng tôi, ông Gröning! vị nhà báo Mỹ giới thiệu, và sau đó cố gắng để nói cho vị bác sĩ thâ n kỳ của Herford tâ t ca mọi điều về kế hoạch đã lên chi tiết của mình. Gröning sẽ tới Mỹ trong vài tuâ n và chữa bệnh cho một số bệnh nhân* giàu có. Số tiền thu được * Xem khái niệm điều trị, bệnh nhân trong chương Bệnh nhân, điều trị, thí nghiệm Phâ n II, chương 7, trang 53 85

86 từ chuyến đi này sẽ giúp Ông xây dựng những trung tâm chữa bệnh mà Ông định xây ở Đư c. Vì câ n có cơ sở cho việc qua ng bá nên Bruno Gröning sẽ đi bằng tàu thủy thay vì bằng máy bay. Vị khách người Mỹ suy nghĩ một lúc rồi nói thêm rằng ông ta đã chuẩn bị để nếu tình cờ trên tàu có bệnh nhân thì Bruno Gröning có thể thao tác chữa bệnh ngay trên tàu. Đó sẽ là một thành công vang dội! nhà sa n xuâ t phim nói với Gröning. Ông sẽ không thể tưởng tượng ra được sự đón tiếp người ta sẽ dành cho ông ở New York đâu. Tâ t nhiên là Ông sẽ pha i đa m ba o theo đúng những lịch trình đã sắp xếp để có thể đa m ba o sự suôn sẻ của chuyến đi! Chúng tôi có nhiều loại hội trường khác nhau để Ông có thể sử dụng để chữa bệnh hàng loạt, vị khách người Mỹ nhâ n mạnh, Ví dụ như Madison Square Garden tại New York. Nó có thể chư a tới hơn 20 000 người! Ngay lúc này tôi đã có thể đa m ba o với ông một ngôi nhà trọn vẹn. Tâ t nhiên khán gia sẽ pha i tra tiền cho việc đó. Tôi nghĩ rằng chúng ta có thể yêu câ u từ 5 đến 30 đô la cho một chỗ ngồi như vậy, nhà làm phim bổ sung thêm. Chúng tôi cũng có thể tổ chư c một chuyến thăm các các tín đồ phái giáo hữu và các tổ chư c từ thiện khác của Mỹ. Đương nhiên việc chữa bệnh ở những tổ chư c này là hoàn toàn miễn phí, chắc ông hiểu điều này thưa ông Gröning. Đồng thời chúng tôi có thể kêu gọi thiết lập cộng đồng những người quan tâm đến vâ n đề này ở nước Mỹ. Riêng cá nhân chúng tôi sẽ đa m ba o rằng Ông sẽ hoàn toàn được cách biệt trong thời gian lưu trú ở Hoa Kỳ, do đó Ông sẽ không gặp rắc rối với những kẻ có mục đích trục lợi từ các hoạt động của Ông!

Bruno Gröning liên tục nhận được những lời đề nghị tương tự như vậy. Trong một bài nói chuyện trước công chúng Ông đã nói: Trong Hội thân hữu (ở Pháp) có ( ) một phụ nữ trẻ. Và tôi nói: Bạn có một mong muốn trong tim. Râ t tình cờ là cô â y có thể hiểu được tiếng Đư c. Thực tế là cô â y đã thành thạo một vài ngôn ngữ khác nhau. Đúng, bạn có một mong muốn trong trái tim của bạn và mong muốn này đã trở thành sự thật. Bạn không câ n pha i tin điều này. Nhiệm vụ duy nhâ t của bạn là thuyết phục chính mình! Tôi ca m ơn bạn bằng ca trái tim tôi vì bạn cũng có niềm tin cho mẹ của bạn và chỉ mong muốn rằng mẹ của bạn sẽ có một cơ thể khỏe mạnh trở lại. Bạn có thể tự thuyết phục mình về điều này ngay bây giờ. Cô gái đã ngạc nhiên, nha y lên và nói: Vâng, đúng là như vậy thưa ông Gröning kính mến! Tôi nói: Ngẫu nhiên thôi. Và cô đã thực sự tự thuyết phục mình về điều này. Cô ngay lập tư c gọi điện về Mỹ và đã có một cuộc trò chuyện điện thoại mà qua đó cô đã tự thuyết phục chính mình. Tôi nghĩ là cô â y đã nói chuyện hơn một giờ đồng hồ. Thời gian không pha i là điều quan trọng; cô â y chỉ nói cho đến khi cô không còn gì để nói nữa. Sau đó cô đã tìm tôi và muốn cho tôi biết về chuyện này. Nhưng mãi ba ngày sau cô mới tình cờ gặp tôi trên phố, đúng là như thế. Và người phụ nữ này đã đưa cho tôi tâ t ca những gì cô có. Không pha i hàng triệu, mà là hàng tỷ đô la, một số tài sa n vô cùng lớn tâ t ca. Tôi đã có thể châ p nhận nó và tôi cũng nói với cô â y như vậy, nhưng với một điều kiện: rằng tôi sẽ không lâ y một đồng xu nào trong số tiền này, rằng tôi sẽ được phép phân phát toàn bộ số tiền đó cho những người nghèo nhâ t trong số những người nghèo, cho những người bệnh. Cô nói: Được. Nhưng bây giờ cô â y cũng có một điều kiện. Vì vậy tôi nói: Cái 87

điều kiện của cô, tôi không thể châ p nhận được. Cô â y muốn một mình chiếm hữu tôi, vì số tiền đó. ( ) Tuy nhiên, như các bạn đã biết, tôi sẽ không cho phép mình bị quyến rũ, hoặc bị dẫn lâ m đường, lạc lối. Không, không thể theo cách đó. Vâng, cô â y râ t đẹp, bạn cũng hiểu đâ y, một phụ nữ đẹp là thế nào. Nhưng tôi không bị sắc đẹp cám dỗ hay dẫn lâ m đường. Vì nếu làm như vậy thì thực sự tôi đã bạn nắm bắt đúng vâ n đề rồi đâ y tôi đã thực sự bán ba n thân mình và bán ca các bạn bạn đã quên nhắc tới vâ n đề này. Râ t ca m ơn là bạn đã nhận ra điều này. Và tôi vui mừng và hạnh phúc vì tôi đã không làm điều đó! Việc này đã có thể chống lại niềm tin nội tâm của Ông. Ở một nơi khác Ông đã từng nói: Tôi đã muốn cho mọi người biết rằng tôi ban tặng cuộc sống của tôi cho tâ t ca mọi người trên Trái đâ t này, rằng tôi luôn để cho họ hoàn toàn được tự do quyết định mong muốn của họ. Thậm chí có một lâ n Ông đã nói: Tôi sống để loài người có thể tiếp tục sống. Để đạt được điều này, Ông câ n người trợ giúp. Ông câ n người trợ giúp cho sư mệnh này, cho nhiệm vụ này của Ông, để mở đường cho loài người đến với sư c khỏe, hạnh phúc và sự tự tin. Và râ t nhiều người đề nghị được giúp đỡ Ông. Nhưng họ đã thực sự làm gì? 88 2. Egon Arthur Schmidt Người viết tiểu sử Gröning Ngay sau khi a nh hưởng của Bruno Gröning tại Herford đã được công chúng biết đến, Ông bị bao quanh không chỉ bởi vô số những người bệnh, mà ca những người trợ giúp thành thạo công

Egon Artur Schmidt việc kinh doanh muốn tận dụng cơ hội để kiếm tiền. Trong một cuộc phỏng vâ n của Neues Blatt, Bruno Gröning cho biết: Các bạn đã biết về những báo cáo lúc bâ y giờ đã gây châ n động khắp châu Âu, thậm chí khắp thế giới. Sự náo động thường xuyên diễn ra. Tôi đã bị đòi hỏi quá nhiều. Người ta vây quanh tôi, họ yêu câ u tôi nhiều hơn những gì tôi có thể cho họ và họ đã lợi dụng tôi. Tôi đã chưa thể đủ sư c đối phó với họ và tình thế lúc bâ y giờ. Tôi đã yêu câ u sự giúp đỡ của các cơ quan, tổ chư c khác nhau, các bộ và những người có tiếng nói trong giới truyền thông, nhưng sự pha n hồi trở lại và sự giúp đỡ thực sự đã không đủ mạnh để gia i quyết và đưa mọi thư trở về đúng trật tự của nó. Một trong số những người xúm quanh Bruno Gröning là Egon Schmidt, một nhà báo từ Heidelberg. Người này tổ chư c tâ t ca những sự kiện ở Qua ng trường Wilhelm tại Herford và theo đuổi một số công việc qua ng bá đen tối vừa ủng hộ vừa chống lại Gröning. 89

Năm 1950, Bruno Gröning mô ta tình trạng tại Herford và mối quan tâm của mình vào thời gian đó như sau: 90 Lẽ tự nhiên là ngày càng có nhiều thư từ từ phía báo chí, các bác sĩ, và đặc biệt là những người bệnh, và tôi không còn đủ sư c để tự xử lý đống thư từ khổng lồ đó nữa. Ông bà Hülsmann, cùng với ông Egon Arthur Schmidt vừa mới đến, nói rằng họ sẵn sàng lập lại trật tự ở đây, có nghĩa là, họ sẽ giúp tôi những công việc phụ trợ như gia i quyết thư từ, sắp xếp thư tự đi thăm bệnh nhân, Thực ra là họ đã lập kế hoạch là tạo nên một vòng tròn xung quanh tôi. Vì ông Hülsmann là chủ nhà của tôi và đã râ t hào phóng cho tôi được phép sử dụng toàn bộ căn hộ của ông, nên tôi ca m thâ y có thể sử dụng ông ta thành cánh tay pha i của tôi, và tôi đã đề nghị ông ta xúc tiến và cố vâ n cho việc tạo dựng cái vòng tròn đó và tiến hành mọi công việc chuẩn bị câ n thiết. Tôi trao cho ông Hülsmann quyền hành động thay mặt tôi, và với sự hiện diện của ông bà Hülsmann và ông Schmidt tôi đã sắp đặt những việc sau: Câ n pha i tìm cách để xử lý những thư gửi đến, đặc biệt là việc ghi chép những bư c thư có gửi kèm tiền của những người tìm kiếm sự giúp đỡ. Thư không bao giờ được mở ra bởi một người, chỉ được mở khi có sự hiện diện của một nhân chư ng, để đa m ba o trách nhiệm gia i trình. Mục đích nữa của nhân chư ng là xóa đi những nghi ngờ có thể xa y ra khi một bư c thư nói rằng có gửi kèm một số tiền nhâ t định trong khi thực tế không pha i là như vậy. Tôi sợ rằng sẽ có những kẻ lừa đa o sau này có thể đòi lại tiền mà thực ra họ đã không gửi tới. Số tiền chính đáng thu được sẽ được dùng vào những mục đích sau đây: Chi phí chung

Để giúp đỡ những người đang câ n được giúp đỡ nhưng lại không có kha năng để đến gặp tôi. Số còn lại để dùng cho công tác xã hội như tôi đã tha o luận với mục sư Kunst từ Herford, người qua n lý cộng đồng các nhà thờ. Cuối cùng câ n xây dựng các trung tâm điều trị để những người bệnh có thể đến với tôi, được miễn phí và được chăm sóc kỹ lưỡng. Những người đặc biệt nghèo câ n được trợ giúp về vâ n đề này, có thể là một lâ n hoặc vài lâ n. Nếu vẫn còn một số tiền dư thừa, nó sẽ được sử dụng để xây dựng lại những nhà thờ đã bị phá huỷ trong chiến tranh, cũng như cho những công trình tín ngưỡng tương tự, và nếu có thể, tôi định xây dựng nhà cho những người nghèo nhâ t đã bị mâ t quê hương, và toàn bộ gia sa n của họ trong cuộc chiến tranh cuối cùng, để họ lại có thể tìm lại được mái â m che thân. Khi Bruno Gröning rời Herford vào tháng 6 năm 1949, Schmidt đã nắm toàn bộ quyền kiểm soát tình hình ở đó. Trong lý lịch của mình Bruno Gröning đã viết về điều này như sau: Vào thời điểm đó, khi tôi không còn ở Herford nữa, ông Egon Arthur Schmidt ( ) ở lại đó một mình. Tôi đã yêu câ u ông ta pha i chuyên tâm tiến hành tâ t ca các thủ tục câ n thiết theo đúng qui định để thành lập và đưa vào hoạt động hiệp hội mà ông đã tự mình, cùng với tôi và gia đình Hülsmann hoạch định, Hội những người bạn của Bruno Gröning, và tôi cũng yêu câ u ông ta pha i làm theo cách nào đó để tổ chư c này không thể bị tâ n công về bâ t kỳ phương diện nào. Hàng ngày có từ sáu đến ba y nghìn bư c thư đến với Hội những người bạn của Bruno Gröning. ( ) Tổ chư c Hội những người bạn này đã được thiết lập trên thực tế, nhưng nó không bao giờ hoàn thành mục 91

92 đích ban đâ u theo cách mà tôi cho là đúng. Tôi đã có thể khẳng định rằng số tiền được gửi qua trên một triệu bư c thư lên tới vài trăm ngàn D-Mark đã không cánh mà bay ( ) Sở dĩ có sự lạm dụng này là do Egon Arthur Schmidt đã không giữ lời hư a ông đã hư a với tôi rằng ông sẽ qua n lý mọi thư đúng theo sự hướng dẫn của tôi. Theo lời các nhân chư ng, ông biết cách qua n lý tâ t ca mọi thư râ t giỏi để ông có thể nhận được tiền từ những bệnh nhân đã được chữa khỏi bệnh. Để trốn tránh trách nhiệm của mình, ông đã chuyển giao chư c chủ tịch Hội những người bạn của Bruno Gröning sang cho giáo sư Berndt nào đó và đổ hết tội lỗi lên vị chủ tịch này trong những lâ n tra lời ca nh sát điều tra (tôi có bằng chư ng về điều này). Là một nhà báo có nhiều mánh khoé, Schmidt đã thừa biết cách sử dụng các bài viết của mình để chống lại tôi và để kiếm tiền. Qua thực, trong loạt các bài báo của mình, ông ta miêu ta tôi như một trong những người tồi tệ nhâ t, xâ u xa nhâ t. Ngay ca các quan chư c cũng bị lẫn lộn do những bài viết này. Sau đó ông ta đã tìm cách gia vờ với tôi rằng ông ta, một thiên sư vô tội, đã không biết rằng báo chí đã thay đổi bài viết của ông ta theo cách này. Những lời pha n đối của tôi với ông ta đã từ tai nọ chui ra qua tai kia. Năm 1950 Bruno Gröning tiếp tục viết về Schmidt như sau: Trong mọi trường hợp, Schmidt đã sử dụng những thủ đoạn tinh vi nhâ t để che giâ u sự thật của mình kể ca với ông Hülsmann, và bóp méo sự thật khiến ông Hülsmann liên tục bị lừa bởi tính trung thực bề ngoài của Schmidt. Ba n thân tôi đã hướng dẫn ông Schmidt pha i thực hiện một cách nghiêm ngặt, không được làm gì mà không thông báo cho tôi biết hoặc không có sự châ p thuận của

tôi. Tôi cũng giữ lại cho mình quyền thông qua bâ t kỳ văn ba n gia i trình nào, cũng như các công tác tổ chư c, các danh mục và quyền ký nháy các tài liệu này để đa m bào an toàn của chính tôi. Ông Schmidt đã hoàn toàn nhâ t trí với những đề nghị này của tôi, nhưng thực tế ông ta đã hoàn toàn làm điều ngược lại. ( ) Theo tài liệu của ca nh sát, mà mãi sau này tôi mới biết, Schmidt đã thiết lập nhiều văn phòng tại các thành phố khác nhau ở Đư c để thu hút các thành viên ở đó. Cũng theo thông tin của ca nh sát, Schmidt đã sử dụng một lượng lớn tiền có được bằng cách qua ng cáo với tên của tôi cho các mục đích riêng của ông ta. ( ) Ba n thân tôi cho đến nay vẫn không nhận một xu nào từ khoa n tiền đó. Mối quan tâm lớn nhâ t của tôi đã và vẫn là: Có một viện điều dưỡng để tôi có thể theo đuổi công việc của tôi theo một cách có trật tự. Năm 1949 Bruno Gröning đã tách khỏi Schmidt, nhưng năm 1952 nhà báo này lại muốn quay về với Bruno. Trong ba n lý lịch của mình năm 1956 Bruno Gröning đã viết về việc đó như sau: Tháng 10 năm 1952 tôi đã gặp E.A. Schmidt tại Herford một lâ n nữa, chính xác là vì ông ta đã cố gắng làm mọi thư có thể qua thư từ để có được một cuộc gặp mặt với tôi. E.A. Schmidt khẩn nài tôi cho phép ông ta làm việc tốt để bù cho tâ t ca mọi thư mà ông đã làm sai trong quá khư, và ông ta đã hư a với tôi rằng từ bây giờ ông ta chỉ muốn làm những việc đúng đắn. Mặc dù ông ta cam đoan nhưng tôi vẫn râ t nghi ngờ, nhưng dù sao tôi cũng muốn cho ông ta một cơ hội để ca i tạo mặc dù nhiều hay ít thì một mình ông ta pha i chịu trách nhiệm với những gì đã xa y ra. Chính ông ta đã xin tôi cho phép ông ta xuâ t ba n cuốn sách Sự chữa bệnh thâ n kỳ của Bruno Gröning mà ông ta đã viết, với các mô ta chính 93

xác và chân thật, mà như ông ta nói là câ n pha i được công bố để ông ta cuối cùng cũng có thể bày tỏ những gì ông ta nghĩ về tôi. ( ) Vì Schmidt sẽ không chịu từ bỏ dự án này mà ngày càng bám lâ y tôi, vì ông ta liên tiếp đa m ba o với tôi rằng ông ta muốn làm tâ t ca để xây dựng công trình của tôi như nó đã được lập kế hoạch từ đâ u, và liên tục đề xuâ t những kế hoạch mới, vừa bằng miệng vừa bằng văn ba n, nên rốt cuộc tôi đã gặp ông ta và cuối cùng châ p nhận những lời đề nghị giúp đỡ của ông ta. Nhưng mặc dù ông ta đã cho tôi thâ y mặt tích cực của ông ta thì sau đó ông ta lại cho ra một số bài viết râ t bẩn thỉu về tôi, về sau thì tôi chư ng minh được việc này. Nhưng sau khi tôi vạch trâ n việc làm này của ông ta, ông ta lại xin lỗi rằng ông ta đã không biết việc báo chí lại đưa ra như vậy. Theo tôi được biết, và đã có thể xác nhận trong nhiều trường hợp, chỉ một mình E.A. Schmidt pha i chịu trách nhiệm về tâ t ca những sự lộn xộn phát sinh tại Herford tại thời điểm đó, vì chính một tay ông ta đã gây ra nó. Khi tôi vạch rõ cho ông ta hiểu về những việc làm sai trái của ông ta và nói cho ông ta hiểu rằng tôi không thể tiếp tục hợp tác cùng ông ta nữa, thì cuối cùng thì ông ta cũng chịu rút lui, và sau khi ban điều hành của Hiệp hội Gröning chối từ mọi nỗ lực giành vị trí qua n lý kinh doanh của ông ta thì ông ta đã lộ rõ bộ mặt thật của mình. Ông ta bây giờ liên tục kiện tôi dựa vào những lời buộc tội hoàn toàn sai sự thật, và đưa ra những tuyên bố chính thư c về tôi hoàn toàn dựa trên những điều khẳng định không có thật, và bằng cách này ông ta đã nỗ lực để làm tòa lúng túng và gây ra những khó khăn lớn nhâ t có thể cho tôi. 94

3. Những nhà khoa học đầu cơ trục lợi Ngay ca những bác sĩ tham gia vào các thí nghiệm tại Heidelberg cũng đánh hơi thâ y cơ hội kinh doanh nhờ vào Bruno Gröning; kể ca họ cũng muốn lợi dụng Ông cũng như kha năng của Ông để đưa tiền vào túi riêng của họ. Bruno Gröning đã viết về việc này như sau: Tôi không thể châ p nhận những điều kiện về tài chính do Giáo sư F. đặt ra. Đương nhiên có nhiều cuộc tha o luận về việc này, ca tha o luận với một số quí ông muốn tài trợ cho công trình này. Tôi không thể đồng ý với những đề xuâ t của Giáo sư F. bởi vì: 1. Trước hết, tôi không có một xu nào nên tôi không thể đưa ra bâ t kỳ cam kết nào về mặt tài chính mà tôi sẽ không thể thực hiện được, và 2. Tôi chưa bao giờ nghĩ đến việc kinh doanh từ công trình này. Toàn bộ sự việc này là một yêu câ u không thể châ p nhận được với tôi. Ngoài ra tôi chỉ muốn làm những điều theo tiếng gọi của trái tim: Đó là giúp đỡ những người đang tìm kiếm sự giúp đỡ và, vì lý do này, để cho các bác sỹ và các nhà tâm lý trị liệu sử dụng tôi, nhưng không bao giờ kinh doanh kiếm tiền từ toàn bộ việc này. Sau khi kiểm tra tại Heidelberg, giáo sư F. đã đa m ba o với tôi rằng tôi sẽ nhận được một giâ y chư ng nhận về chuyên môn tích cực từ ông ta và từ giáo sư W. Nhưng một giâ y chư ng nhận như vậy đã không bao giờ được trao cho tôi. Ngược lại, tâ t ca mọi thư đã được xếp đặt theo cách bâ t lợi cho tôi. Ở đây, tôi lại một lâ n nữa đã pha i thừa nhận rằng người ta đã đặt giá trị kinh doanh lên hàng đâ u. Đâu rồi 95

những lời hư a như đinh đóng cột rằng tôi được làm việc một cách tự do? Tại phiên toà đâ u tiên của tôi vào năm 1951 các công tố viên đã yêu câ u được nghe ý kiến chuyên môn của phòng khám Heidelberg đã nhắc tới ở trên. Nhưng toà án đã không thể làm gì được với ý kiến này bởi nó đã không tra lời đúng vào những câu hỏi của toà. Ý kiến chuyên môn này lại một lâ n nữa là một bằng chư ng đủ tốt với tôi bởi mục đích kinh doanh của dự án đã không được thực hiện theo cách mà các quý ông kia đã hình dung. Ba n báo cáo chuyên môn này đã được viết một cách hỗn tạp, mọi thư đều được đưa vào, trong đó có ca những điều tiêu cực về tôi mà tòa án đã thu thập được và chưa được làm sáng tỏ. Các vị chuyên gia này đã không giành được chút tôn trọng nào với ý kiến chuyên môn này, ngược lại họ đã một lâ n nữa cho tôi bằng chư ng về việc con người có thể hóa ra thế nào. Họ cũng không làm được gì để giành thêm sự tôn trọng cho y học hay liệu pháp chữa bệnh bằng tâm lý. Đương nhiên tôi không pha i là người vơ đũa ca nắm, mà chỉ coi đây là trường hợp ngoại lệ; tôi biết râ t rõ pha i phân biệt thế nào. Bâ t luận thế nào, hành vi của các quí ông y khoa có tên trên đã cho báo chí cơ hội tốt nhâ t họ từng có để viết tiêu cực về những tài liệu hiện có. Trong khi tra lời phỏng vâ n tờ Vegetarische Universum Bruno Gröning đã tỏ rõ quan điểm về ý kiến chuyên môn năm 1951 như sau: Những nhà khoa học chính thống đã quá đơn gia n, đưa ra 73 trang ý kiến chuyên môn được biên soạn râ t tỉ mỷ và chắc hẳn là râ t đắt đỏ. Toàn bộ cuộc sống của tôi cho đến nay, kể từ khi còn nằm trong bụng mẹ, đã được đặt dưới kính lúp và dựa vào đó đưa ra các kết luận mà theo tôi, và tôi có thể nói công khai ở đây, là hoàn toàn 96

dựng tóc gáy. Thật tội nghiệp cho khoa học! Người ta dành thời gian và tiền bạc cho khoa học, nhưng hàng triệu người vẫn đang pha i sống trong đau khổ và bệnh tật và cho đến nay khoa học thậm chí còn chưa có chút cố gắng nào để chống lại cái gọi là những bệnh có tính đại dịch như viêm khớp, bệnh gout (gút), bệnh lao, đa xơ cư ng, ung thư và nhiều bệnh khác nữa. Và tôi không tọc mạch vào đời tư của các vị đó. Chắc chắn họ pha i có đời tư, nhưng tôi không quan tâm chút nào. Tôi sống theo cách mà tôi có thể chịu trách nhiệm trước Thượng Đế và những người câ n tôi giúp đỡ. Ngoài ra, tôi đã cung câ p bằng chư ng về kha năng của mình hàng trăm lâ n, nhưng những quý ông đó đã không lưu tâm chút nào. Rõ ràng là họ không muốn làm việc đó. Có lẽ là họ thiếu bộ phận cơ thể câ n thiết để có thể hiểu và nắm bắt những thư khác, hoặc có thể họ đã quá kiêu ngạo vì mình là chuyên gia và cho rằng không thể có chuyện người ngoài cuộc nào khác lại có thể đạt được điều gì đó theo cách mà họ đạt được. Năm 1952 Bruno Gröning lại một lâ n nữa nói về ý kiến chuyên môn này: Ý kiến chuyên môn lâ n hai này được viết hết sư c tạp nham và gồm toàn những thư dơ bẩn và tục tĩu mà những người xâ u xa nhâ t đã bịa ra chống lại tôi. Hành động này của tòa án rốt cuộc đã cho phép các bác sĩ, tư c là hai quý ông được đưa ra làm nhân chư ng chuyên môn kia, được đưa ra ý kiến chuyên môn, qua đó cung câ p bằng chư ng tốt nhâ t rằng y học chính thống sẽ không để bâ t cư cái gì không được thử nghiệm cho tới khi nó phá hoại tôi mãi mãi. Và hai người này biết chính xác cách lái mọi việc theo hướng đó. 97

98 4. Những kẻ làm tiền ở Traberhof Những sự kiện ở Traberhof đã không chỉ thu hút hàng chục nghìn người đang câ n sự giúp đỡ mà còn thu hút ca những kẻ bâ t lương muốn làm giàu nhờ Gröning hay nói đúng hơn là muốn làm giàu từ những đau khổ của người bệnh. Khi nhìn lại những a nh hưởng trước công luận của mình năm 1950 Bruno Gröning đã viết như sau: Sau đó tôi đã mời báo chí trong và ngoài nước đến một hội nghị và khẩn thiết đề nghị họ ngừng xuâ t ba n những bài báo giật gân, làm náo động dư luận, bởi tình trạng lúc bâ y giờ đã trở nên không kiểm soát được nữa, mà tôi thì đang râ t câ n thời gian để tổ chư c các trung tâm chữa bệnh cho người bệnh trong những điều kiện có trật tự. Tuy nhiên, báo chí đã không tôn trọng nguyện vọng và yêu câ u của tôi. Ngược lại, những gì họ muốn là kiếm tiền thông qua những bài báo giật gân đó. Loại làm tiền thư hai là những người có thể tiếp cận với tôi theo một cách nào đó và họ đòi tiền của những bệnh nhân khi họ muốn được giới thiệu để đến được với tôi. Một số kẻ khác lại muốn kiếm tiền bằng cách chủ động đề nghị giúp đỡ những người trợ giúp của tôi. Một ông tên Kamschek đã tình nguyện nhận làm người gác cổng. Ông ta đã nói với hai người trợ giúp của tôi lúc bâ y giờ là ông Kuhlmann và cô Wolfrum rằng ông ta sẽ không cho phép bâ t kỳ người nào vào nhà mà không được phép. Cô Wolfrum đã từng là một người được lành bệnh nhờ sự giúp đỡ của tôi. Để tỏ lòng biết ơn cô đã tình nguyện làm người trợ giúp của tôi mà không nhận tiền thù lao (mùa hè 1949). Còn Kuhlmann là người tôi quen biết từ khi còn ở Dillenburg, và khi tôi gặp lại ông

â y tại Herford, tôi đã châ p nhận lời đề nghị giúp đỡ của ông và giữ ông lại trong đoàn tùy tùng của tôi. Còn người gác cổng Kamschek thì sau này tôi mới phát hiện ra rằng ông ta chỉ cho phép những người bệnh vào gặp tôi sau khi đã tra cho ông ta một số tiền nhâ t định. Đâ u tiên chưa ai phát hiện ra điều đó. Mãi sau này tại Wiessee ông ta lại diễn trò này thì tôi mới phát hiện ra rằng mỗi bệnh nhân muốn vào gặp tôi đều pha i tra cho ông ta 1200 DM (Mark Đư c). Tôi đã đề nghị ca nh sát bắt giam ông ta, nhưng Kamschek đã biến mâ t mà không để lại dâ u vết nào. Một hôm bà Hülsmann đã đọc cho tôi nghe một lá thư của một bệnh nhân, trong đó nói rằng Kamschek đã bịa ra với những người khác rằng ông ta là bạn của tôi và rằng tôi luôn nghe theo những lời gợi ý của ông ta. Bư c thư gây cho nguời đọc ca m giác rằng người câ n giúp này đã đưa cho Kamschek một lượng tiền khá lớn. Nhưng bâ t châ p mưu đồ của Kamschek, tôi không thể bỏ rơi người bệnh được. Bư c thư này chắc chắn pha i nằm trong tay bà Hülsmann. Loại người làm tiền tiếp theo là những người qua quyết rằng họ quen biết những người trợ giúp của tôi nên có thể thu xếp loại điều trị* đặc quyền ưu đãi. Để được điều trị như vậy đương nhiên người bệnh pha i tra tiền. Có một lâ n ông Hülsmann đã nói cho tôi biết điều này và tôi đã lập tư c liên lạc với ca nh sát hình sự tại München (sỹ quan ca nh sát Martin). Tâ t ca thông tin về những kẻ làm tiền này do ông Hülsmann cung câ p tôi đều khai vào biên ba n của công an. Đó là vào cuối mùa thu năm 1949. * Xem khái niệm điều trị, bệnh nhân trong chương Bệnh nhân, Điều trị, Thí nghiệm phâ n II, chương 7, tr. 53. 99

100 Ba n thân tôi đã luôn luôn nói rõ rằng tôi từ chối mọi kế hoạch kiếm tiền, rằng tôi không muốn qua ng cáo hay tuyên truyền, rằng tôi không muốn trở nên giàu có mà muốn làm việc trong những điều kiện có trật tự, như tôi đã nhiều lâ n tuyên bố. Một hôm, Giáo sư Berndt, người mà tôi đã nhắc tới từ đâ u, đã xuâ t hiện và đề nghị tôi tham dự một cuộc họp ở tổ chư c của ông ta. Tôi đã đồng ý tham dự. Cuối buổi họp, ông ta yêu câ u tôi nói một vài lời với những người đang có mặt, tôi đã đáp ư ng nguyện vọng của ông ta, và tôi đã nói hết sư c nhiệt tình vì tôi thâ y rằng trong đám khán gia có râ t nhiều người ốm. Nhưng sau đó khi Giáo sư Berndt đề nghị tôi tham dự một sự kiện khác cùng ngày và hai sự kiện ngoài trời khác vào ngày hôm sau thì tôi đã dư t khoát từ chối. Giáo sư Berndt tha thiết van nài tôi đừng bỏ rơi ông ta trong lúc khó khăn. Nhưng khi tôi phát hiện ra rằng Berndt đã bán vé vào nghe với giá từ 3 đến 10 DM thì tôi càng kiên quyết từ chối và đã cho gọi luật sư của tôi là tiến sỹ Rödel ngay trong ngày hôm đó để làm rõ việc từ chối của tôi đối với hành vi của Berndt. Mặt khác tôi đã yêu câ u ông Sietek tìm hiểu về những tin tư c giật gân và những thủ đoạn đâ u cơ trục lợi thông qua báo chí và đài phát thanh. Kể từ đó dâ n xuâ t hiện sự chuyển hướng. Sietek đã giới thiệu với tôi là nhà báo của bộ nội vụ và đã được giao nhiệm vụ viết một báo cáo chính xác về hoạt động của tôi. Tôi đã không hề gây trở ngại cho Sietek nhưng nhâ n mạnh rằng tôi không có gì pha i che giâ u ca. Do vậy mà Sietek ngày càng trở thành người thân cận. Ông ta dường như thâ y râ t thoa i mái khi ở quanh tôi và đa m ba o với tôi rằng ông ta sẽ ghi chép lại mọi thư để có thể can thiệp chống lại những bài báo sai sự thật.

Ông ta cũng đã muốn khám phá tâ t ca những điều sai sự thật hoặc không rõ ràng để báo cáo lên Chính phủ. Vì lý do an ninh, tôi đã yêu câ u ông Hülsmann điều tra thêm về ông Sietek thông qua chính phủ, nhưng ngày này qua ngày khác ông Hülsmann đã tìm cách né tránh yêu câ u này. Tôi nghi ngờ rằng Hülsmann đã bị tác động bởi những lời nói phô trương của Sietek về việc sẽ giúp tôi đạt được mục tiêu của tôi với sự giúp đỡ của một số bộ trưởng và một vài người Mỹ. Nhưng điều này chẳng mang lại gì ca. Hâ u như điều duy nhâ t tôi còn nhớ về hoạt động của Sietek là ông ta đã thu thập được những điểm tiêu cực cá nhân của tôi (104 điểm) từ bà Hülsmann, và chụp một số tâ m a nh mà ông ta muốn lưu giữ cho tôi, nhưng tâ t nhiên là ông ta đã giữ lại cho riêng mình. Một số địa chỉ quan trọng đã rơi vào tay của Sietek như báo cáo lành bệnh, tài liệu viết về đối thủ của tôi, những thư mà tôi đã muốn giao cho ca nh sát. Tôi tin rằng Sietek đã giữ lại những báo cáo lành bệnh và những bư c thư cám ơn để tôi không bao giờ có thể cung câ p bằng chư ng về tính châ t và số lượng những ca chữa lành bệnh của tôi. Rõ ràng là Sietek chỉ muốn thông qua tôi mà nhanh chóng kiếm được thật nhiều tiền mà không pha i làm gì để đền đáp ca. Bởi vì lúc bâ y giờ tôi đã dành toàn bộ sư c lực cho các hoạt động chữa bệnh nên không còn thời gian quan tâm đến những việc như vậy, và số ít những người trợ giúp tử tế của tôi như ông Hülsmann, cô Wolfrum và ông Kuhlmann cũng trong hoàn ca nh tương tự như tôi. Mặc dù tôi muốn nhâ n mạnh rằng, ngay khi đến Munich, tôi đã đề nghị với ông Pitzer ca nh sát trưởng lúc bâ y giờ và một số người khác như phó ca nh sát trưởng ông Weitzmann và ông Harwarth trước sự có mặt của ông Hülsmann và tiến sỹ Trampler, rằng 101

Ông và bà Hülsmann 102 họ sẽ cố gắng nhâ t để cung câ p cho tôi vài người trợ giúp tốt bụng và trung thực, nhưng râ t tiếc là những đề nghị này của tôi đã không có hồi âm. Trái lại, những kẻ muốn kiếm tiền vẫn dồn dập tâ n công tôi và tôi liên tiếp chuyển họ tới cho Hülsmann nhưng như Hülsmann thừa nhận với tôi thì ông â y cũng không thể đối phó được với sự tâ n công dữ dội này. ( ) Sự náo loạn ở Traberhof (theo cách gọi của tôi) đã lên đến mư c không thể châ p nhận. Một số người bận rộn kiếm sống bằng cách bán a nh Gröning cho những người đang chờ đợi, bằng cách cho thuê ghế ngồi cho những người quá mệt mỏi, và bằng cách mang đồ ăn, uống bán cho những người ở đó. Tôi cho rằng bà Hagen chủ nhân của quán trọ Traberhof đã kinh doanh râ t tốt trong khoa ng thời gian đó. Tôi thậm chí không được Hội Chữ thập đỏ thông báo là họ đã dựng lên một số cái lều để chăm sóc những

người râ t đau ốm cho tới khi họ tiếp cận được tôi hoặc cho tới khi tôi lại có mặt ở đó. Chỉ khi tôi hỏi những cái lều đó có nghĩa là gì thì tôi mới biết về sự hiện diện của nhân viên Hội Chữ thập đỏ và tôi đã ngay lập tư c tới chăm sóc những người bệnh nặng đó. Ngay ca những người trợ giúp trung thành ban đâ u của Gröning cũng bị đồng tiền cám dỗ và tìm cách kiếm tiền thông qua Ông. Bruno Gröning đã viết trong lý lịch tự thuật của mình năm 1956 như sau: Hülsmann chủ nhà trước đây của tôi cũng đã trở thành một người kinh doanh sắc sa o sau lưng tôi. Họ chen chúc quanh tôi, hư a sẽ lo cho tôi giâ y phép hành nghề chữa bệnh, nhưng sau khi việc kinh doanh đã xong thì họ lại biến mâ t và lộ rõ ít nhiều ba n châ t găng-stơ của họ, và để lại cho tôi một tiếng tăm không minh bạch để cho giới báo chí tham lam túm lâ y. Không lâu sau đó ông bà Hülsmann đã tách khỏi Gröning. Sau đó bà Hülsmann đã kiện đòi Bruno Gröning tra tiền thuê nhà ở Herford và thanh toán tiền công trong thời gian bà giúp việc cho Ông, mặc dù ngay từ đâ u ông bà Hülsmann đã để Ông toàn quyền sử dụng nhà của họ mà không pha i tra tiền và đã cam kết làm việc cho Bruno Gröning mà không câ n tiền công. Bruno Gröning đã thua kiện và pha i tra góp hàng tháng cho bà Hülsmann cho đến hết đời. Con trai của gia đình Hülsmann, lúc đâ u được chữa lành bệnh, sau đó ngã bệnh lại với chư ng loạn dưỡng cơ và qua đời ở giữa tuổi 50. Một bộ phim tài liệu về Bruno Gröning được quay trong thời gian Ông ở Traberhof và được chiếu trong các rạp chiếu phim từ tháng 10 năm 1949 đã chỉ phục vụ mục đích kiếm tiền từ hiện tượng Gröning. Bruno Gröning đã trao toàn quyền cho nhà sa n xuâ t phim Rolf Engler, nhưng kết qua đã không như Ông mong đợi. Sau đó, trong một cuộc phỏng vâ n báo chí Ông đã nhận xét về bộ phim như sau: 103

Bộ phim chỉ mang vẻ hình thư c bề ngoài và phục vụ mục đích kinh doanh. Các phâ n quan trọng nhâ t đã bị cắt xén và bộ phim đã bị bóp méo. ( ) Tôi đã bị lừa râ t nhiều lâ n, nhiều hơn bâ t cư ai khác. Và tôi cũng sẽ nói ở đây: Các ông muốn quay bao nhiêu thì quay, nhưng nếu các ông thực sự muốn nắm bắt điều gì đó ở tôi thì hãy để cho tôi đưa ra những tài liệu thích hợp. Họ đã phâ n nào để tôi làm điều này, nhưng, như tôi đã nói, sau đó lại cắt bỏ phâ n quan trọng nhâ t. Thế giới là như vậy mà. Những lời hư a thành lập các trung tâm chữa bệnh theo ước nguyện của Bruno Gröning từ thời còn ở Herford không pha i là vì người bệnh, cũng không pha i là để giúp đỡ Gröning mà chỉ thuâ n túy xuâ t phát từ mục đích kiếm tiền. Bruno Gröning đã nhận xét về điều này: Tôi không thể ngăn chặn sự náo loạn tại Traberhof. Do vậy tôi đã khẩn trương yêu câ u ông Hülsmann theo dõi những đề nghị thành lập trung tâm chữa bệnh đó để tôi có thể xem xét một vài đề nghị hợp lý. Vì vậy, một hôm tôi đã đi đến lâu đài Elmau theo lời giới thiệu của nhà sa n xuâ t phim Engler, người được coi là có những mối quan hệ và những điều kiện tốt nhâ t ở đây. Nhưng tâ t ca những gì tôi khám phá ra là cũng chẳng có gì tích cực trong lời đề nghị của Engler ca. Tôi cũng nghe nói rằng những người đến đây đã đưa ra hay định đưa ra những lời đề nghị đặc biệt hâ p dẫn. Họ nói râ t nhiều, râ t hay nhưng thực châ t lại chẳng làm gì ca. Bằng chư ng là tôi không bao giờ nghe thêm gì về lời đề nghị thành lập trại điều dưỡng nào ca. Tôi chỉ toàn nghe những từ đại loại như: Sẽ tốt đẹp thôi. Mọi thư râ t thuận lợi, những lời đề nghị thật tuyệt và ở đây đó, chúng ta, hay tôi, đang tham gia đàm phán trên cơ sở cá nhân. ( ) 104

Những lời mời chào mang tính tư nhân là chủ yếu cư nhanh chóng xuâ t hiện theo sau nhau. Điều họ quan tâm ở đây chủ yếu là các khách sạn, nhà trọ, nhà nghỉ (Schwerzenbach, Wiessee, mà chủ nhân là bà Beil) và ở vài nơi khác nữa. Tại tâ t ca những nơi tôi đến thăm lập tư c xuâ t hiện những người muốn được chữa lành bệnh với số lượng râ t lớn. Tôi cũng được biết rằng tôi sẽ được ăn, ở miễn phí tại những nơi tôi đến. Nhưng Hülsmann liên tục thổi vào tai tôi rằng ông sẽ pha i nghĩ nát óc để tìm cách trang tra i chi phí cho chuyến đi thăm những người bệnh nặng. Nhưng sau đó tôi phát hiện ra rằng, ngay từ ban đâ u, người ta đã lo cho chúng tôi đâ y đủ xăng và thậm chí ca xe hơi, miễn phí. Việc xây dựng các khu điều trị cuối cùng vẫn chẳng đi đến đâu vì vâ n đề tài chính. Những người đề xuâ t đều trông đợi vào những ngôi nhà đâ y khách thông qua a nh hưởng của tôi, và tâ t nhiên là ca những két đâ y tiền cho ba n thân họ. Tôi và công việc của tôi là điều họ quan tâm sau cùng và họ chẳng hề ma y may nghĩ tới râ t nhiều những người bệnh khốn khổ, những người muốn đến gặp tôi nhưng chẳng có tiền, họ đến gặp tôi trong nỗi đau đớn, bâ t hạnh tột cùng. Hy vọng cuối cùng của họ là được tôi giúp đỡ và được chữa lành bệnh. 5. Nhà báo, tiến sỹ Michael Graf Soltikow Báo chí đã gây ra những tổn hại đặc biệt cho Bruno Gröning và khai thác Ông để tăng số lượng phát hành báo của họ. Hâ u hết các nhà báo không quan tâm đến việc viết báo một cách khách quan hay việc giúp đỡ những người bệnh. Điều họ quan tâm duy nhâ t ở đây là kiếm tiền từ những sự kiện xung quanh Bruno Gröning giống như những người khác. Những bài viết giật gân, những số báo đặc biệt liên tục được đăng cùng với 105

TS. Michael Graf Soltikow những lời lẽ bịa đặt, phỉ báng và những lời buộc tội tồi tệ nhâ t. Bruno Gröning gọi bộ sưu tập những bài báo viết về Ông là một bộ sưu tập bướm. Bộ sưu tập này có đến hơn 15 cặp đựng tài liệu. Bruno Gröning đã buồn bã nói về việc này: Có râ t nhiều bài báo viết về tôi và cũng có nhiều báo cáo về tôi, nhưng đáng tiếc 95% các thông tin trong đó là sai sự thật và dối trá. 5% còn lại là sự thật đã bị bóp méo bởi sự ngu dốt. Một trong những nhà báo vô đạo đư c nhâ t luôn đeo đuổi Bruno Gröning trong suốt thời gian ở Traberhof là Tiến sĩ Michael Graf Soltikow. Sau khi đã cố gắng len lỏi vào nhóm người trợ giúp xung quanh Bruno Gröning, ông ta đã xuâ t ba n một tờ truyền đơn bôi nhọ danh tiếng Bruno Gröning dưới tiêu đề Ấn phẩm đặc biệt chân tướng Gröning. Bằng việc nhắc tới Egon Schmidt, người đã rút khỏi nhóm trợ giúp của Bruno Gröning, nhà báo này cố gắng gây ra â n tượng là Bruno Gröning và những người trợ giúp của Ông đã thực hiện nhiều 106

hành vi phạm tội khác nhau. Bruno Gröning ngay lập tư c kiện Soltikow. Hiển nhiên là Soltikow đã không biện hộ được cho những lời buộc tội của mình. Nhưng dù vậy thì danh tiếng của Bruno Gröning cũng bị tổn hại nghiêm trọng bởi vì lúc này đây lại có thêm nhiều nhà báo khác bắt đâ u xuâ t ba n những lời lẽ dối trá và phỉ báng về Bruno Gröning. Sự quan tâm của Soltikow đối với sự kiện quanh Gröning thuâ n túy chỉ liên quan tới tài chính. Trước khi xuâ t ba n tờ rơi này ông ta đã xuâ t ba n nhiều â n ba n đặc biệt với tiêu đề Gröning nói chuyện tại đây. Bằng cách này ông ta đã biến mình thành đại diện báo chí của Bruno Gröning, việc này đã dẫn tới một cuộc chiến pháp lý với người đã cho xuâ t ba n Gröning-Ruf (Lời kêu gọi của Gröning), người này cũng ca m thâ y mình là người duy nhâ t được ủy quyền lên tiếng thay cho Bruno Gröning. Soltikow đã thu được hơn 50.000 DM từ tờ rơi tiêu cực này. Bruno Gröning đã viết về sự kiện xa y ra quanh Soltikow như sau: Soltikow chưa bao giờ là người trợ giúp của tôi. Chúng tôi gặp nhau lâ n đâ u tiên tại Traberhof, tại nơi này ông ta đã được ông Hülsmann giới thiệu với tôi (vì sự nằng nặc của ông ta, Soltikow) rằng ông ta là bá tước và nhà báo. Trong cuộc nói chuyện ngắn ngủi tại Traberhof, Soltikow gợi ý rằng ông ta sẵn sàng viết một cuốn sách nhỏ nói tốt về công việc của tôi dựa trên vô số những báo cáo lành bệnh mà ông ta đã thu thập được và biến thành của riêng. Ông ta gia i thích rằng ông ta muốn thiết kế cuốn sách này trên quy mô lớn cùng với một qua ng cáo tương ư ng. Ông ta cũng trình bày cách tiến hành chiến dịch qua ng cáo này. Câu tra lời chính xác của tôi là: Về phía cá nhân tôi, tôi không quan tâm ông làm thế nào, hay ông viết theo hướng tốt hay xâ u; nếu ông viết theo hướng xâ u thì ông sẽ pha i tự chịu trách nhiệm về nó. Rồi Soltikow nói rằng ông ta đã nhận được lời 107

đề nghị của một nhà xuâ t ba n rằng ông ta sẽ không viết theo hướng tốt mà sẽ một lâ n viết theo hướng xâ u vì lợi ích kinh doanh. Nhà xuâ t ba n cho rằng đây sẽ là một trong những thương vụ tốt nhâ t và đề nghị tra ông ta 50.000 DM cho việc này. Tôi cũng đã nói với Soltikow rằng ông ta nên làm điều mà ông ta cho là đúng. Tôi sẽ tuyệt nhiên không tác động tới ông ta, nhưng nếu ông ta viết theo hướng xâ u thì tôi sẽ pha i kiện ông ta vào thời điểm thích hợp. Để viết cuốn tài liệu định viết, ông ta đề nghị tôi cho ông ta sử dụng một số những bư c thư gửi từ nước ngoài (tổng số có 20 bư c) và nói rằng ông sẽ hoàn tra lại cho tôi. Soltikow nhâ n mạnh rằng ông ta không bao giờ muốn hoặc có thể viết những điều chống lại tôi, bởi ông đã thu thập được khá nhiều tài liệu tốt để có thể viết nhiều hơn một cuốn sách. ( ) Tra lời câu hỏi của tôi là tại sao ông ta lại sẵn sàng làm việc này, Soltikow tra lời: Ông Gröning, tôi muốn được mọi người biết đến thông qua Ông. Cuốn sách nhỏ của Bá tước Soltikow đã chọc thủng con đập trong việc pha n ánh của báo chí. Ông ta là người đâ u tiên bôi nhọ Bruno Gröning theo cách mà trước đó người ta không thể tưởng tượng nổi. Nhưng giờ đây phâ n lớn báo chí đã chuyển sang cách thư c pha n ánh này. Ngay ca tạp chí được xem là nghiêm túc lúc bâ y giờ là Spiegel [Cái Gương] cũng sẵn sàng đăng những lời tố cáo của Soltikow và muốn lưu hành một cách rộng rãi. Điều này đã làm tổn hại nặng nề đến danh tiếng của Gröning cũng như sự tin tưởng của người câ n chữa bệnh đối với Ông, mà niềm tin là một điều kiện tiên quyết cơ ba n của việc lành bệnh. 108

6. Tên chỉ huy trại tập trung thời phát xít Otto Meckelburg Sau thời gian ở Traberhof, Otto Meckelburg đã đề nghị giúp đỡ Bruno Gröning thiết lập các trung tâm trị liệu. Bruno Gröning đã viết về điều này: Sau khi tôi đã ở Bad Wiessee được vài ngày thì ông Meckelburg xuâ t hiện cùng với vợ ông ta. Ông ta kể với tôi rằng vợ ông ta trước đây đã từng bị bệnh râ t nặng và Giáo sư Sauerbruch cũng như nhiều người khác đã chịu bó tay. Trong chuyến đến thăm Schwärzenbach, bà Meckelburg đã được chữa lành bệnh. Điều này đã xa y ra mà không có sự hiện diện của tôi. Ông Meckelburg đã điều tra râ t nhiều ca lành bệnh. Ông ta đã phát hiện ra là trong phương pháp điều trị của tôi có điều gì đó khác lạ. Ông Meckelburg gia i thích cho tôi rằng ông ta sẽ cố gắng để lập kế hoạch xây dựng một khu điều trị trong đó tôi có thể chữa bệnh với sự đồng ý của những nhà chư c trách và dưới sự giám sát của các bác sĩ. Ông Meckelburg đã vạch sẵn kế hoạch này. Trong ba n lý lich tự thuật năm 1956 Bruno Gröning đã viết về thời gian này như sau: Có thể lý chư ng minh được là ông Meckelburg cũng còn pha i chịu trách nhiệm về những rối loạn xung quanh tôi vào thời gian đó. Như đã hư a với tôi, sau nhiều cuộc tha o luận với các luật sư tâ t ca các cuộc tha o luận này đều được ghi chép bằng văn ba n ông ta đã thành lập một hiệp hội gọi là Hội nghiên cư u phương pháp chữa bệnh của Gröning. Bằng những thủ đoạn bâ t lương ông đã thu về cho mình một khoa n tiền râ t lớn: 100.000 DM, mà không chia cho tôi một xu lẻ nào. Ngược lại, tôi đã pha i tra thuế cho cơ quan tài chính ở Munich cho số tiền 109

Otto Meckelburg mà Schmidt và Meckelburg đã thu được và làm biến mâ t, mà tôi thì không hay biết gì về số tiền này. ( ) Đâ u năm 1950 tôi đã đi Wangerooge. Điều tương tự lại xa y ra: Một dòng người tìm kiếm sự lành bệnh, râ t nhiều ca lành bệnh đã xa y ra, và thái độ thù địch từ phía các nhà chư c trách về y tế. Các nỗ lực để có được giâ y phép chính thư c cho hoạt động chữa bệnh của tôi đã bị thâ t bại ở Bayern, và lý do vẫn vậy, đó là vì người qua n lý lúc bâ y giờ của tôi là Meckelburg đã bị bắt giam vì tội trốn thuế và do những vụ kinh doanh mờ ám. Trong lời biện minh đối với lời lẽ trong ba n cáo trạng tại phiên tòa lớn* Bruno Gröning đã báo cáo về Meckelburg như sau: Meckelburg đã tặng quà cho tôi, như ông ta thường nói với mọi người, nhưng thực châ t, tôi đã nhận được hóa đơn và đã pha i tra tiền cho cho những món quà đó. Thêm vào đó, văn phòng tài chính đã bắt tôi, chư không * Xem thêm trong Vụ án lớn, Phâ n IV, chương 5, tr. 148. 110

pha i Otto Meckelburg hay hiệp hội của ông ta, pha i chịu trách nhiệm cá nhân và cuối cùng tôi pha i tra 1.500 DM tiền thuế vì tôi được cho là đã tiêu thụ gâ n 500 gram cà phê và 100 điếu thuốc lá mỗi ngày. Đồng thời hiệp hội của Meckelburg, và tư c là ca chính Meckelburg với cương vị là chủ tịch hiệp hội, đã bổ nhiệm ông ta làm giám đốc kinh doanh với tiền lương 4 con số hàng tháng và câ p cho ông ta một khoa n công tác phí hoàn toàn phù hợp với cương vị của ông ta. Thực sự thì Meckelburg và tập đoàn của ông kiếm tiền một cách bâ t lương bằng mọi thủ đoạn từ những con người khốn khổ đang câ n được giúp đỡ. Nhưng tôi không bao giờ hỏi tên, tuổi, thư hạng của ai, cũng không bao giờ hỏi về nguồn gốc cũng như tài sa n của họ! Đối với tôi, họ là những người câ n được giúp đỡ, bâ t kể họ đến từ đâu, trông họ thế nào, họ tên là gì, hay họ có bao nhiêu tiền. Đối với tôi, con người luôn là con người! Otto Meckelburg và những người xu nịnh ông ta biết râ t rõ cách kiếm tiền một cách ranh mãnh nhâ t dựa trên quan điểm này của tôi. Các bạn thâ y đâ y, đâ u tiên ông ta cùng với vợ đến với tôi để ca m ơn vì đã được chữa khỏi bệnh và tôi đã không hỏi gì về lai lịch trước đây của ông ta. Mãi sau này tôi mới được biết về những hoạt động chính trị mờ ám của ông ta và biết ông ta đã từng là chỉ huy trại tập trung khét tiếng thời phát xít. Tôi chỉ bắt đâ u quan tâm đến quá khư của ông ta khi Meckelburg chống lại tôi bằng những biện pháp gợi nhớ về thời kỳ đáng hổ thẹn gâ n đây trong lịch sử chính trị của nước Đư c, và với tư cách là một viên chỉ huy trại tập trung trước đây thì tính cách ông ta đã có những điều kiện tiên quyết để áp dụng các biện pháp đó. Câ n pha i áp dụng các thủ tục pháp lý thích hợp để xác minh 111

và làm rõ thêm về vâ n đề này để có thể nhìn nhận đúng đắn nhân cách của Meckelburg, nhưng bâ t luận thế nào thì năm 1951-1952 ông ta đã buộc pha i thừa nhận tại tòa án Munich rằng Gröning không nhận được một xu nào! Để không cho tôi tóm được những khoa n thu từ cửa sau, Meckelburg đã chuẩn bị đối phó bằng một hệ thống giám sát và kiểm soát, và bằng những biện pháp điển hình của bọn găng-xtơ! Sau này ông ta còn sử dụng trường hợp của Kuhfuß và những kết thúc đáng thương tâm của hai con người dũng ca m để phục vụ cho ý đồ của ông ta và ông đã nói với những người khác rằng: Tôi sẽ đập tan Gröning Tôi sẽ bẻ gãy hết xương của hắn! ( ) Ngày 10/6/1950 tôi đã tách khỏi vợ chồng Meckelburg. Đó là một thời kỳ cay đắng không ngờ đối với tôi, thu được những bài học kinh nghiệm về những gì mà con người ca gan dám làm khi họ chỉ còn nghĩ tới vật châ t, chỉ còn nghĩ tới tiền và kiếm tiền, bâ t kể bằng cách nào, mặc dâ u ban đâ u họ có thiện chí. Những gì đã phơi bày ra trong thời kỳ Meckelburg là một phâ n bí ẩn nhưng vẫn có thể nhận biết được trong vụ kiện chống lại tôi sau này. 7. Lương y Eugen Enderlin và người chữa bệnh thần kỳ bác sỹ Kurt Trampler Không lâu sau đó một lương y đến từ Munich là ông Eugen Enderlin đã đề nghị được giúp đỡ Bruno Gröning. Về vâ n đề này Bruno Gröning đã viết trong lý lịch cá nhân: Hoạt động của tôi với người hành nghề y Eugen Enderlin ở Munich trong mùa hè năm 1950 dường như 112

là một lối thoát khỏi những căng thẳng đến từ mọi phía. Nhưng người hành nghề y Enderlin đã hành động không khác gì Schmidt và Meckelburg. Thông qua luật sư của tôi là Tiến sĩ Reuss, ông ta đã đa m ba o với tôi rằng ông ta sẽ viết một văn ba n chính thư c, chư ng mình rằng những hoạt động của tôi không liên quan gì đến hoạt động thông thường của một người hành nghề y như pháp luật vẫn thừa nhận và ba o vệ, mục đích là để tôi sẽ không bị trái luật. Nhưng ông Enderlin đã không giữ lời hư a. Thay vào đó ông ta đã thu về cho ba n thân những khoa n tiền khổng lồ, mà tôi thì không nhận được một xu nào trong đó, với số tiền này ông ta đã mua được một biệt thự ở Feldafing và sau đó sửa chữa lại nó. Sau khi Bruno Gröning tách khỏi Enderlin, ông Enderlin đã viết cho những người tìm kiếm sự lành bệnh cũng như những người đã được chữa lành và nói với họ rằng, nếu họ còn câ n bâ t kỳ sự chữa bệnh nào, họ nên đến gặp ông ta, Enderlin, bởi vì ông ta có thể làm như tâ t ca những gì Gröning làm được. Trong lý lịch tự thuật năm 1952, Bruno Gröning đã viết về tình hình của Ông vào cuối năm 1950 như sau: Mùa thu năm 1950, tôi đã chính thư c bị buộc tội vi phạm luật chữa bệnh. Ngành đường sắt liên bang, ngành bưu điện liên bang, các nhà nghỉ, khách sạn, người trung gian, và người qua n lý các loại đã kiếm được hàng triệu mác từ tôi. Đã có hàng ngàn người bệnh được khỏe lại. Còn tôi thì ngược lại, trong tháng mười / tháng mười một tôi đã đến chỗ tiến sỹ Trampler với một vali đâ y quâ n áo, không còn đồng tiền nào cũng như không có bâ t cư thư gì khác. Ông Trampler đã bắt đâ u tổ chư c một số buổi nói chuyên với quy mô nhỏ. Đây là cách duy nhâ t để tôi có thể nói chuyện với những người bệnh. 113

Eugen Enderlin Vào thời gian này tôi cũng đã có cơ hội chăm sóc một vài người bệnh theo cách có trật tự và khuyến khích họ đến thêm một lâ n nữa nếu tôi thâ y điều này là câ n thiết. ( ) Trong thời gian làm việc cùng với ông Trampler, cơ quan y tế ở Gräfelfing cũng đã tìm cách công kích tôi, nhưng chúng tôi đã né tránh được bằng việc chú ý tỉ mỉ tới các tiểu tiết nhỏ. Trampler đã quen biết Bruno Gröning ở Traberhof, đã viết một cuốn sách râ t â n tượng về những sự kiện xa y ra ở đó và sau đó đã nhiều lâ n làm việc thay mặt Bruno Gröning. Một sợi dây tình bạn đặc biệt đã liên kết hai người đàn ông này. Nhưng Trampler cũng đã quay lưng chống lại Gröning. Tại những buổi nói chuyện do ông ta tổ chư c, ông ta đã thu tiền vào cửa và có lâ n đã nói với những người tìm kiếm sự giúp đỡ rằng họ không câ n đến Gröning bởi vì ông ta, tư c Trampler, cũng có thể làm được như Gröning. Thậm chí ông ta còn nói: Bruno Gröning không thể sánh được với tôi. 114

Trampler đã tham gia kỳ thi để hành nghề y, tự dựng mình lên thành người chữa bệnh và bắt đâ u công khai nói xâ u và bôi nhọ Bruno Gröning. Mục đích của ông ta là: Tách những người tìm kiếm sự giúp đỡ ra khỏi Bruno Gröning và kéo họ về phía mình. Về phâ n mình, Bruno Gröning vẫn giữ tình bạn đặc biệt giữa họ và không hề làm gì để chống lại Trampler. Trái lại, khi những người tìm kiếm sự chữa bệnh bối rối và hỏi Ông xem họ nên đến với ai, Gröning hay là Trampler, thì Ông tra lời rằng: Chừng nào con người còn chưa đến được với tôi, thì tôi sẽ cho anh â y sư c mạnh. 8. Rudolf Bachmann một kẻ làm tiền Bruno Gröning đã không mệt mỏi tìm mọi cách để làm sao có thể giúp được người bệnh và thực hiện được sư mệnh và nhiệm vụ của mình mà không pha i va chạm với pháp luật. Ngày 9/6/1953 ông đã chia sẻ với những người bạn của mình: Các bạn của tôi, hàng ngày tôi nhận được những lời kêu cư u nhiều vô kể từ khắp mọi nơi trên thế giới. Tiếc rằng tôi không thể đáp ư ng được cho tâ t ca những thỉnh câ u đó. Bởi vậy pha i có một trung tâm điều trị tại đó tôi có thể tác động được theo một cách có trật tự. Người ta đã đề nghị đưa cho tôi râ t nhiều tiền cho mục đích này, nhưng tôi pha i từ chối. Công trình của tôi không thể châ p nhận những kẻ làm tiền. Tôi chỉ được phép nhận sự giúp đỡ từ những người có tâ m lòng trong sáng. Do vậy tôi đã quyết định thành lập một hiệp hội mang tên tôi (GmbH) để sa n xuâ t thuốc chữa bệnh theo chỉ dẫn của tôi và với a nh hưởng của tôi. Bằng cách này những người bệnh trên toàn thế giới sẽ được cư u chữa và tôi cũng có phương tiện để xây dựng trung tâm trị liệu. 115

Rudolf Bachmann Để sa n xuâ t được những loại thuốc này tôi câ n có một phòng thí nghiệm với trang thiết bị hiện đại và một đội ngũ các cộng tác viên khoa học. Một loạt thuốc chữa bệnh đã được sa n xuâ t theo sự chỉ dẫn của tôi và cho đến nay đã đem lại những kết qua chưa từng thâ y. Những thuốc mới này đã được nhiều bác sĩ và Bệnh viện Đại học Munich thử nghiệm và có báo cáo kết qua râ t tốt. Theo đó bộ nội vụ của tiểu bang Bayern đã câ p giâ y phép cho phép sa n xuâ t những thuốc này. Ngành công nghiệp dược phẩm đã bày tỏ sự quan tâm lớn tới những thư thuốc này. Các nhà máy ở ngước ngoài muốn bao tiêu việc bán sa n phẩm, và những công ty danh tiếng trong nước đã đề nghị mua công thư c sa n xuâ t. Những điều tuyệt vời lại xa y ra đó là sự lành bệnh mà Bruno Gröning đã mang lại cho những người tìm kiếm sự giúp đỡ. Tâ t ca những thử nghiệm và giám định đã khẳng định hiệu qua của những viên nang L 52 và G 52. Nhưng cuối cùng thì những dự định này đã thâ t bại bởi những người hư a giúp đỡ 116

ông chỉ làm những gì mang lại lợi nhuận cho riêng ba n thân họ. Sau này Bruno Gröning đã viết về thời kỳ này như sau: Năm 1953 ông Rudolf Bachmann nói với tôi rằng ông thực sự muốn giúp đỡ công trình của tôi. Chính ba n thân ông Bachmann đã sa n xuâ t những loại thuốc trên và theo như ông nói thì ông muốn tạo cơ sở về tài chính giúp tôi để tôi có cơ hội trang tra i cho công trình của mình (xây dựng các trung tâm trị liệu cho những người bệnh tìm kiếm sự giúp đỡ). Để biết rõ ý kiến của các chuyên gia về sa n phẩm do ông Bachmann sa n xuâ t, tôi đã liên hệ với bác sỹ Höcht ở Munich; ông Höcht khẳng định chắc chắn rằng sa n phẩm này không chê vào đâu được. Dựa trên khẳng định này đã yên tâm lâ y tên của tôi đặt cho phòng thí nghiệm : phòng thí nghiệm Bruno Gröning. Ông Bachmann muốn tự mình kinh doanh những sa n phẩm này với lý do đơn gia n là ông â y không muốn cung câ p cho những thương nhân với quy mô lớn và trung bình (các hiệu thuốc). Tôi không bao giờ đồng ý với đề nghị này và yêu câ u chỉ cung câ p cho các hiệu thuốc. Ông Bachmann đã không tuân thủ yêu câ u này của tôi; ông ta là một doanh nhân ma mãnh. Ông ta chỉ đề xuâ t rằng tôi thành lập Hiệp hội Gröning. Tôi châ p nhận đề xuâ t này và Hiệp hội Gröning được thành lập năm 1953. Ông Bachmann sau đó đã dám làm những điều không được sự đồng ý của tôi. Ông ta bắt đâ u cung câ p các sa n phẩm cho một số cộng đồng đã được thành lập từ râ t lâu của tôi và yêu câ u họ tiếp tục cung câ p các sa n phẩm đó đến những bạn bè khác (người câ n giúp đỡ). Điều này dẫn đến mâu thuẫn giữa tôi và ông Bachmann. Tôi đã pha i nói với ông Bachmann rằng đó là một điều ngược đời, bởi chính tôi mới là người nên đư ng ra cung câ p những chế phẩm này cho Hội thân hữu 117

của tôi, bởi vì tâ t ca những gì ông ta làm ở đó đều được thực hiện dưới danh nghĩa của tôi. Xét cho cùng, ông Bachmann luôn có tài ư ng phó râ t nhanh, đã biết cách chèo lái nó theo một hướng khác. ( ) Nói chung tôi muốn nhâ n mạnh rằng: Thư nhâ t, tôi không hề có ý định kinh doanh từ việc này, Thư hai, kết qua (sự phân phối những sa n phẩm này) đã sớm là con số không, bởi ông Bachmann, với cách hành xử không tốt, đã lừa tôi nhiều đến mư c tôi pha i tra hàng nghìn D-Mark và vẫn còn pha i tiếp tục tra. Ông Bachmann câ n râ t nhiều tiền để xây dựng phòng thí nghiệm. Điều đó khiến tôi pha i vay râ t nhiều tiền của các bạn tôi và bây giờ tôi pha i tra số tiền đó. Năm ngoái ông ta đã chết. Vì thế ông ta không thể thực hiện nghĩa vụ nữa. Vì ông ta không để lại gì nên tôi là người pha i gánh chịu mọi hậu qua. 118 9. Hiệp hội Gröning Ngày 22.11.1953 Hiệp hội Gröning được thành lập tại Murnau với sự giúp đỡ của Egon Arthur Schmidt và Rudolf Bachmann. Bruno Gröning đã đặt râ t nhiều hy vọng ở hiệp hội này. Ông hy vọng hiệp hội này sẽ ba o vệ ông khỏi các tác động từ bên ngoài để Ông sẽ có thể làm việc một cách có trật tự. Ý tưởng của Ông là Ông sẽ chỉ tham gia vào các cộng đồng địa phương của hiệp hội với tư cách là một diễn gia chư không pha i là một người chữa bệnh. Tâ t ca những gì Ông muốn làm là nói chuyện về đư c tin, ngoài ra không có gì khác. Ông ca m thâ y rằng điều này có nghĩa là Ông sẽ không bị trái luật đối với người hành nghề chữa bệnh và rằng hoạt động kiểu này đã được quy định tại khoa n 16 của luật cơ ba n về quyền tự do

ngôn luận. Tại buổi họp ra mắt hiệp hội, Ông đã có vài lời với những người có mặt như sau: Thưa các bạn, thưa các quí khách! Tôi râ t vui vì hôm nay các bạn đã đến theo nguyện vọng của tôi và tôi cám ơn các bạn bằng ca tâ m lòng, và vì lý do này hôm nay tôi pha i nói với các bạn, không pha i là điều gì khác mà chỉ là điều này thôi: tại sao tôi đã chờ đợi gâ n 5 năm liền để mọi việc được đưa ra ánh sáng về việc ngày nay con người có thể thực sự tồi tệ đến mư c nào. Tại sao tôi lại đợi 5 năm liền? Khi tôi xuâ t hiện lâ n đâ u tại Herford vào ngày 15 tháng 3, tôi đã biết trước cái gì đang chờ đợi tôi và biết việc giúp đỡ mọi người sẽ khó khăn thế nào. Thật không may là có những người chỉ luôn theo đuổi những mục đích riêng của họ, những người mà cho tới tận hôm nay vẫn chưa được gia i thoát khỏi những vâ n đề vật châ t, vì những điều đó mà họ sẵn sàng ném tôi vào cha o dâ u sôi. Tôi đã đi theo con đường này để có thể có bằng chư ng về những điều mà con người có thể làm. Đối với những người đang câ n sự cư u giúp thì con đường này chưa pha i là quá khó khăn. ( ) Hôm nay tôi đã quyết định thành lập hiệp hội. Tôi muốn chôn vùi tâ t ca những điều thuộc về quá khư và không muốn bực mình với những con người này nữa bởi vì họ đã sa vào tay quỉ dữ, họ không thể làm được gì bởi những con người xâ u không chịu từ bỏ những điều quỉ dữ. Tại hiệp hội mỗi người sẽ có cơ hội tìm ra con đường dẫn tới sư c khoẻ. ( ) Tôi đã mô ta một cách ngắn gọn những điều tôi đã học được trong 5 năm qua, nhưng thực ra tôi còn có râ t nhiều điều muốn nói. Sẽ quá xa để có thể nói rằng trường học cuộc đời này bổ ích và khắc nghiệt thế nào. Tôi biết ngày xưa người ta đã tưởng tượng ra 119

những câu chuyện cổ tích kinh dị nhâ t. Ngay từ đâ u tôi đã biết rằng người ta sẽ làm mọi thư để đè bẹp tôi. Cho đến hôm nay chưa một ai đã thành công. Sự thật luôn chiến thắng! Tôi không câ n thiết pha i lừa dối con người. Điều tôi câ n và luôn thâ y câ n thiết là giúp đỡ con người. Bạn sẽ rõ hơn về những điều này khi bạn nghe về điều lệ của Hội. Bởi hiệp hội đã đặt ra nhiệm vụ khai thông con đường dẫn tới những người bị bỏ rơi và đa m ba o cho những người câ u giúp luôn có thể được cư u giúp. Ở đây chúng tôi không có điều kiện trình bày những chi tiết cụ thể của hiệp hội Gröning mà chỉ có thể trích dẫn một đoạn ngắn từ một tài liệu hơn 50 trang, Ba n tổng hợp về hoạt động của hiệp hội do Bruno Gröning biên soạn tháng 10 năm 1957: Nếu hôm nay tôi so sánh môi trường làm việc trước kia của tôi (với những kẻ làm tiền Meckelburg, Enderlin, Schmidt và Hülsmann) với môi trường hiện nay (các thành viên hội đồng qua n trị của hiệp hội), thì tôi nhận được cùng một kết qua : Các kết qua cuối cùng của hôm nay cũng giống như cái đã xa y ra trước kia. Hôm nay là do những người muốn là những người bạn lớn, thân thiết và tốt nhâ t của tôi, cũng đã chẳng khác gì với những kẻ trước kia. Trước kia những thợ thủ công bẩn thỉu đã lừa dối tôi. Còn hôm nay những người bạn này đã bâ t lực, im lặng nhìn tôi qua các vụ kiện, các ba n án mà không có sự giúp đỡ nào, đư ng nhìn tôi cô độc không tìm đâu ra cộng đồng để bâ u víu, họ không dám chống tra lại các dư luận báo chí, mà họ chỉ gây thêm rối ren, đơn gia n là họ không pha i vì tôi, khi tôi câ n tới những người có kiến thư c trường học và địa vị ở thế gian này để ba o vệ tôi, thì họ không tới, và họ không nghĩ được là tôi ở trên trái đâ t này để làm gì. 120

Không có một người bạn nào dám đưa mình ra để đâ u tranh tự do cho tôi, không một ai có dũng ca m thực sự ba o vệ tôi. Chẳng có gì xa y ra hết. Nhỏ mọn và quan liêu họ chỉ đưa hết nghị quyết này đến nghị quyết khác mà bàn luận. Không ai dám thực sự đư ng ra ba o vệ tôi, không ai dám bỏ hết sư c mình ra để giúp tôi chống tra với mọi thế lực trong các vụ kiện tụng, chống lại dư luận báo chí để tạo nên sư c mạnh làm lại cán cân công lý đã bị hỏng, để chống lại sự bẩn thỉu, lừa dối v.v và v.v và trợ lực cho tôi để tôi thực hiện được sư mạng vì sao tôi lại có mặt trên trái đâ t này: Truyền cho con người sư c lực sống và dẫn dắt con người tới đư c tin. Không một ai, không một người bạn nào, không một người nào trong số những người đang muốn trở thành bạn của tôi đã quan tâm đến việc là tôi câ n yên tĩnh, luôn luôn không bị quâ y nhiễu, rằng tôi câ n một bư c tường ba o vệ thực sự để gây a nh hưởng có hiệu qua những gì tôi nhận được. Đó không chỉ là điều đáng hổ thẹn mà đối với tôi đây còn là điều đáng thâ t vọng: Những kẻ làm tiền chỉ muốn lợi dụng, họ là những kẻ tồi tệ. Các bạn trong Hiệp hội Gröning thì hờ hững, vô tình, trì trệ, tôi không muốn nói những lời có ý xâ u ở đây. Kết qua cuối cùng vẫn vậy: Tôi vẫn mâ t tự do. Nhiều bạn trong ban qua n trị của Hiệp hội đã không giữ lời hư a. Bằng mọi thủ đoạn người ta đã bịt mồm tôi lại. Tại sao Bruno Gröning lại để cho những người làm hại Ông một cách cố ý hoặc vô tình, đến gâ n Ông? Tại sao Ông lại cư sa vào vòng tay của những người hoặc là muốn lợi dụng Ông hoặc muốn thúc bách, dồn ép Ông theo cách của họ? Tại sao Ông lại không tránh xa họ ra? Tại sao Ông không đư ng cách xa con đường của họ? Cho dù Ông hiểu râ t rõ về những con người này, có thể nhìn thâ u con người họ. 121

Trong một bài nói chuyện ngày 31. 8.1950 ở Munich Ông đã tra lời câu hỏi này như sau: Cái mà con người cho đến nay tìm mọi cách dựa vào người đàn ông bé nhỏ này với sự hiểu biết và kha năng của ông ta để kiếm tiền. Họ tin là đã tìm được một mỏ vàng. Họ cũng có phâ n nào cơ hội để kiếm tiền, nhưng tạ ơn Thượng Đế họ chẳng có lời gì ca. Cũng pha i có loại người như vậy để cho thâ y, ai là người dám bước qua xác người mà không biết hỏi, liệu người bệnh đó có được cư u chữa hay không. Có những người dám bước qua xác người và bình tha n nhìn người bệnh nằm đâ y. Những người này chưa bao giờ hỏi về điều đó, họ tìm mọi cách tiếp cận tôi. Tôi biết ở chỗ này hay chỗ nọ câu hỏi này sẽ được đề cao, đúng, nếu người đàn ông này biết nhiều điều thì tại sao ông ta lại không biết điều đó, hay có thể ông ta chẳng biết gì ca. Liệu tôi có biết một vài điều và biết rộng chừng nào, thì các bạn sẽ dâ n dà biết được. Điều này nhâ t định pha i có. Cái châ t liệu này đã thiếu khi gây dựng để tâ t ca các bạn làm con đường được thông suốt. Một vài năm sau bà Grete Häusler đã có tra i nghiệm sau: Một lâ n, khi chia tay ông Gröning, sau khi chúc Ông những điều tốt đẹp, tôi đã nói: Ông Gröning tôi chúc Ông từ bây giờ sẽ luôn được bình tâm để giúp đỡ mọi người, sẽ không có những người cộng sự gia dối nữa. Ông đã vô cùng ngạc nhiên và tra lời rằng: Hoàn toàn sai lâ m, sự thể pha i như vậy! Lúc đó tôi chưa hiểu được ý của Ông. Ông đã gia i thích cho tôi hiểu vì sao Ông đã làm như vậy và vì sao Ông pha i cam chịu như vậy. Bằng cách đó Ông đã tiết lộ cho tôi biết một điều bí mật: Tôi biết con người mang trong mình cái gì. Nhưng nếu tôi nói với mọi người rằng: Anh ta là kẻ lừa đa o, một kẻ pha n bội, một kẻ trộm, thì sẽ không có ai tin tôi. Vậy 122

tôi pha i làm gì? Tôi pha i lôi kéo họ về phía tôi, gia ng cho họ những điều tốt để họ quay trở về cội nguồn và sau đó cũng tạo điều kiện để họ lộ rõ ba n châ t: Lừa đa o, pha n bội, trộm cắp. Nếu bây giờ họ vẫn làm như vậy thì mọi người sẽ hiểu họ là loại người nào. Sau đó tôi vẫn để cho họ đến gâ n tôi, tôi không hèn nhát mà tôi chống tra lại. 123

Ở đâu cũng không ngớt có người tìm kiếm sự giúp đỡ và chữa bệnh. Nó làm tổn thương tôi một cách sâu sắc khi trước mặt tôi cư hiện lên dòng chữ: Lệnh câ m! Tôi nghĩ không câ n nói với các bạn điều đã và đang làm tôi ca m thâ y như thế nào.

Phần IV. Lệnh cấm chữa bệnh, những vụ án và Trở về nhà Bên cạnh phiền toái do những kẻ hòng trục lợi từ Bruno mang lại thì lệnh câ m hoạt động chữa bệnh gây cho ông nhiều rắc rối nhâ t. Lệnh câ m bắt đâ u từ ngày 03/05/1949, khi chủ tịch hội đồng thành phố Herford viện vào qui định bổ sung của luật hành nghề y để câ m Bruno Gröning theo đuổi bâ t kỳ hoạt động chữa bệnh nào: Câ n lưu ý rằng ông Bruno hành nghề chữa bệnh tại số 7, đường Wilhelmsplatz tại Herford, mà không có giâ y chư ng nhận là bác sĩ cũng như không hề có giâ y phép hành nghề theo như qui định tại điều 1 của luật áp dụng cho việc hành nghề chữa bệnh một cách chuyên nghiệp mà không có giâ y phép (qui định bổ sung của Luật hành nghề y ngày 17 tháng hai năm 1939) (RGB1.I. Tr. 251). Do đó tôi câ m ông tiếp tục hoạt động, và lệnh câ m này có hiệu lực ngay sau khi công bố. Đó là lâ n đâ u tiên Bruno Gröning pha i đương đâ u với qui định bổ sung của Luật hành nghề y. Ông đã bị nó hành hạ cho đến tận cuối đời. Năm 1952, Bruno Gröning nhận xét về những gì ẩn chư a sau lệnh câ m đó như sau: Đây đơn thuâ n là vâ n đề ghế ngồi của các bác sỹ chính thống, vốn quá dễ dàng mà lại được tra lương hậu hĩnh. Do đó, lệnh câ m này câ n pha i được duy trì, nếu không thì không bệnh nào là không thể chữa được ở đây và như thế tình trạng của các bác sỹ sẽ tồi tệ hơn. Hôm nay đã là ngày 31.7.1952. Đã hơn ba năm rồi kể từ ngày tôi chính thư c gia i thoát cho con người khỏi những đau khổ nặng nề nhâ t mà không hề nhận thù lao. Vậy mà vẫn có cái lệnh câ m này! 125

126 1. Những bác sĩ ở Herford Ngay ở Herford, hội y tế địa phương, hoặc ít nhâ t là một số đại diện tiêu biểu của họ, đã tác động đến việc chắp bút lệnh câ m đâ u tiên. Mặc dù lúc bâ y giờ nhiều bác sỹ đã chuyển bệnh nhân hoặc các thành viên trong gia đình riêng của họ tới chỗ Bruno Gröning nhờ giúp đỡ thậm chí nhiều người còn gửi hoặc trực tiếp đưa bệnh nhân đến cho ông thì phâ n lớn các bác sỹ vẫn kiên quyết chống lại ông. Thật vậy, một loạt các bác sỹ nổi tiếng đã làm tâ t ca những gì có thể để ngăn ca n ông một cách hoàn toàn. Ngày 14 tháng tám năm 1949, tạp chí Revue đã viết về các sự kiện tại Herford như sau: Mười ngày sau khi có lệnh câ m, vốn được xây dựng dựa trên Qui định bổ sung Luật hành nghề y của Đư c Quốc xã, thì ủy ban y tế mới họp mặt tại nhà gia đình Hülsmanns. Cuộc họp này bao gồm người đư ng đâ u của các bệnh viện thành phố Bielefeld, Giáo sư Tiến sĩ Wolf, người đư ng đâ u các cơ quan y tế tại Bethel, Giáo sư Tiến sĩ Schorsch, và cố vâ n y tế Tiến sĩ Rainer từ Bielefeld. Ngoài ra còn có giám đốc y tế thành phố Meister, và sỹ quan ca nh sát Kunst. Kunst và Wolf đã cố gắng nhìn nhận sự việc một cách khách quan. Tiến sĩ Rainer thì hoàn toàn pha n đối. Ông nói: Thưa quý ông! Tâ t ca những gì chúng tôi nhìn thâ y ở đây không có gì mới mẻ đối với nền y học. Chúng tôi biết làm thế nào để điều trị các trường hợp như vậy với những thành công tương tự. Qua là tôi đến đây để muốn tận mắt nhìn thâ y những phép mâ u!. Vì thế, liên minh giữa những người pha n đối việc chữa bệnh của Gröning và các quan chư c thành phố đã được củng cố, nhưng họ vẫn chưa biết nên làm gì trước việc hiện tượng Bruno Gröning có thể huy động một lực lượng dân chúng đông đa o đến như vậy ( )

Ông Klemme, người đã được Gröning chữa lành, cũng có vai trò trong việc này. Ông Klemme đề nghị Gröning từ bỏ cuộc đâ u tranh với các quan chư c thành phố Herford và thay vào đó là đàm phán với Ông Drake chủ tịch khu vực Detmold, người mà ông khá quen biết. Ngày 23 tháng 5 năm 1949, cuộc trao đổi với ông Drake đã diễn ra trong hoàn ca nh không thuận lợi. ( ). Bác sĩ Dyes, một viên chư c y tế của Detmold, cũng đồng thời là người chống đối Gröning kịch liệt, đã tham gia vào buổi tha o luận và nắm quyền chủ động. Ông ta nói thẳng với Gröning rằng dù Gröning có làm hay chư ng minh bâ t cư điều gì thì lệnh câ m chữa bệnh cũng sẽ không được gỡ bỏ. Sau đó Dyes xác nhận ý kiến của mình khi tra lời thẩm vâ n của Giáo sư Fischer. Tờ Revue đã viết: Bác sĩ Dyes không giâ u giếm thái độ với Gröning. Gröning rõ ràng là đã để lại một â n tượng râ t xâ u. Bác sĩ Dyes với vẻ đâ y kiêu ngạo về chuyên môn y học đã hài lòng quá mư c với quan điểm và ý kiến của riêng mình. Sự ngạo mạn về chuyên môn của các bác sỹ là yếu tố quyết định trong việc phủ nhận kha năng của Gröning. Một trong những bác sĩ trong Hội đồng y tế tại Herford nói rằng: Dính dáng đến Gröning là vi phạm nguyên tắc nghề nghiệp của bác sỹ. Khi ông Viering (RA) chỉ ra rằng một số lượng lớn các bác sĩ đã hợp tác với Gröning và tâ t nhiên họ không nghĩ rằng họ đã vi phạm đạo đư c của người thâ y thuốc khi làm như vậy, thì ủy ban y tế đã gạt đi và tuyên bố rằng ba n thân từng bác sỹ không có quyền quyết định điều gì được phép và không được phép làm để đi ngược với đạo đư c nghề nghiệp của họ. Mọi bác sỹ từng làm việc với Gröning đều pha i chịu trách nhiệm về việc làm của họ. Egon Arthur Schmidt đã viết như sau trong cuốn sách của ông Sự chữa bệnh kỳ diệu của Bruno Gröning : 127

Sau này râ t nhiều các bác sĩ ( ) thường xuyên chuyển bệnh nhân của mình tới chỗ Bruno Gröning cùng với những giâ y tờ xác định bệnh tật. ( ) Sau đó không lâu tôi nghe nói rằng ở nhiều nơi khác, khi các bác sĩ phát hiện ra những gì mà những người ngoài cuộc hiện đang làm, thì họ đã tụ tập nhau lại và đưa ra tuyên bố nội bộ rằng bâ t cư đồng nghiệp nào còn chuyển bệnh nhân của họ tới chỗ Bruno Gröning thì đồng nghiệp đó sẽ pha i ra hâ u tòa. Tờ Revue đã viết về những điều tra của các phóng viên của mình tại Herford như sau: GS.TS. Wolf, người đư ng đâ u các tổ chư c y tế tại Bielefeld, tự cho mình là người sẵn sàng tiếp thu cái mới. Bề ngoài ông có vẻ hoàn toàn đồng ý với quan điểm của chúng tôi rằng trường hợp Gröning nên được xem xét một cách khách quan. Tuy nhiên ông đã chỉ ra rằng, như mọi người đã biết, Gröning đã có cơ hội hội đưa ra bằng chư ng về kha năng của mình tại các phòng khám và bệnh viện. Nhưng ông ta có thể làm gì được khi thực tế Gröning đã từ chối đề nghị này? Liệu có thể đổ lỗi cho các bác sỹ, những người mà do có mối nghi ngại lớn trong lòng nên đã để mắt tới người đàn ông vốn từ chối chư ng minh kha năng của mình với họ? Tâ t nhiên, chúng tôi cũng tự hỏi mình câu hỏi đó. Tại sao Gröning lại tránh sự quan sát và thử nghiệm về phương pháp điều trị của ông tại bệnh viện? Pha i chăng Gröning đã có lý do để nghi ngờ tính khách quan của giáo sư Wolf? Trong â n ba n tiếp theo, tờ Revue tiếp tục viết: Ngày 14 Tháng Ba y, Gröning đặt chân đến Frankfurt trên một chiếc xe Volkswagen đi mượn. Chúng tôi thuê một căn phòng nhỏ trong rừng Taunus gâ n Frankenstein, 128

nơi Gröning sẽ gặp Giáo sư Fischer. Trong cuộc gặp mặt đâ u tiên, ông nói rằng ông sẽ đồng ý chư ng minh kha năng của mình ở Bielefeld, miễn là chúng tôi pha i đa m ba o tính chân thực trong việc kiểm tra phương pháp chữa bệnh của ông. Giáo sư Fischer liên lạc với Giáo sư Wolf tại Bielefeld người sẵn sàng bắt đâ u các các cuộc kiểm tra tại bệnh viện của ông ở Bielefeld vào ngày 19 tháng Ba y. Tuy nhiên, ông yêu câ u chúng tôi pha i có sự cho phép bằng văn ba n của Bộ trưởng Bộ xã hội của Bắc Rhine-Westphalia-Tiến sĩ Amelunxen. Gröning ở lại trong căn phòng nhỏ của chúng tôi trong rừng cho đến khi chúng tôi đi. Ngày 07 tháng 7, giáo sư Fischer và chúng tôi đi xe đến Bielefeld để tha o luận chi tiết với Giáo sư Wolf. Chúng tôi râ t bâ t ngờ khi thâ y tâ t ca thành viên của hội đồng y tế đều có mặt ở đó, bao gồm ca tư vâ n y tế của thành phố tiến sĩ Rainer, người đã từng tuyên bố rõ ý định tiêu diệt Gröning. Trong các cuộc tha o luận sơ bộ của mình, họ thể hiện rõ ý định làm bẽ mặt Gröning ngay từ đâ u. Tuy nhiên, giáo sư Fischer lại khác hẳn những đối thủ của Gröning. Khi người ta nói với ông rằng Gröning khẳng định rằng ông có thể chữa lành mọi bệnh tật, kể ca những bệnh hữu cơ, và họ đã lựa chọn vài trường hợp bệnh hữu cơ cho Gröning điều trị, cốt để chư ng minh rằng Bruno sẽ từ chối, thì Giáo sư Fischer yêu câ u được xem xét tâ t ca các trường hợp mà họ đã đề cập. Cùng với cố vâ n câ p cao của bệnh viện, ông phát hiện ra rằng hâ u như tâ t ca các ca này đều là những bệnh nhân ở giai đoạn cuối, những người không còn một tia hy vọng sống sót nào và cũng không còn có điểm khởi đâ u nào cho biện pháp chữa bệnh bằng tinh thâ n. Fischer gia i thích rằng ông sẽ khuyên Gröning chỉ đồng ý làm thí nghiệm nếu các điều kiện làm việc được thiết lập một cách trung thực, công bằng và vô tư. Sau đó vì Bộ trưởng ở Bắc Rhein-Westfalia không thể 129

câ p phép nên các bác sỹ đành pha i rút lui. Vì lý do đó chúng tôi gọi điện cho Düsseldorf nhưng đã nhận được râ t nhiều câu tra lời trái ngược và chúng tôi hiểu rằng họ muốn xếp xó công việc này. Buổi chiều hôm đó chúng tôi phát hiện ra rằng sự việc này hóa ra chưa từng đệ trình lên bộ trưởng Amelunxen. Vì vậy chúng tôi đã quyết định rời Bielefeld và quay trở về Frankfurt và lên các kế hoạch khác. 130 2. Cuốn sách nhỏ của TS. Weiler Một trong những bác sĩ chống Gröning kịch liệt nhâ t là chủ tịch hội đồng y tế Bayer, thượng nghị sĩ tiến sĩ Weiler. Trong thời gian Gröning ở Traberhof, tháng chín năm 1949, ông ta đã viết một cuốn sách nhỏ đâ y căm giận chống lại Bruno Gröning với tiêu đề: Một lời cho những người không được chữa lành: Sự hoang tưởng điên cuồng của Gröning, và thậm trí ông đón nhận buổi trình chiếu đâ u tiên bộ phim tài liệu về Gröning vào tháng 10 1949 với thái độ công kích kịch liệt. Ông ta đã khuâ y động một cơn bão pha n đối và chỉ trích gay gắt việc cho trình chiếu rộng rãi bộ phim này. Ông ta đã gia i thích cho những pha n ư ng của mình đối với bộ phim bằng cách tuyên bố, Mọi sự trình chiếu bộ phim của Gröning khiến chúng tôi lo sợ về kha năng tổn hại nghiêm trọng đến sư c khỏe cộng đồng của chúng ta và có kha năng gây rối loạn trong dân chúng. Tháng 9 năm 1949, trong một cuốn sách nhỏ, TS. Weiler đã viết: Mặc dù tôi không có cơ hội đích thân quan sát một ca chữa lành bệnh nào của ông Gröning đó là lý do tại sao tôi buộc pha i dựa vào các thông tin được đưa trên báo, tôi vẫn tin rằng tôi có thể cho phép mình đánh giá ba n châ t của sự việc đang diễn ra ở đây. Tôi đã có cơ

hội quan sát nhiều trường hợp khỏi bệnh một cách kỳ diệu tương tự trong những năm cuối của chiến tranh thế giới lâ n thư nhâ t. Sau đó ông ta cố gắng gia i thích những tiến triển có thể về sư c khỏe mà bệnh nhân có thể tra i nghiệm qua tiếp xúc với Bruno Gröning bằng việc cho rằng điều này chỉ xa y ra đối với một số chư ng bệnh khủng hoa ng về tinh thâ n, và những chư ng bệnh này thì các bác sỹ cũng có thể chữa khỏi. Ông viết: Vào mọi thời điểm khó khăn, như thời điểm hiện nay của chúng ta, vẫn luôn có nhiều điều kiện thuận lợi để những ca lành bệnh kỳ diệu có thể xa y ra; dù là những ca lành bệnh này là do bác sỹ tiến hành hay ai khác đi chăng nữa, thì chính áp lực tâm lý đè nặng lên người bệnh đã khiến cơ thể họ sa n sinh ra những châ t gây ca n trở sự lành bệnh về mặt tâm lý, tuy nhiên chính những châ t này lại tạo cơ hội cho người người chữa bệnh bằng phương pháp tinh thâ n phát huy kha năng của mình. Những sự kiện xung quanh Gröning không câ n gia i thích bằng cách nào khác. Tuy nhiên, vâ n đề là liệu một vài ca lành bệnh thật sự có thể được hiểu là do tác động của tính cách của ông hay là do a nh hưởng của sự tuyên truyền hùng hồn trên báo chí và làn sóng phát thanh thì vẫn còn là một câu hỏi mở. Và lúc đó và cho mãi tận sau này, những lời gia i thích liên tục được đưa ra là: Sự gợi ý, sự kích động của đám đông, thuật thôi miên, v v. Tuy nhiên, Bruno Gröning lên tiếng pha n đối lại ý kiến của ai đó cho rằng sự lành bệnh của các bệnh nhân đến chỗ ông là dựa trên sự gợi ý và thuật thôi miên: Nhiều người nói rằng những gì Gröning làm chỉ có thể là thôi miên mà thôi. Với nhiều ca lành bệnh một lúc, điều đó chắc hẳn pha i là hiện tượng thôi miên. Một số khác thì lại cho rằng nguyên do là sự gợi ý. Ồ, không! Tôi không gợi ý gì cho bâ t cư ai; tôi không làm cho trí 131

óc của bâ t kỳ ai bị mê muội, vì nếu là thôi miên thì trí óc mọi người sẽ không còn minh mẫn nữa. Một báo cáo lành bệnh râ t â n tượng từ Traberhof gửi đến đã cho thâ y rằng cáo buộc cho rằng Gröning chỉ có thể chữa các chư ng bệnh do thâ n kinh căng thẳng gây nên hoàn toàn không pha i là sự thật. Ngày 27 tháng 8 năm 1949, một nhà báo, Tiến sĩ Kurt Trampler, đã đến Traberhof với tư cách là phóng viên cho một tờ báo ở Munich. Ông đã viết về chuyến thăm của mình trong cuốn sách Sự quay trỏ về vĩ đại như sau: Tôi đã đến với danh nghĩa một nhà báo chư không pha i là bệnh nhân*. Căn bệnh của tôi không liên quan gì đến tâm lý cũng như thâ n kinh căng thẳng ca, chỉ đơn thuâ n là hậu qua của một châ n thương nghiêm trọng khi còn phục vụ không quân, và châ n thương này có thể thâ y rõ trên phim X-quang. Bốn năm sau khi bị thương, một cuộc kiểm tra y tế chính thư c được thực hiện ngày 9/5/1947 bởi Bác sỹ Klein ở Văn phòng ba o hiểm quốc gia đã xác nhận rằng xương ống chân và xương gót chân của tôi bị gãy và một số khớp bị biến dạng. Các vết gãy xương đã liền nhưng bị biến dạng nhiều; mỗi cử động của tôi, đặc biệt là cử động bên của bàn chân đều vô cùng đau đớn. Thậm chí khi tôi nghỉ ngơi, vết thương cũng hâ u như không châ m dư t. Tôi đã được xếp vào châ n thương loại 2 (mâ t 50% kha năng đi lại). Tôi đã quen với việc châ p nhận những thương tật này như là hậu qua không thể tránh khỏi của chiến tranh và cũng chưa từng hi vọng có một tiến bộ nào về y học có thể ca i thiện tình trạng của mình. Tâ t nhiên tôi có thể di chuyển trong nhà và trong vườn mà không câ n đến ba toong. Nhưng khi ra đường tôi không thể đi mà không có nó; ngay ca khi đi một quãng đường ngắn * Xem khái niệm điều trị, bệnh nhân trong chương Bệnh nhân, điều trị, thí nghiệm Phâ n II, chương 7, trang 53 132

mà không ba toong thì tôi cũng ca m thâ y râ t đau đớn. Không biết trường hợp này Ông Gröning có chữa được không? Tôi thậm chí còn không nghĩ đến việc này. Trong khi ông đang điều trị* cho một bệnh khác, Gröning ném cho tôi một cái nhìn. Lúc đó tôi đột nhiên thâ y đau vai pha i. Một ý nghĩ lóe lên trong đâ u tôi rằng đây đúng là chỗ tôi đã bị đau khớp khi ở trên tàu. Vài phút sau Gröning quay sang tôi: Tại sao bạn vẫn còn sử dụng gậy? Bạn không câ n nó nữa mà. Lúc đâ u, tôi nghĩ câu hỏi đó là một kiểu câu dùng để thôi miên và tôi pha n kháng lại bằng việc đáp rằng tôi đến đây không pha i với tư cách một bệnh nhân mà là một nhà báo và rằng tôi không nghĩ rằng tôi sẽ được giúp đỡ gì ở đây. Tôi chỉ rõ cho Bruno về loại châ n thương mà tôi mắc pha i. Gröning lắng nghe lý lẽ của tôi và nở nụ cười. Ông động viên tôi hãy là người ích kỷ ít nhâ t một lâ n trong đời, và hãy nghĩ đến sư c khoẻ của tôi chư đừng nghĩ đến bài báo mà tôi pha i viết. Ông yêu câ u tôi pha i hoàn toàn chú ý quan sát những gì đang diễn ra trong cơ thể mình. Vì vậy, đâ u tiên tôi mô ta cơn đau ở vai pha i và hỏi xem đó có pha i điều mà tôi câ n quan sát không. Gröning tra lời là có và ba o tôi tiếp tục quan sát. Tôi đã không tin và vẫn tiếp tục nghĩ về bài báo của tôi thay vì nghĩ về sư c khỏe của ba n thân; lúc đâ u tôi chẳng nhận ra điều gì mới ca. Gröning kiên nhẫn chờ đợi thông tin tiếp theo của tôi và tôi mau chóng nhận thâ y rằng các cơn đau ở vai của tôi đã chuyển thành một ca m giác â m áp, nhâ m nhói bao trùm toàn bộ phâ n bên pha i của cơ thể. Tôi đã nói với Bruno rằng tôi chỉ ca m thâ y sự khác lạ ở nửa bên pha i của cơ thể. Bạn chỉ câ n phía bên pha i thôi! Năng lượng sẽ tự tìm đến nơi nó câ n pha i can thiệp. * Xem khái niệm điều trị, bệnh nhân trong chương Bệnh nhân, điều trị, thí nghiệm Phâ n II, chương 7, trang 53 133

Sau một thời gian, chân pha i bị thương của tôi cũng nóng ran. Bên trong đang có một sự biến chuyển gì đó. Ca m giác nóng này có thể so sánh với việc điều trị bằng nhiệt điện, nhưng ca m giác nóng gay gắt hơn nhiều và thực ra là râ t khác. Tôi có ca m giác rằng máu đang cha y râ t mạnh trong chân tôi. Động mạch đang rung lên. Đó là ca m giác tôi không còn có sáu năm nay rồi. Tôi miêu ta lại tâ t ca những hiện tượng này cho Gröning và ông â y râ t hài lòng. ( ) Ca m giác ngư a và nóng ran vẫn tiếp tục một thời gian. Chân tôi vẫn còn râ t đau. Nhưng sau khi trở về nhà và tận hưởng một giâ c ngủ sâu, không mộng mị trong vài giờ đồng hồ, thì tôi đã khỏi đau hoàn toàn. Cơ bắp của tôi vẫn đau trong vài ngày, nhưng sau đó những trận Regelungen này cũng biến mâ t. Kể từ hôm đó bốn tháng đã trôi qua ( ) Tôi có thể sử dụng chân của mình như trước khi bị châ n thương. Thậm chí nha y mạnh cũng không gây ra bâ t kỳ đau đớn nào ( ). Bác sỹ Hermann R. ở Munich, người đã điều trị cho tôi sau châ n thương, đã chư ng nhận rằng, nhờ có sự chữa trị của Gröning mà bàn chân pha i tàn tật trước đây của tôi bây giờ đã hoạt động gâ n như bình thường so với bàn chân trái khỏe mạnh. Ông â y hi vọng rằng sự khác biệt không đáng kể này sẽ sớm hết sau khi tôi sử dụng chân pha i thường xuyên một thời gian. Bác sỹ R. không thể gia i thích nổi làm thế nào mà Gröning lại làm được điều này. Tiến sĩ Trampler đã báo cáo về một ca lành bệnh hoàn toàn không thuộc lĩnh vực tinh thâ n, tư c là một bệnh hoàn toàn về thể xác, không pha i là một bệnh tâm lý hoặc tâm thâ n. Sự lành bệnh như vậy không thể gia i thích được theo cách mà Bác sỹ Weiler mong muốn. Tuy nhiên, ông Weiler đã tiếp tục viết trong cuốn sách nhỏ của ông như sau: 134

Thật tuyệt vời khi những người bệnh hoặc những người bị rối loạn tâm lý lại có thể được gia i phóng khỏi sự lo lắng và đau khổ của mình nhờ tin tưởng vào một người đàn ông kỳ diệu, với những hoạt động chưa hề được kiểm soát, được tiến hành bởi người chưa từng được đào tạo về y khoa đã trở thành một vâ n đề đáng lo ngại khi mà hoạt động đó được tiến hành dưới những hình thư c không được kiểm soát như trong trường hợp của Gröning. Bằng những tuyên bố của mình, lâ y ca m hư ng từ chư ng hoang tưởng tự đắc của ông ta, vô vàn người ốm yếu mà căn bệnh của họ không thể được chữa lành chỉ bằng tác động tâm lý đã bị lôi kéo để chịu đựng gian khổ trong chuyến hành trình tìm gặp Bruno Gröning, vốn không chỉ là việc làm lãng phí năng lượng vô ích, mà còn làm bệnh tình của họ trâ m trọng thêm. Câu chuyện còn tồi tệ hơn khi những người bệnh về thể xác cho phép mình bị dụ dỗ bỏ qua lời khuyên của bác sỹ mà họ vốn tuân theo, và trong một số trường hợp thì chính những lời khuyên này đã cư u cánh cho cuộc đời họ, chỉ bởi vì dưới tác động gợi mở có nguồn gốc từ sự kích động của đám đông, họ ca m thâ y một chút ca i thiện trong tình trạng bệnh tật của mình và cư tưởng rằng đây là sự thay đổi thực sự đối với bệnh tật của họ. ( ) Ông Gröning cũng tận dụng phương pháp trơ tráo này bằng việc tự gọi mình là sư gia được Thượng đế gửi xuống với nhiệm vụ mang lại niềm tin nơi người bệnh nếu họ muốn được khỏe mạnh trở lại. Sự bỉ ổi của cách tiếp cận này, đe dọa gán cho những người không được chữa lành cái mác là người bị Thượng đế từ bỏ, che dâ u những mối hiểm nguy khôn lường mà không thể nào xem nhẹ được. Tâ t ca những điều kể trên thực ra lại cho thâ y Bruno là một người đặc biệt, nếu như chúng ta nhớ rằng đa số các bác sỹ đều 135

không tỏ vẻ gì lo lắng cho sự hủy hoại ca về tinh thâ n lẫn thể xác mà họ gây ra đối với những người được họ chẩn đoán là không thể chữa trị được hay Bạn chẳng còn sống được bao lâu nữa. Lôgíc của y học dường như cho rằng việc lâ y mâ t hi vọng của người ốm là hoàn toàn bình thường, trong khi việc trao hi vọng cho họ thì có vẻ như là tiềm ẩn những mối hiểm nguy không lường hết được. Câu hỏi đặt ra ở đây là Nguy hiểm đối với ai? Trong một bài báo có tựa đề Câu tra lời của tôi dành cho những người chống đối, Bruno Gröning đáp lại cuốn sách nhỏ của Bác sỹ Weiler một vài ngày sau khi nó xuâ t ba n như sau: Khi tôi rút lui khỏi công chúng vào ngày 13 tháng 9 để gia i tán những đám đông người ốm tụ tập quanh tôi khắp nơi, rõ ràng là những kẻ chống đối tôi sẽ sử dụng sự trì hoãn này để tâ n công vào con người tôi và vào sự nghiệp tốt đẹp mà tôi đã phục vụ. Những cuộc tâ n công này vẫn tiếp diễn trên báo chí và trong cuốn sách nơi Chủ tịch Ủy ban y tế, Bác sỹ Weiler, trình bày quan điểm riêng của ông. Còn với đám đông những con người đau khổ vẫn tụ tập quanh nơi tôi đến, thì chính họ cũng làm tôi pha i khiếp sợ, tuy nhiên tôi không thể nào bị quy trách nhiệm đối với những đám đông như vậy. Ngược lại, thực tế này cho phép rút ra kết luận về số lượng đông đa o những người bệnh đã được tôi cư u giúp, mà rõ ràng là phương pháp chữa bệnh truyền thống đã pha i bó tay với họ. Cũng trong thời gian này tôi nhận ra rằng trong những đám đông khổng lồ này, tiếng la ó, kêu gào không thể nào kìm nén được của những người mong được chữa bệnh đã dẫn tới những sự việc khiến họ không thể kịp chuẩn bị tâm thế cho việc được chữa lành của mình. Do đó tôi đã quyết định (nhiều ngày trước khi những vụ công kích kể trên bắt đâ u) tạm thời ngưng việc nói chuyện trước các đám đông. Tôi đang đề nghị bạn bè 136

mình ngăn ca n sự hình thành của các đám đông, để họ đừng ở đó và chờ đợi tôi hàng giờ, hàng ngày liền, cho tới tận khi nào tôi chịu xuâ t hiện. Tôi sẽ làm những đám đông này thâ t vọng vì mối quan tâm trước mắt của tôi là xây dựng một số viện điều dưỡng để tôi có thể thực hành hoạt động chữa bệnh của mình một cách có trật tự và có thể kiểm soát được. Chẳng bao lâu nữa, viện điều dưỡng đâ u tiên trong số đó sẽ đi vào hoạt động trong sự phối kết hợp chặt chẽ với một bệnh viện hiện có nào đó. Thông qua việc kiểm tra bệnh nhân trước và sau khi tôi chữa bệnh do các bác sỹ sẵn sàng làm việc không công với tôi thực hiện, thì chúng tôi sẽ thống kê được danh sách các loại bệnh mà tôi có kha năng chữa trị, và khi đó Bác sỹ Weiler sẽ được gia i phóng khỏi công việc đau đâ u này bằng việc làm quen với điều kiện làm việc mới. Tôi sẽ cho công chúng tiếp cận với kết qua phát hiện của các bác sỹ, nhưng bác sỹ Weiler thì không. Tôi không thâ y câ n thiết pha i tranh luận những quan điểm tôn giáo của mình với Bác sỹ Weiler. Việc tôi dư t khoát từ chối so sánh việc chữa bệnh của tôi với điều kỳ diệu tại Lourdes thì tôi đã tuyên bố rõ ràng trước công chúng lúc đó rồi. Việc chữa bệnh của tôi dựa trên nguồn năng lượng có được từ trật tự Thượng đế của tự nhiên, chư không pha i dựa trên việc phá vỡ các qui luật tự nhiên. Do đó, không ai có thể so sánh việc chữa bệnh của tôi với các phép màu mặc dù khoa học đương đại khó có thể, hoặc có thể một cách khó khăn, gia i thích chúng. Nếu Ngài Chủ tịch Ủy ban y tế Nhà nước tin rằng ông ta có thể thay mặt tổ chư c nghề nghiệp của mình để phát biểu thì ông â y đã nhâ m rồi. Tôi pha i ba o vệ những bác sỹ đã tự nguyện chủ động hợp tác với tôi ngày một nhiều hơn khỏi những cáo buộc so sánh sự tự nguyện 137

tiếp thu kinh nghiệm mới của họ với những gì mà Bác sỹ Weiler suy nghĩ. Tôi chưa từng bao giờ là kẻ thù của các bác sỹ và tôi sẽ không bao giờ là như vậy. Việc hợp tác với các bác sỹ, những người xác định trách nhiệm nghề nghiệp của họ là tìm kiếm không mệt mỏi mọi kha năng trị bệnh có thể dành cho bệnh nhân, là mong ước tha thiết nhâ t của tôi. Bâ t kể nơi đâu có sự hợp tác chân tình, không vụ lợi thì nơi đó đều có những kết qua tốt đẹp nhâ t. Tuy nhiên, những người đố kỵ và thành kiến, dù không có bằng chư ng cụ thể nào, vẫn tiếp tục phủ nhận kha năng chữa bệnh của tôi, và trên thực tế nếu tôi từ chối chữa bệnh cho những người này thì họ cũng chẳng bận tâm gì ca. Ca bạn bè lẫn kẻ thù tôi sẽ chẳng bao lâu nữa độc lập với niềm tin hay những mối nghi ngờ của họ có thể tự xây dựng cho riêng họ một bư c tranh rõ ràng về việc trị bệnh của tôi, một thực tế mà không quyển sách nào có thể làm lu mờ nữa. Những người nghi ngờ cũng vậy và đặc biệt là những người đã được đào tạo về y tế sẽ hiểu ra rằng niềm tin vào Thượng đế và sự hòa hợp của cuộc sống họ với những điều răn dạy của Người chính là nền ta ng cho sư c khỏe tâm hồn và từ đó sẽ mang lại sư c khỏe về thể xác. Ở nơi nào đó, Gröning đã viết về mối quan hệ của ông với các bác sỹ như sau: Cho tới ngày hôm nay tôi chưa bao giờ tư c giận với bâ t kỳ bác sỹ nào, mặc dù một vài người trong số họ tưởng là mình đã thành công khi ném về phía tôi đủ mọi loại rác rưởi, bùn đâ t bẩn thỉu mà không hề có lý do nào ca. Cái bộ não nhỏ bé của họ đã thể hiện rõ rằng nó ghét cay ghét đắng những gì tốt đẹp, rằng nó không bao giờ muốn cái gì tốt đẹp. Bởi vì là bác sỹ, họ nên thực sự hành động như những gì họ nói khi họ tuyên bố mình là 138

những người giúp đỡ, rằng họ thực sự ở đó, ca tinh thâ n lẫn thể xác, để giúp đỡ người bệnh. 3. Luật hành nghề y Luật này liên quan tới những người hành nghề y bổ sung và nó là vũ khí quan trọng nhâ t mà giới y khoa cũng như giới câ m quyền có được để chống lại Bruno Gröning. Bên cạnh một số nội dung khác thì nó qui định như sau: Khoa n 1(1) Bâ t cư ai không pha i là bác sỹ, muốn hành nghề chữa bệnh thì đều pha i xin phép. (2) Trong luật này, thuật ngữ hành nghề với tư cách người chữa bệnh bao gồm mọi hoạt động được thực hiện như là một nghề nghiệp hay một dịch vụ mà liên quan đến việc chẩn đoán, chữa lành hoặc làm vơi đi bệnh tật, ốm đau, hoặc những châ n thương về thể xác dành cho con người, kể ca khi việc làm này được thực hiện dưới sự điều khiển của người khác. ( ) Khoa n 2 (1) Bâ t cư ai từ trước tới nay chưa từng hành nghề chữa bệnh một cách chuyên nghiệp và chưa có giâ y phép hành nghề thì đều có thể xin câ p phép hành nghề trong tương lai, theo qui định tại khoa n 1 ( ) Khoa n 5 (1) Bâ t cư ai hành nghề chữa bệnh mà không được quyền hành nghề y cũng như không có giâ y phép hành nghề theo như qui định tại khoa n 1 thì đều bị phạt tù giam nhiều nhâ t một năm, hoặc pha i chịu một khoa n tiền phạt. Suốt nhiều năm sau chiến tranh, luật Hành nghề y vẫn còn bị tranh cãi gay gắt. Ví dụ như, vào ngày 30 tháng 6 năm 1949, cựu Bộ trưởng và Chủ tịch Đa ng Nhân dân Tây Đư c (Rheinisch-Westfälischen Volkspartei) ông Koch đã viết như sau trong một bư c thư gửi Bộ trưởng An sinh xã hội của Bắc Tây Đư c (North Rhein-Westphalia) về Luật Hành nghề y này: Luật Hành nghề y chính là đạo luật tiêu biểu của chế độ Phát xít Đư c, được xây dựng trên cơ sở những hoạt động đồi bại và bẩn thỉu nhâ t và dựa trên thỏa hiệp của 139

những người mà phẩm châ t đạo đư c của họ đáng ngờ đến nỗi pha i xây dựng một qui trình pháp luật xét xử tội phạm chống lại loài người đối với những con người này. Đạo luật này được thông qua Bộ trưởng Bộ nội vụ của chế độ Đư c Quốc xã ông Frick, và do các tham mưu trưởng của Đư c Quốc xã là Tiến sỹ Wagner và Tiến sỹ Conti thiết kế ra, sau đó được Tiến sỹ Lammers, người bị kết tội ở Nürnberg, chỉnh sửa và trình lên. Bằng những cách thư c vô cùng xa o quyệt, đạo luật này nhằm phá hủy hoàn toàn sự tự do chữa bệnh và loại bỏ bâ t cư kha năng chữa trị bằng y học dân tộc nào. Cùng lúc đó, tâ t ca các hiệp hội chữa bệnh bằng phương thuốc dân gian mang ba n châ t tinh thâ n tự nhiên đều bị gia i tán và ngăn câ m, trong đó có ca Hội hóa sinh vốn có hơn một triệu hội viên. Chính Luật Hành nghề y đã tạo cơ sở pháp lý cho tâ t ca những chuyện này. Để được hành nghề chữa bệnh thì người đó pha i là thành viên của Hội Những người hành nghề y. Lãnh đạo Hội này là một quan chư c Quốc xã câ p cao, người mãi tận gâ n đây vẫn pha i ngồi trong trại giam gâ n Garmisch. Tên hắn ta là Kees. Nỗi kinh hoàng mà hắn gây ra không thể diễn ta được bằng lời, hết sư c khắc nghiệt và với nhiều người hành nghề chữa bệnh, ít nhâ t là những người không theo Đa ng xã hội Quốc gia, thì đó là điều không thể chịu đựng nổi. Ngày 13/10/1949, chính quyền bang Bayern đã gia i quyết yêu câ u vô hiệu hóa Đạo luật bổ sung Luật Hành nghề y. Một thành viên Nghị viện ông Seifried, báo cáo về việc Ủy ban Pháp luật và Hiến pháp gia i quyết yêu câ u trên như sau: 140

Vào tháng 12/1948, Hội Những người hành nghề y đã trình lên chính quyền bang đề nghị bãi bỏ Luật hành nghề y ban hành năm 1939 và thay thế nó bằng một đạo luật phù hợp hơn với hoàn ca nh hiện tại. Câ n nhâ n mạnh rằng Luật hành nghề y năm 1939, vẫn còn hiệu lực tới tận ngày hôm nay, thuâ n túy là một đạo luật của Phát xít Đư c, hướng tới mục đích là sự diệt vong của nghề chăm sóc sư c khỏe. ( ) Trường hợp của Gröning một lâ n nữa cho thâ y sự câ p bách pha i có một đạo luật mới, phù hợp. Khi trình bày vị thế của đạo luật này ở Hội đồng của bang, đại diện Bộ Nội vụ đã miêu ta vâ n đề cơ ba n, đó là, với mong muốn duy trì sư c khỏe cộng đồng thì liệu việc hành nghề chữa bệnh có thể tin tưởng giao phó cho những người không được câ p phép hay không. Có râ t nhiều ý kiến trái chiều xung quanh vâ n đề này. Sau đó râ t nhiều, phâ n ghi chép nhanh đã ghi lại bài báo cáo của một chuyên gia được chỉ định là Bác sỹ Ries: Dựa trên ba n khai có tuyên thệ trước tòa, báo cáo của chuyên gia cố gắng gia i thích cho Ủy ban, bâ t châ p nhiều lâ n bị gián đoạn, rằng Luật Hành nghề y rõ ràng là một công trình của Đư c Quốc xã, dựa trên hệ tư tưởng của Phát xít Đư c và không nên tiếp tục được áp dụng nữa. Giới báo chí cũng tha o luận về đạo luật này. Ví dụ như, ngày 10 tháng 9 năm 1949, xoay quanh trường hợp của Gröning, tờ Passauer Neue Presse đã viết: Luật Hành nghề y được tạo ra bởi các bác sỹ theo chủ nghĩa xã hội quốc gia trên tinh thâ n chủ nghĩa xã hội dân tộc thuâ n túy nhằm tiêu diệt bâ t kỳ sự cạnh tranh không mong muốn nào. Nó không pha i một chương huy hoàng trong lịch sử quan liêu hành chính của chúng ta khi mà một bên họ chiến đâ u chống lại tinh thâ n xã hội quốc gia còn bên kia họ lại quay về với những lề thói 141

142 thực sự của nó. Đạo luật này câ n pha i bãi bỏ ngay lập tư c, tự do chữa bệnh pha i được lập lại ( ). Cũng như tôn giáo, nghệ thuật chữa bệnh kiểu các thâ y tu vốn gắn bó chặt chẽ với nó cũng câ n được tự do hoàn toàn. Việc làm này là đòi hỏi của đạo đư c nghề y và của các bác sỹ, những người không muốn dân chúng nhìn họ như những thương nhân sợ pha i cạnh tranh. Đối diện với đám đông người bệnh không được chữa trị, những luận điệu pha n đối nhàm chán liên quan đến kha năng đe dọa người bệnh do các cơ quan y tế và các công ty ba o hiểm đưa ra đã pha i rút lui. ( ) Những quí ông đáng kính của chúng ta thích nhắc đến tên của Thượng đế. Nhưng khi Thượng đế xuâ t hiện trong một lực chữa bệnh khác thường nào đó thì họ chạy đến ca nh sát và luật sư. Vị đồng nghiệp tuyệt vời của ông Bộ trưởng, Bismarck, thậm chí còn ngoan đạo và khôn khéo hơn. Ông ta nói rằng: Nhà nước không nên cướp món quà kha năng chữa bệnh mà Thượng đế đã trao cho một số người. Cùng với người đư ng đâ u nghề y thông minh và hào hiệp, Rudolf Virschow, và Hội đồng Liên bang Đư c, ông ta tạo ra một đạo luật để đa m ba o sự tự do chữa bệnh và đạo luật này được tôn kính và ba o vệ khỏi mọi sự tâ n công bởi các chính phủ cũng như nghị viện sau này cho đến khi chúng trở thành nạn nhân của chế độ độc tài phát xít. Và tự do trong lĩnh vực chữa bệnh nữa chư! Điều tốt nhâ t chúng ta có thể làm trong trường hợp của Gröning là thể hiện một thái độ tích cực và không so sánh biện pháp của ông với những cách chữa bệnh thông thường mà vốn biện pháp của ông chẳng có điểm chung nào với chúng ca. ( ) Chỉ đơn gia n là khi đối diện với đám đông người bệnh, nếu chúng ta để cho sư c mạnh của Gröning nằm yên, không được sử dụng, hoặc tệ hơn là kiểm soát nó để nó không thể phát huy tác dụng, thì điều đó thật không nhân đạo một chút nào. Chúng ta hãy cư

châ p nhận ông như là một điều kỳ diệu và chúng ta hãy tỏ ra đủ hào hiệp đối với người đàn ông phi thường này, để tạo ra một ngoại lệ của pháp luật và cho phép ông làm việc theo cái cách mà sư mệnh của ông, qui luật nội tại của ông đòi hỏi ông, như ông vẫn làm theo. Nếu năng lực chữa bệnh này một ngày nào đó bị thiêu rụi hay bị sử dụng sai mục đích thì bệnh nhân của ông sẽ là người đâ u tiên nhận ra và họ sẽ rời bỏ ông ngay lập tư c. Lời chúc của chúng ta dành cho Gröning là với sự khiêm nhường tột bực thì ông cũng không để cho đám diều hâu y tế kia nuốt chửng mình, mà ông hãy tiếp tục đi con đường mà ông đã được giao phó. 4. Luật hành nghề y không áp dụng với Bruno Gröning Những lời trách phạt dành cho Bruno Gröning liên tục khép ông vào tội vi phạm luật hành nghề y. Ở Traberhof, râ t nhiều đồng sự của Bruno, chủ yếu là những người tự nhận trách nhiệm về mình, đã nỗ lực xin giâ y phép đặc biệt cho ông, nhưng mọi nỗ lực của họ đều thâ t bại. Tháng 9 năm 1950, bang Bayern cũng ban hành một lệnh câ m chữa bệnh dành cho Bruno Gröning. Sự kiện này dẫn đến phiên tòa xét xử đâ u tiên chống lại Bruno vào năm 1951-1952. Ông được xử trắng án, dựa trên duy nhâ t một lý do là ông đã chữa bệnh mà không biết có qui định pháp luật như vậy, và vì thế mà ông không có tội. Ông đã hành nghề chữa bệnh, nhưng không phù hợp với các qui định đương thời. Sau phiên tòa, cố vâ n luật pháp của ông, Tiến sỹ A. Roedel, viết trong một bài báo như sau: Luật Hành nghề y không áp dụng đối với Gröning. Mọi cộng đồng của con người đều phát triển theo những chuẩn mực nhâ t định mà khi câ n thiết thì phát triển theo phương thư c cổ xưa nhâ t của lịch sử loài người và thiết 143

144 lập quyền của cá nhân cũng như của toàn thể xã hội. Vì mỗi cộng đồng của con người đòi hỏi công nhận một số nhu câ u cơ ba n, và vì những nhu câ u này xuâ t phát từ câ u trúc của ba n châ t con người, nên chúng ta gọi những qui định này là quyền mang tính tự nhiên. ( ) Ở mọi quốc gia, những qui định này sau đó được ghi lại trong những tác phẩm luật pháp vĩ đại của con người, một phâ n như là các quyền tập quán (tiền lệ), một phâ n như là quyền được pháp luật ghi nhận. Cũng như nhu câ u có đủ thực phẩm để tồn tại được coi là một quyền mang tính tự nhiên, thì sư c khỏe của con người cũng là một tài sa n có giá trị và việc gìn giữ cũng như phục hồi nó là quyền mang tính tự nhiên của bâ t kỳ con người nào. Quyền tự nhiên này, vốn không thể chối cãi được, là mong ước sâu thẳm nhâ t của con người, và bâ t cư hành vi tước đoạt hay hạn chế quyền này sẽ đều được coi là sự can thiệp lộng quyền và sẽ không bao giờ được thừa nhận hay tôn trọng. Cũng như khát vọng có sư c khỏe và được chữa bệnh không thể bị hạn chế bởi thủ đoạn pháp lý thì kha năng chữa bệnh có được trong mỗi con người cũng không thể nào bị giới hạn. Mọi qui định pháp luật không phù hợp với những nhu câ u cơ ba n này của con người đều đi ngược lại các quyền tự nhiên của chúng ta và do đó chúng không thể được công nhận; chúng sẽ câ n bị coi thường cho đến khi một nhà lập pháp hiểu biết sắn tay giúp đỡ. Một trong những đạo luật râ t dễ bị hiểu sai là Luật Hành nghề y, ban hành ngày 17 tháng 2 năm 1939. Được ban hành với ý muốn kiểm soát và điều chỉnh mọi thư theo quyền lực vô hạn của nhà nước bằng cách phớt lờ quyền của các cá nhân, đây là đạo luật tiêu biểu cho một thời kỳ xưa cũ khi mà nhâ t cử nhâ t động của con người đều bị theo dõi và kiểm soát, và sự phát triển tự do của mỗi cá nhân bị coi là tội pha n quốc nghiêm trọng.

Có một số người vẫn sở hữu những năng lực không thể gia i thích nổi và họ sẵn sàng đem năng lực của mình ra giúp đỡ loài người, khi mà khoa học hiện đại hoàn toàn bó tay đối với việc chữa lành hay làm gia m đau một số căn bệnh. Là quyền tự nhiên của con người, kha năng giúp đỡ người bệnh không thể bị pháp luật hạn chế hay ngăn câ m. Bruno Gröning chỉ là một người trong số những người được Thượng đế ban ơn và trao cho kha năng giúp đỡ người khác, trao cho năng lượng chữa bệnh, đặc biệt khi những người khác không còn kha năng làm điều đó. Là người có kha năng chữa bệnh bẩm sinh, do nhận được ơn huệ của Thượng đế; là người đàn ông có niềm tin sâu sắc, được củng cố bởi sư mệnh ông gánh vác và sẵn sàng cống hiến sư c mạnh mình có vì lợi ích và sự khỏe mạnh của loài người, của tâ t ca những người bị bệnh và mong muốn được giúp đỡ, ông câ n được chúng ta giúp đỡ, chiến đâ u cùng ông và cùng những người bệnh, để nguồn năng lượng chữa bệnh không bị ca n trở bởi những qui định pháp luật hỗn độn mang tính kìm hãm của xã hội đương thời. Khi chúng ta là những con người khỏe mạnh, không bị quâ y râ y bởi bệnh tật, và được gia i phóng khỏi mọi áp lực, mọi đối tượng phục vụ đạo luật kia, và tự hỏi ba n thân xem làm thế nào để công việc của Gröning có thể hài hòa với Luật Hành nghề y, thì chúng ta câ n xem xét những điểm sau: Thậm chí theo đạo luật này thì bâ t cư ai cũng đều được phép chữa bệnh miễn là họ không biến nó thành một nghề hay một công cụ kiếm tiền. Theo cách lý luận của đạo luật này thì bâ t cư ai giúp đỡ đồng loại của mình một cách vô tư, không vị kỷ, để ngăn chặn hoặc đẩy lùi bệnh tật, thì đều có thể hành động và không thể bị ngăn ca n hành động như vậy. 145

146 Miễn là họ không hành nghề hay kiếm tiền từ việc đó: Gröning không hề lâ y một đồng tiền nào để đổi lại việc chữa bệnh của ông. Phương châm của ông là: Ai không thể chữa bệnh ở bâ t kỳ nơi nào khác thì đều có thể đến chỗ ông, bỏ lại tiền bạc và nỗi sợ hãi ở nhà, chỉ câ n mang theo niềm tin và thời gian. Niềm tin, bởi vì đó là điều kiện đặc biệt câ n thiết để có thể khỏi bệnh, và thời gian, bởi vì bâ t kỳ sự lành bệnh nào cũng câ n một khoa ng thời gian nhâ t định. Do đó, hoạt động chữa bệnh miễn phí mà Gröning thực hiện không thể bị điều chỉnh bởi Luật Hành nghề y. Thậm chí luật này còn cho phép hành động như vậy vì ở khoa n 8 nó đòi hỏi bâ t kỳ ai muốn nộp đơn xin giâ y phép hành nghề với tư cách người chữa bệnh không chuyên nghiệp đều pha i chư ng minh thành công chữa bệnh của họ trong khoa ng thời gian ít nhâ t là ba năm. Theo quan điểm này thì Gröning pha i được cho phép tiếp tục thực hiện công việc tự nguyện và nhân ái này, và đư ng trên quan điểm này thì những người thi hành đạo luật này sẽ pha i cho phép ông tiếp tục công việc của mình để có thể chư ng minh kha năng cũng như thành công của ông với công việc trị bệnh. Thậm chí khi áp dụng nghiêm đạo luật này thì chúng ta cũng pha i thừa nhận rằng hoạt động điều tra kha năng của người đàn ông này không tuân thủ các nguyên tắc nghề nghiệp bởi vì Gröning pha i được tạo cơ hội làm việc và thí nghiệm ngay ca trong giai đoạn điều tra. Nhưng để tránh nguy cơ tuột mâ t người đàn ông vĩ đại này, nhà câ m quyền nên cho ông một giâ y phép đặc biệt bởi Gröning đã có đâ y đủ bằng chư ng về kha năng chữa bệnh của ông cũng như các ca chữa bệnh thành công, và thực tế này thì ca dân chúng lẫn các cơ quan công quyền đều biết. Vì thế ai đó có thể nghĩ rằng vì quyền lợi của

nhiều người, mà trên thực tế là có quá nhiều người bị ốm và mong được chữa lành, thì nhà câ m quyền nên tránh cách tiếp cận quan liêu để gia i quyết vâ n đề. Chỉ khi đó mới có thể chư ng minh được là nhà nước đang thực sự phục vụ quyền lợi của dân chúng. Nhưng thông điệp này bị nhà câ m quyền lờ đi. Mọi nỗ lực tuân thủ luật pháp của Bruno Gröning, như việc thành lập Hội Gröning và việc hạn chế hoạt động thuyết gia ng về niềm tin, đều không mang lại kết qua gì. Năm 1955 ông lại bị đưa ra tòa. Một vài ghi chép trong cuốn sổ nhỏ của ông đã miêu ta ông tư c giận tột độ: Ai cho ai cái quyền được câ m tôi chữa bệnh cho người ốm, những người mà các bác sỹ đã bó tay hoàn toàn. Hãy so sánh: những cái bình vỡ, hay tương tự, với đống rác. Hàng ngàn người bệnh (hãy nhớ sự kiện ở Traberhof) ở nhà và ở các bệnh viện đang mòn mỏi trong hi vọng được chữa lành. Ai chịu trách nhiệm về việc này? Thay mặt người bệnh, tôi buộc tội tâ t ca những người đã câ m đoán việc chữa bệnh của người ốm! Đạo luật nào ngăn ca n việc này không thể tồn tại và hiện không tồn tại ở ca nước Đư c hay ở các quốc gia khác. Người cha gánh vác trọn vẹn nghĩa vụ đối với gia đình. Ông ta pha i quan tâm đến sự sống khỏe mạnh của mọi thành viên trong gia đình mình, v v. (Nhà nước chính là người cha!) (a) Ai tạo ra nhà nước? Người dân. (b) Ai có nghĩa vụ đa m ba o sự tồn tại bình thường của nhà nước? Bộ máy hành chính nhà nước. (c) Chúng ta pha i chịu trách nhiệm với sự tồn tại bình thường của bộ máy hành chính nhà nước hay bộ máy hành chính nhà nước pha i chịu trách nhiệm cho sự tồn tại khỏe mạnh của chúng ta? 147

148 5. Vụ án lớn Ngày 4/3/1955, Cơ quan hành chính của Munich II tiến hành khởi tố Bruno Gröning. Một lâ n nữa ông bị buộc tội vi phạm luật hành nghề y. Tại một trong các phiên xét xử, ông đáp lại lời buộc tội đó như sau: Liệu điều đó có đáng bị trừng phạt nếu như tôi chỉ cho mọi người biết cách giúp họ khỏe lại và tìm ra con đường đúng đắn để có sư c khỏe? Hàng ngàn người với những căn bệnh vốn được cho là không thể chữa khỏi có thể khỏe mạnh trở lại nếu họ biết về điều đó. Tôi không làm gì ngoài việc chỉ ra cho mọi người rằng việc họ có trở lại khỏe mạnh bình thường hay không phụ thuộc hoàn toàn vào họ, và tôi chỉ cho họ biết cách tìm lại trật tự trong cuộc sống nội tâm. Người ta đã chư ng minh hàng ngàn lâ n rằng những người theo lời khuyên của tôi đã vui vẻ và khỏe mạnh trở lại. ( ) Tôi không làm hại ai với hoạt động của mình; ngược lại, tôi giúp đỡ mọi người ở tâ t ca mọi nơi mà ở đó sự giúp đỡ đã bị từ bỏ. Trong cuộc phỏng vâ n với tạp chí Das Neue Blatt (Báo thời mới), ông cũng đáp lại những lời buộc tội mình như sau: Tôi có thể thực sự bị buộc tội gì được chư? Tôi không chẩn đoán bệnh, tôi không chữa bệnh cho bâ t cư ai, và tôi cũng không quan tâm đến tiền sử bệnh tật của họ, tôi không kê bâ t cư toa thuốc hay phương pháp điều dưỡng nào cho họ. Đó có pha i lỗi của tôi, thậm chí nó có pha i là tội ác không, nếu những ca lành bệnh tuyệt vời đã xa y ra, nếu người ốm tự nâng người dậy và nói, tôi ca m thâ y râ t khỏe mạnh và nhẹ nhõm, tôi lành bệnh rồi!? Có thật sự là tôi bị câ m hỏi những người bạn của mình rằng bạn ca m thâ y thế nào? và rồi tôi khuyên họ: Hãy quan sát

Buộc tội Một điều không thể hiểu nổi và đáng hổ thẹn là việc buộc tôi pha i nộp phạt và ngăn câ m những hoạt động của tôi. Điều đó không chỉ liên quan đến những người giúp đỡ mà ngay ca tôi là thiếu chân thực, nhưng hơn nữa nó còn câ m đoán giúp đỡ những người đang câ n và không thể tìm thâ y sự giúp đỡ ở bâ t kỳ nơi đâu, bởi vì pháp luật đã ngăn câ m điều đó. 149

cơ thể mình chăm chú hơn nữa! Hãy tạo ra trật tự trong cơ thể! Sự cáo buộc thư hai dành cho Bruno trong phiên tòa này là tội vô ý giết người. Ngày 11/4/1955 ông viết trong một lá thư cho các bạn mình như sau: Các bạn yêu quí của tôi! Những ngày này báo chí và đài phát thanh đã công bố một báo cáo, miêu ta tôi với những dụng ý nhâ t định. Báo cáo này sẽ cho bạn biết là cơ quan hành chính của Munich II đã chuẩn bị buộc tôi tội vô ý giết người. Cuối năm 1949 tôi được họ cho là đã hư a chữa lành bệnh cho một bé gái 17 tuổi bị bệnh lao phổi và đã ngăn ca n cô gái đến khám bác sỹ và đến viện điều trị. Tôi bị cho là có tội đối với cái chết của bé gái này. Những người đã đọc hoặc đã nghe những báo cáo như trên với đâ u óc tỉnh táo thì có thể nhận ra điều mà nhà câ m quyền đang hướng tới: Đó là họ muốn tạo ra sự rối trí trong số các bạn bè của tôi và ngăn ca n những người quan tâm đến vâ n đề này và những người đang tìm kiếm sự giúp đỡ tìm hiểu thêm về nỗ lực của chúng ta cũng như vô số các sự thật khác mà tôi đã công khai. Họ đang cố gắng, bằng mọi giá có thể, ca n trở hoạt động của tôi cũng như hoạt động của những người trong Hiệp Hội Gröning, và ca hoạt động của các bạn nữa. Dĩ nhiên là mọi thư không như những gì được miêu ta! Tôi không câ n pha i trình bày rõ với các bạn của tôi; bởi họ biết rằng tôi không hư a hẹn chữa lành cho bâ t kỳ ai, và rằng tôi chưa từng bao giờ khuyên ai không chữa bệnh ở bệnh viện. Tôi được tuyên trắng án năm 1952. Chẳng đáng lưu ý lắm sao khi mà vụ Kuhfuß, xa y ra vào năm 1949 1950, không được nhắc lại trong phiên tòa xét xử tôi năm 1950-1951 mặc dù họ đã có đủ mọi tài liệu? ) 150

Tôi, và tâ t ca các bạn nữa, đều ý thư c được rằng tâ t ca những sự việc này đều nhằm mục đích hủy hoại tôi, hủy hoại Hiệp hội của chúng ta và hủy hoại những nỗ lực của chúng ta. Những nhân chư ng chính tại phiên tòa vào thời điểm đó là Eugen Enderlin và Otto Meckelburg. Bruno Gröning từng viết về sự việc này như sau: Lúc đó hai người này theo cách riêng của mình một mặt tâ n công và mặt khác hỗ trợ lẫn nhau, bằng cách lâ n lượt người này làm chư ng cho người kia chống lại Gröning. Dĩ nhiên chuyện này do các quan chư c câ m quyền khởi xướng, để tôi hoàn toàn bị choáng ngợp bởi các vụ kiện tụng và để buộc tôi pha i im miệng và trở thành người xâ u xa như họ miêu ta. Trong phiên tòa đâ u tiên vào cuối tháng 7/1957, Bruno Gröning được tuyên không phạm tội vô ý giết người nhưng bị phạt 2.000 DM vì vi phạm Luật hành nghề y. Tháng 1/1958 Bruno lại pha i tham dự phiên tòa phúc thẩm vì Cơ quan hành chính của Munich II đã kháng cáo. Lâ n này các nhân chư ng của vụ án trình bày khác râ t nhiều so với 6 tháng trước. Baroness Anny Ebner đến từ Eschenbach, người theo dõi hết sư c cẩn thận phiên tòa xử Gröning, đã viết trong bài bình luận của cô như sau: Ai cũng thâ y rõ rằng các nhân chư ng chống lại Bruno lâ n này đã hợp lực công kích vào một điểm câ m người khác đến gặp bác sỹ. Họ đặc biệt nhâ n mạnh điểm này và cách cư xử của họ trong phiên tòa lâ n này hết sư c tự tin. Ngày 16/1/1958, phán quyết của tòa được công bố: 8 tháng tù giam cho tội vô ý giết người và phạt 5.000 DM vì vi phạm Luật hành nghề y. Tuy nhiên Bruno được hưởng án treo và không pha i vào ngồi tù. Baroness Anny Ebner từ Eschenbach đã viết: 151

152 Phán quyết của tòa án là sự sỉ nhục đối với nước Đư c! Vô cùng thâ t vọng, Bruno Gröning nói rằng ông đang bị trừng phạt vì đã làm điều tốt. Lâ n này ba n án bị luật sư của Gröning, Tiến sỹ Andreas Grassmüller, kháng cáo lên Tòa án tối cao bang Bavaria. Phiên phúc thẩm lâ n này diễn ra vào ngày 22/1. Tiến sỹ Grassmüller sau đó đã nhận xét như sau: Dựa vào phiên tòa lâ n này, tôi tin rằng quyết định của tòa phúc thẩm sẽ bị hủy bỏ bởi ý kiến của Tòa tối cao bang Bavaria. Tòa đã tạm hoãn thời gian tuyên án mười ngày. Ngày 22/1/1959, Bruno Gröning không còn có thể tham dự phiên tòa được nữa. Vào đúng thời điểm phiên tòa diễn ra thì ông nằm trên bàn mổ của bệnh viện chuyên về ung thư ở Pari. Ông đã mâ t ở Pari bốn ngày sau đó. Phiên tòa pha i kết thúc mà không đưa ra bâ t kỳ phán quyết cuối cùng nào. Năm 1963, trong cuốn sách của mình Giác quan thư sáu Louis Emrich, biên tập viên của tạp chí Châu âu Mới, đã viết lại ca m nhận của ông về toàn bộ phiên xét xử: Bruno Gröning, người chữa lành bệnh bằng tinh thâ n vĩ đại nhâ t của Đư c, cũng đồng thời là một trong những người được lựa chọn để thực thi sư mệnh và khi những người được lựa chọn này thi hành những chỉ dẫn mà họ được trao, thì họ pha i đối diện với sự chống đối cay nghiệt nhâ t của những người theo chủ nghĩa duy vật. Những gì người ta đã làm đối với Bruno dưới danh nghĩa của y học và công lý không hề mang lại một trang huy hoàng trong lịch sử của nền cộng hòa liên bang. Những lời lẽ của Bismarck rằng Những người được Thượng đế trao cho quà tặng chữa lành bệnh cho người khác thì không nên bị công an ca n trở, trong trường hợp

của Bruno, đã bị phớt lờ một cách đáng xâ u hổ nhâ t. Đúng ra là Gröning đã bị săn lùng cho đến chết bằng những qui định pháp luật đương thời. Các hội đồng y khoa và tòa án đã tuân theo tính xác đáng của luật pháp trong sách vở, và vì thế họ có tội trong cái chết quá sớm của người đàn ông từng được chư ng minh là có kha năng chữa lành bệnh hoặc làm gia m nhẹ nỗi đau cho hàng ngàn, hàng nhiều ngàn người thông qua con đường tinh thâ n. ( ) Dù các bác sỹ buộc tội Gröning có được pháp luật lúc đó ủng hộ đến đâu đi chăng nữa, dù các quan chư c nhà nước dựa dẫm đến mư c nào vào khung pháp luật hiện hành cho mọi hành động của họ khi buộc tội Gröning, thì Gröning cũng bị oan hàng ngàn hàng vạn lâ n. 6. Thiêu cháy trong lòng Mùa thu năm 1958 Bruno Gröning đã sút cân râ t nhiều. Vợ ông hết sư c lo lắng và tháng 11 đã lái xe đưa ông đến gặp một người bạn của bà là một bác sỹ đang sống ở Pari. Josette Gröning viết về những sự kiện đó như sau: Cho tới tận tháng 11/1958, tôi không hề có ý nghĩ nào là chồng tôi đang bị ốm. Ông â y chẳng bao giờ kêu ca, lúc nào cũng hết sư c vui vẻ, và ngày nào cũng tiếp đón khách và những người câ n giúp đỡ. Vì ông sụt cân râ t nhiều trong tháng đó, tôi đã kể lại triệu chư ng này cho một người bạn tốt của chúng tôi là bác sỹ Pierre Grobon ở Pari, một chuyên gia về ung thư; ông â y nghĩ những triệu chư ng đó có thể là dâ u hiệu của một căn bệnh râ t nghiêm trọng. Nghe theo lời khuyên của ông â y, chồng tôi và tôi lái xe tới Pari vào cuối tháng 11/1958. Bác sỹ Grobon 153

đưa chúng tôi tới gặp một bác sỹ X-quang, người sau đó đã chụp nhiều phim X-quang cho chồng tôi. Những phim X-quang đó cho thâ y chồng tôi bị ung thư di căn ở bụng. Trước chuyến đi tới Pari, chồng tôi đã ba o tôi khi ở Plochingen rằng: Anh biết anh bị làm sao; không ai có thể giúp anh ca! Bruno Gröning đã có lâ n cho một người bạn xem những bư c phim X-quang đó. Trên những phim X-quang đó có thể thâ y một đốm to và nhiều châ m nhỏ màu đen. Ông gia i thích rằng ông có thể loại bỏ những châ m nhỏ một cách dễ dàng vì đó là bệnh tật của những người mà ông từng giúp đỡ, và ông đã nhận vào cơ thể mình những bệnh tật đó trong quá trình chữa lành cho họ. Tuy nhiên cái đốm to màu đen là do sự nhẫn tâm của những đồng loại khác, và vì thế nó câ n pha i được loại bỏ bằng bàn tay con người. Nhiều năm trước, trong một buổi nói chuyện với nhà thơ người Áo Hans Sternreder, ông đã từng nói: Nếu tôi bị câ m làm việc, tôi sẽ bị thiêu cháy trong lòng. Đó chính xác là những gì đã xa y ra. Sự quâ y rối tàn nhẫn do lệnh câ m chữa bệnh gây ra, phiên xét xử cuối cùng tưởng chừng như vô tận, và nỗ lực không ngừng của kẻ thù tìm cách vô hiệu hóa ông cuối cùng đã dẫn đến việc Bruno Gröning bị thiêu cháy bên trong bằng một nỗi đau không thể mô ta được bằng lời. Những gì mà Bác sỹ Bellanger nói sau ca phẫu thuật cuối cùng vào ngày 22/1/1959 đã khẳng định điều đó: Sự phá hủy trong cơ thể Bruno thật khủng khiếp; tâ t ca nội tạng của ông â y đều bị thiêu cháy hết ca. Nhưng hãy quay lại các sự kiện diễn ra vào tháng 11/1958. Josette Gröning tiếp tục với báo cáo của mình như sau: 154

Bác sỹ Grobon gia i thích cho chồng tôi là ông â y câ n pha i được phẫu thuật ngay lập tư c. Sự sống của ông â y chỉ còn tính theo ngày, nếu không muốn nói là chỉ còn tính theo giờ đồng hồ; có thể đã là quá muộn rồi. Nhưng chồng tôi khi đó hoàn toàn bình tĩnh, thư thái và đã nói với ông bác sỹ rằng: Rõ ràng là tôi không thể phẫu thuật bây giờ. Còn nhiều người đang đợi tôi ở Đư c và ở nước ngoài, và tôi muốn nói chuyện với họ trong lễ Giáng sinh. Tôi sẽ quay lại Pari vào tháng 1/1959. Bác sỹ Grobon tỏ ra vô cùng thâ t vọng và khẩn thiết đề nghị chồng tôi phẫu thuật ngay lập tư c. Ông không thể thực hiện bâ t cư chuyến đi nào với tình trạng sư c khỏe hiện tại. Nếu ông là bố tôi, tôi sẽ đưa ông đi phẫu thuật ngay lúc này, vào đúng ngày hôm nay. Ông â y đã nói rõ với chồng tôi là căn bệnh này nghiêm trọng đến mư c nào: Một người trong tình trạng sư c khỏe như ông pha i tuân thủ một chế độ ăn vô cùng ngặt nghèo, sống ở nơi cực kỳ yên tĩnh và không bị kích động, và tránh bị mệt mỏi. Ông không thể thực hiện bâ t cư chuyến đi nào vào mùa đông và không được tự mình lái xe nữa! Bruno tra lời: Tôi có thể ăn và uống bâ t cư thư gì tôi thích mà không bị nôn mửa. Tôi vẫn ca m thâ y đủ khỏe mạnh và tỉnh táo để tiếp tục làm việc và thuyết gia ng như tôi đã dự định. Nhưng để làm hài lòng ông thì tôi sẽ quay lại Pari trong một tuâ n nữa. Tôi còn pha i làm một số việc ở nhà và thay đổi kế hoạch chuyến đi của tôi. Hôm sau, chúng tôi quay lại Plochingen. ( ) Trong khoa ng thời gian ở Plochingen, ông đã tiến hành thu âm râ t nhiều băng. Thay vì kế hoạch nói chuyện trực tiếp như ông dự định, những băng thu âm này đã được bật tại các cộng đồng Gröning ( ) trong dịp Giáng sinh. 155

Từ đoạn trích dưới đây trong một băng cát-sét được Bruno ghi vào ngày 4/12, chúng ta có thể thâ y rõ Bruno đã pha i khó khăn thế nào mới có thể quyết định từ bỏ kế hoạch xuâ t hiện để nói chuyện trực tiếp vào dịp lễ Giáng sinh như ông đã hư a: Từ trái tim mình, tôi vô cùng xin lỗi rằng lâ n này tôi không thể có mặt vào lễ Giáng sinh như tôi đã hư a. Tôi biết các bạn sẽ ca m thâ y buồn và thâ t vọng ngay khi nghe được điều này, chỉ bởi vì các bạn không quen với việc tôi pha i từ chối xuâ t hiện trước mặt bạn bè trong khoa ng thời gian ngắn hay dài. Chỉ có một lý do duy nhâ t cho sự từ chối lâ n này, và vì những lý do cá nhân, tôi sẽ chỉ đề cập đến nó hết sư c ngắn gọn. ( ) Tôi mong các bạn, những người bạn yêu quí của tôi, thư lỗi cho tôi lâ n này vì một công việc khẩn câ p. Nó quan trọng hơn râ t nhiều những gì mà các bạn có thể đoán. Nhưng nếu nói rõ điều này trên băng thì sẽ quá dài. Tôi tin tưởng rằng các bạn, những người bạn yêu quí của tôi, sẽ thể hiện sự hiểu biết và ca m thông lớn nhâ t đối với việc này. Tôi tin tôi có thể nói rằng các bạn sẽ vui vì tôi đã không quên các bạn, đã không làm các bạn thâ t vọng, và tôi sẽ không bao giờ làm các bạn thâ t vọng ca. Josette Gröning tiếp tục viết như sau: Tám ngày sau, chúng tôi lái xe quay lại Pari. Sau khi gọi điện cho Bác sỹ Grobon, chúng tôi đến bệnh viện ngoại khoa của bạn ông â y, Bác sỹ Bellanger, một bác sỹ chuyên khoa ung thư râ t được kính trọng và ông này cũng biết Bruno. Bác sỹ Grobon đã nói trước với ông này về tình trạng của chồng tôi. Sau khi kiểm tra các phim X-quang, Bác sỹ Bellanger nói với tôi bằng tiếng Pháp (để Bruno không hiểu được) rằng: Ca phẫu thuật sẽ vô cùng khó khăn. Tôi thậm chí còn không dám chắc chúng tôi có thể mổ được không. 156

Bruno Gröning tại phòng khám Henner ở Paris Bruno Gröning là một người có trái tim vàng, một người đàn ông vĩ đại đã giữ vững lập trường và phẩm giá của mình, đã đương đâ u với sự đau khổ và cái chết, sự ca tụng vẫn lưu truyền đến ngày nay. TS. Henry Bellanger, 1974 157

158 Nhìn từ phim X-quang có thể thâ y trường hợp này hâ u như không còn hy vọng, nhưng nếu tôi có thể làm điều gì mà không gây nguy hiểm cho ông â y thì tôi sẽ làm. Ngược lại, tôi sẽ khâu lại vết mổ ngay lập tư c. Tôi không giâ u tình trạng nghiêm trọng này với chồng. Ông â y chỉ cười và nói: Theo như anh biết, họ sẽ cắt bỏ các bộ phận cơ thể anh từ trên xuống dưới. Anh không sợ. Đây là lúc để anh tra i nghiệm trên chính cơ thể mình xem ca m giác sau một ca phẫu thuật nguy hiểm là như thế nào. Mắt bác sỹ Bellanger trợn tròn khi tôi dịch những gì Bruno nói cho ông ta nghe. Ông â y nói rằng có thể sẽ pha i cắt bỏ một phâ n dạ dày. Bruno nói với ông ta: Theo tôi ông có thể cắt bỏ toàn bộ dạ dày, nhưng tôi biết ông sẽ để chúng lại. Sau khi quay lại phòng của chúng tôi trong bệnh viện, Bruno cười và ba o với tôi rằng: Khi họ mổ bụng anh ra, họ sẽ ngạc nhiên với những gì họ thâ y. Tình trạng thực sự tồi tệ hơn nhiều so với những gì họ thâ y qua phim X-quang. Ngày hôm sau (ngày 8/12/1958), ca phẫu thuật được thực hiện với sự có mặt của Bác sỹ Grobon. Trước khi ca phẫu thuật kết thúc, ông â y đến phòng tôi và ba o tôi rằng: Tôi pha i nói với cô một chuyện râ t khủng khiếp. Mọi thư tồi tệ hơn nhiều so với những gì chúng ta tưởng tượng. Dạ dày của ông â y đã bị phá hủy hoàn toàn và không thể nào phẫu thuật nổi. ( ) Thời gian sống của ông â y chỉ còn đếm được trên đâ u ngón tay thôi. Ca phẫu thuật thật là điều mà ca hai bác sỹ đều không thể tưởng tượng nổi. Họ bị sốc khủng khiếp. Khi bác sỹ phẫu thuật thâ y không thể làm được gì, ông â y khâu vết mổ lại. Nhưng họ không thể hiểu nổi tại sao bề ngoài của Bruno lại thể hiện quá ít về sự chịu đựng khủng khiếp mà ông â y đã tra i qua. Ông â y vẫn thở bình thường, hoạt

động trao đổi châ t trong cơ thể ông vẫn hoạt động hoàn ha o trong những tuâ n cuối cùng ông sống và các trị số xét nghiệm máu vẫn râ t hoàn ha o, dù ở giai đoạn di căn này, khi mà chỉ một lượng thư c ăn nhỏ vào cơ thể cũng có thể gây ra nôn mửa liên tục và những bệnh nhân quá lo âu có thể từ từ bị chết vì đói. Nhưng với Bruno, chẳng có chuyện gì xa y ra ca. ( ) Trong những ngày sau phẫu thuật, các bác sỹ và y tá lại càng ngạc nhiên hơn với cách hành xử của bệnh nhân Bruno Gröning. Bữa nào ông cũng ăn hết sư c ngon miệng. ( ) Lúc đâ u họ cư lo rằng bệnh nhân của họ, người vừa tra i qua cuộc đại phẫu, sẽ bị nôn mửa, nhưng chẳng có chuyện gì như thế xa y ra ca. Chẳng có vâ n đề bâ t thường nào xa y ra. Một vài ngày sau, khi Bác sỹ Bellanger đến thăm, Bruno dậy khỏi giường, thực hiện vài động tác gập gối và một số động tác thể dục khác, và liên tục vỗ tay vào bụng. Ông bác sỹ chắp tay trước mặt và hét lên hết sư c sợ hãi: Hãy ngừng ngay lại! Anh đang làm tôi sợ đâ y. Vết thương của anh có thể bị bung ra. Tôi không thể chịu nổi khi nhìn ca nh tượng này! Rồi ông â y biến mâ t. Nhưng Bruno thì cười ha hê và không thể hiểu được sao ai đó lại có thể sợ hãi đến thế. ( ) Ngày thư mười hai, Bruno đã có cuộc tha o luận ngắn với Bác sỹ Grobon. Ông â y, Bruno, nhâ t định muốn tự lái chiếc xe của chúng tôi. Khi ông bác sỹ nghiêm khắc câ m Bruno làm vậy, Bruno chỉ mỉm cười và nói: Giá như con người có thể từ bỏ những nỗi sợ hãi của họ, họ đã có thể thành công hơn trong cuộc đời. ( ) Chuyến đi quay về Plochingen diễn ra suôn sẻ và không hề có việc gì xa y ra. Vẫn như mọi khi, Bruno vui vẻ và nói không ngớt. ( ) Chúng tôi có vô số khách đến thăm trong khoa ng thời gian từ Giáng sinh đến Năm 159

mới. Và không người bạn nào nhận ra bạn của họ đang pha i chịu đựng một căn bệnh hết sư c trâ m trọng. Mong ước không thể nào chế ngự được của ông đã và mãi là giúp đỡ người khác. Chỉ có vài người nhận ra ông sút cân và xanh xao hơn. 160 7. Điều này liên quan tới mọi sinh vật sống Ngày 26/12, Bruno Gröning tập hợp vài người bạn thân nhâ t và dưới đây là đoạn trích những gì ông đã nói với các bạn của mình: Mỗi người bạn thân của tôi sẽ biết được tại sao tôi lại làm việc này và trên hết là lý do tại sao tôi có mặt ở đây, trên Trái đâ t này, vốn đã được định trước. Rõ ràng đây là sự sắp xếp của Thượng đế, những gì mà Thượng đế đã qui định trước cho mỗi người. Đây rõ ràng không pha i là sự trù tính của tôi, hay của bâ t kỳ ai, và cũng không pha i là sự trù tính của một cá nhân nào đó cai trị đâ t nước này. Không, đây là vâ n đề của toàn vũ trụ, là vâ n đề về sự sống trên Trái đâ t, và chính Thượng đế là người pha i định trước cho chúng ta. Người đã ban lệnh và chúng ta câ n biết lệnh của Người. Các bạn yêu quí, tôi tin rằng các bạn đã phâ n nào hiểu được tôi đang nói đến vâ n đề gì. Không thể là con người, mà chỉ có thể là Thượng đế, người đã tạo ra chúng ta, tạo ra loài người, Trái đâ t và vạn vật, tạo ra tâ t ca những thư cho bạn, cho tôi, cho tâ t ca những người theo chúng ta, theo những người ở thời đại này. Đây là vâ n đề liên quan đến mọi vật, mọi con người, vì cư nơi nào tồn tại sự sống, nơi đó có Thượng đế. Nhưng tôi không muốn vòng vo thêm nữa; thay vào đó tôi sẽ chỉ nói điều quan trọng nhâ t. Tôi đang nhớ đến năm 1949, khi tôi được râ t nhiều người biết đến, không

chỉ là những người Đư c mà còn bao người ở các quốc gia láng giềng và tôi có thể nói là tôi đã được ca thế giới biết đến bởi vì tôi được tung hô và được miêu ta như là người mà trên thực tế, tôi không pha i như vậy. Họ đặt cho tôi nhiều tên gọi khác nhau, họ miêu ta tôi, họ đưa cho tôi râ t nhiều thư, nhưng tâ t ca những thư đó đều do họ tưởng tượng ra, đó chỉ là những mánh khóe tiếp thị, chỉ là sự tuyên truyền cho báo chí và trên hết, là hoạt động qua ng cáo cho những người vốn nghĩ rằng họ có thể kiếm tiền từ việc này. Người tạo ra điều kỳ diệu! Ai có thể thực hiện những điều kỳ diệu chư? Hỡi những người bạn yêu quí nhâ t, thân thiết nhâ t của tôi, các bạn đều sẽ biết rõ ai là người tạo ra những điều kỳ diệu. Đó không pha i là tôi, mà là Thượng đế. Tôi không là gì ca, ngoại trừ một công cụ phục vụ Người, và đó là lý do tại sao tôi thường nói: Tôi chẳng là gì ca, ngoài việc là một kẻ luôn nghe theo Thượng đế chư không nghe theo con người. Và tại sao tôi ở đây, tại sao Thượng đế lại quyết định rằng tôi pha i ở nơi này, tôi muốn trao kiến thư c này cho những người bạn thân thiết nhâ t của mình trên con đường của họ để họ sẽ đa m nhiệm nó; và trao cho tâ t ca hậu duệ của chúng ta, tâ t ca những con người mà trong tương lai sẽ nhận được món quà từ Thượng đế là sự sống trên Trái đâ t, để họ cũng sẽ nhận được những điều tương tự từ giáo lý này, những điều mà Thượng đế đã quy định dành cho họ. Nhưng chỉ khi nào những kiến thư c này được tiếp thu một cách đúng đắn, chỉ khi nào loài người hiểu được cái gì là đúng, cái gì là tinh khiết, cái gì là của Thượng đế, thì khi đó những kiến thư c này mới có tác dụng. Và vì thế họ không chỉ pha i học những kiến thư c này kỹ lưỡng nhâ t có thể mà họ pha i thực sự tra i nghiệm nó. Họ pha i tự tổng hợp những kinh nghiệm cho riêng mình, 161

162 và họ có nghĩa vụ pha i tự thuyết phục mình. Bằng mọi giá họ không thể nằm trong nhóm người, những người mà tôi đã nhắc đến kể trên, những người mà kể từ năm 1949 đã dựng tôi thành cái mà tôi cũng chẳng biết là gì nữa. Các bạn không thể hành xử như họ. Các bạn không được ngồi lê đôi mách như họ, không được nói những điều như họ, không được viết những gì mà người khác đã viết cho bạn. Các bạn không bao giờ được làm những điều mà người khác đề nghị hoặc khuyên các bạn làm, những người lúc nào cũng muốn áp đặt ý kiến của họ lên các bạn, để cho cuộc đời và nguyện ước của các bạn trùng khớp với suy nghĩ của họ. Cuối cùng các bạn có thể bắt đâ u tin rằng, và điều này đã thực sự xa y ra, bạn pha i làm mọi thư, rằng bạn pha i cố gắng hết sư c có thể, để có thể giúp đỡ người khác, và rằng các bạn cũng pha i cố gắng giúp đỡ tôi nữa. Không ai có thể giúp Bruno Gröning. Bạn có thể râ t muốn giúp, nhưng bạn không thể giúp thực sự. Người có thể giúp đỡ tôi lúc nào cũng chỉ có một. Đó chính là Thượng đế. Điều này không bao giờ khác. Những người duy nhâ t có thể giúp tôi là những người toàn tâm toàn ý phụng sự Thượng đế, những người vâng lời Thượng đế chư không pha i con người, những người làm theo những điều Thượng đế dạy ba o và làm những việc mà họ thực sự pha i làm. ( ) Vâng, tôi đã bị thuyết phục bởi râ t nhiều điều trong cuộc sống trâ n thế này. Tôi cũng đã bị thuyết phục rằng, ngay trong Hội thân hữu, dù lớn hay nhỏ, bâ t cư khi nào tôi xuâ t hiện, tôi liên tục bị tâ n công, là điểm bắn phá và bị dìm ngày một sâu xuống dưới đống bùn đâ t bẩn thỉu, để rồi điều duy nhâ t còn lại mà tôi có thể làm là gia i thoát tôi khỏi những bẩn thỉu thối tha đó, những thư khủng khiếp mà họ luôn mang đến, thu gom lại và đổ lên người tôi. Và vì thế khoa ng thời gian tốt đẹp nhâ t đã

bị mâ t, và một phâ n thư bùn đen này đã dính lại, không chỉ trên người tôi, mà còn ca trong cơ thể tôi, để tôi cũng pha i quì gối trước bệnh tật. Nhưng tôi vẫn liên tục làm hết sư c có thể để gia i thoát mình khỏi những điều xâ u xa này, để cuối cùng mọi người cũng sẽ lắng nghe và làm theo điều tốt. Điều này râ t khó; đã có biết bao năm tháng gian khổ. Con đường tôi đi không ra i hoa hồng; tôi chỉ có một con đường duy nhâ t để đi, đó là con đường đâ y gai góc. Và con đường này cũng đâ y rẫy những vật ca n ngáng đường mà tôi pha i dọn sạch, và tôi thực sự đã dọn sạch chúng, và khi tôi dọn được chỗ này thì chỗ khác lại mọc lên, cư liên tục như vậy. 8. Bước phát triển tiếp theo của công trình Trong báo cáo của mình Josette Gröning tiếp tục viết như sau: Cuối tháng 12 ông â y ngồi sau tay lái suốt quãng đường tới Rhöndorf thuộc Rhein. Ông â y nói chuyện với những người bạn trong hội đến tận 2 giờ sáng mà không hề có biểu hiện mệt mỏi nào. Khi về nhà, ông â y lại tự mình lái xe. Đâ u tháng 1, chúng tôi đi bộ trong khu rừng phủ đâ y tuyết ở Plochingen và chồng tôi vẫn râ t yêu cuộc sống. Chúng tôi đã lên kế hoạch thuê một thư ký mới vào ngày 1/2, nhưng ngày 6/1 chồng tôi làm tôi ngạc nhiên khi thông báo rằng ông â y sẽ không thuê thư ký nữa. Đêm qua, ông â y ba o tôi, anh đã nhận được chỉ thị ngừng làm việc. Chúng ta sẽ pha i quay về Paris, và anh sẽ quyết định thời gian chính thư c. Ông â y chắc hẳn đã biết rằng ông â y sẽ sớm pha i lìa xa thế giới này và ông â y không có cách nào có thể sống ở Đư c, nơi mà người ta đã quâ y râ y ông â y suốt mười 163

năm qua. Đặc biệt, các bác sỹ ở đây đã trở thành kẻ thù cay nghiệt của ông. Nhưng tôi không hiểu được tại sao ông lại muốn đợi lâu như vậy, đặc biệt khi tình trạng của ông â y đang ngày một tồi tệ hơn. Ngày 10/1, chúng tôi pha i quay về Rhöndorf để dự một cuộc họp quan trọng. Vì khi đó có bão tuyết râ t mạnh nên chúng tôi không thể lái xe mà pha i đi tàu. Mặc dù chúng tôi pha i đợi tàu suốt nhiều giờ đồng hồ vì tàu liên tục bị hoãn do lở tuyết, nhưng Bruno vẫn chịu đựng được chuyến đi vâ t va này, với một sự kiên định không tưởng tượng nổi, và không một chút kêu than, điều mà bâ t cư người nào khác đang ốm như ông â y khó lòng chịu đựng nổi. Tôi chỉ có thể tự gia i thích với mình rằng đây chính là kết qua của sự kiểm soát thuâ n thục của ông bằng tinh thâ n đối với tình trạng cơ thể của mình. Sau khi Hiệp hội Gröning tan rã, từ 16-18/1, Bruno Gröning gặp gỡ các thành viên sáng lập của một hội khác mới thành lập có tên là Hội thúc đẩy nền ta ng cuộc sống tự nhiên và tinh thâ n e.v. ở Đư c và Áo, và đã cùng họ lên kế hoạch cho những bước phát triển tiếp theo của công trình của ông. Đây là một đoạn trích những gì ông đã nói: Erich Pelz và Alex Loy, các bạn đã ở nhà tôi hôm 16, và hôm nay ngày 18 tháng 1 năm 1959 chúng ta đang cùng nhau viết cái này. Các bạn đến nhà tôi bởi vì tôi đã nói ra mong ước của mình vào tháng 12 rằng chúng ta sẽ nói chuyện về điều quan trọng nhâ t, điều câ p bách nhâ t đối với công trình này. Và đó là điều pha i xa y ra ngày hôm nay, vì ngày mai các anh đã có kế hoạch về nhà vào buổi trưa. Vì thế hôm nay chúng ta muốn gia i quyết những vâ n đề quan trọng nhâ t và thu âm vào băng để không chỉ ai đó trong thời đại chúng ta có thể tiếp cận được, mà để chúng ta có thể lưu trữ nó trong kho 164

tư liệu của mình. Bởi vì tôi tin rằng những gì chúng ta sẽ nói ngày hôm nay là vô cùng quan trọng đối với mọi thời đại. Và bây giờ chúng ta hãy bắt tay thực sự vào công việc. Các bạn thân mến, tôi biết các bạn đang chịu áp lực. Dorothea yêu quí của chúng tôi, người sống ở ngay tâ ng dưới, bà â y không chịu chút áp lực nào ca. Gâ n đây bà đã hiểu tôi hơn một chút và vì thế bà â y tự nói với mình rằng: Ông â y sẽ làm việc đó, chắc chắn là như vậy. Hãy thư giãn đi. Mình sẽ không thúc ép ông ta nữa. Tôi không có ý muốn nói rằng các bạn đang thúc ép tôi, không, ngược lại là đằng khác, nhưng rõ ràng các bạn đang muốn biết một điều gì đó, đó là: Tại sao, bằng cách nào, và chúng ta ở đây nhằm mục đích gì? Chúng tôi chẳng hiểu gì ca. Khi tôi xem lại những gì chúng ta đã nói từ tối hôm 16 đến giờ, tôi thâ y trong câu chuyện của chúng ta đã đề cập đến râ t nhâ t điều, đặc biệt là ngày hôm qua; những thư quan trọng nhâ t, không chỉ với tôi, mà còn với toàn bộ tương lai; cách mà chúng ta, mỗi người chúng ta, không chỉ đáng ra nên thế, mà là pha i thế. Những người mà chỉ đáng nhẽ ra nên thế thì nên ở ngoài Hội thân hữu của chúng ta. Những người bạn thân thiết hơn, các bạn là một phâ n trong nhóm đó, pha i là những người pha i thế. Và việc này pha i được thực hiện, dù ở ngoài kia họ có làm gì đi chăng nữa, để chúng ta có thể thực hiện được mục tiêu của mình. Mục tiêu, vốn được lập ra cho tôi (không pha i bởi loài người), sẽ được thực hiện. ( ) Tôi đặt trọn niềm tin vào ba bạn. Tôi không muốn chuyện này xa y ra như Chúa Giê-su từng nói: Trước khi gà gáy, các người sẽ pha n bội ta ba lâ n. Tôi không muốn điều đó. Đơn gia n là tôi không tin điều đó có thể xa y ra với các bạn. Nhưng tôi câ n dạy các bạn thêm một 165

Tôi không có con đường phủ đâ y hoa hồng, mà chỉ có một con đường duy nhâ t để đi, một con đường đâ y gai góc. 166 chút nữa, để những điều như vậy không xa y ra. Điều đó có nghĩa là chiến đâ u, đư ng về phía sự thật, và không đâ u hàng, không làm những gì mà luật của con người qui định, chỉ làm những gì Thượng đế xác định cho chúng ta, đó là tâ t ca những gì tôi muốn nói. Và bâ t cư ai trong các bạn không thể thực hiện điều này xin thư lỗi cho tôi vì đã nói thẳng như vậy bâ t cư ai trong các bạn không thể thực hiện được những điều này ngày hôm nay, hãy nói cho tôi biết: Tôi không thể làm được điều này, tôi sẽ rút lui. ( ) Đó là một bước, đó là một từ nghe có vẻ rát tai, nhưng tôi vẫn pha i nói. Bởi gì mục tiêu sẽ không thể thực hiện được với những người mà chỉ đưa ra những lời hư a tuyệt vời nhưng không làm gì ca. Tại đây mọi lời nói câ n thiết cho công việc đều sẽ biến thành hành động, dù các qui

định của loài người có dèm pha điều này. Các bạn thân mến, các bạn vẫn chưa hiểu rõ các qui định đó đâu, và đó là lý do tại sao hàng trăm, hàng ngàn luật sư cũng không hiểu rõ chúng. Chúng ta có ca một hệ thống công lý vẫn pha i tra cư u để xem luật pháp nói có thể hay không thể hay một từ nào khác, chỉ bởi vì hệ thống này không kiểm soát được tâ t ca các qui luật. Không ai có thể hiểu chúng. Nhưng tôi không yêu câ u quá cao. Tôi chỉ yêu câ u những gì câ n thiết và hài hòa với Thượng đế. ( ) Anh Erich thân mến, những gì tôi nghe được từ anh ngày hôm qua, tôi đã nghe nhiều lâ n trước đó. Và tôi đã từng pha n đối điều đó và đã nói rõ cho anh rằng điều đó là không thể. Và nếu người ta đòi hỏi điều tương tự như vậy ở tôi, tôi sẽ ra khỏi Hội ngay lập tư c. Anh hiểu chư? Mặc dù, như ca hai anh đều biết đâ y, việc ca hai Hội đều ra đời do ước nguyện của tôi là không đúng. Lại nói đến các hội này ở Áo, Alex đúng cũng như là ở Rosenheim, đúng không? đúng chúng ta nhâ t trí rằng tên của tôi và ba n thân tôi tạm thời không nên dính dáng gì đến Hội để các nhà chư c trách không rờ tới ngay lập tư c. Nhưng rốt cuộc tôi vẫn có mặt ở đó. Đúng. Chúng ta đã từng nói về điều này và mọi thư vẫn ở trong trật tự của nó. Tôi muốn sử dụng Hội này, ca hai Hội, theo cách mà chúng ta dự định thành lập nên chúng, để có thể xây dựng công trình của Thượng đế thông qua những Hội này, để tập hợp không chỉ mọi tâ ng lớp, mọi giai câ p trên đâ t nước, mà còn tập hợp được ca những người nước ngoài nữa. Dâ n dâ n hội sẽ phát triển đến mư c mà nó có mặt trên mọi quốc gia. Đó là vâ n đề tôi quan tâm. Tâ t ca những việc này đều liên quan đến sự thật, về việc phơi bày con người trước sự thật. Về việc trao cho con người thông điệp sự thật là 167

gì và việc Thượng đế đã sáng tạo ra sự sống như thế nào, và do đó, đã tạo ra loài người như thế nào. Xin hãy bàn về hai điều này: Sự sống và loài người. Hãy tạm để động vật và cây cỏ và phâ n còn lại của vương quốc của Thượng đế sang một bên. Sẽ là quá nhiều nếu chúng ta xem xét tâ t ca mọi thư ngay bây giờ. Và rốt cục thì, mọi thư pha i theo một con đường nhâ t định. 168 9. Chặng cuối cùng Paris Josette Gröning tiếp tục: Thư hai, ngày 19 tháng 1, ông â y yêu câ u thư ký đặt vé máy bay đi Pari vào thư tư. Mặc dù tôi đề nghị ông đi ngay thư hai, nhưng ông vẫn giữ quyết định của mình. Thư tư, ngày 21 tháng 1, chúng tôi bay đi Pari. Tâm trạng chồng tôi lúc đó râ t tốt, nhưng rõ ràng ông â y trông không được khỏe. Phẫu thuật lúc đó là câ n thiết vì có vật ca n gì đó ở ruột già. Cuộc phẫu thuật diễn ra ngày 22 tháng 1. ( ) Một hiện tượng tự nhiên kỳ lạ đã diễn ra. Ngày 22 tháng 1, khi chồng tôi vẫn còn đang nằm gây mê, thì một cơn bão lớn với sâ m sét đột nhiên xuâ t hiện ở Pari và làm bâ u trời sáng sủa, đẹp đẽ ngày hôm đó tối sâ m lại với tiếng sâ m và chớp. Trời lúc đó tối đến nỗi mà mọi người pha i bật đèn giữa ban ngày. Cô y tá cũng tỏ ra hết sư c ngạc nhiên khi lại có sâ m chớp dữ dội đến vậy. Trong những ngày tiếp theo sau cuộc phẫu thuật, thân nhiệt, huyết áp và mạch của Bruno hoàn toàn bình thường. Ông â y thậm chí còn hai lâ n dậy khỏi giường và ngồi lên ghế bành. ( ) Thư hai, ngày 26 tháng 1, năm 1959, lúc 1h45 chiều, ông â y đã thanh tha n ra đi vào cõi vĩnh hằng. ( )

Khi tôi nói chuyện với Bác sỹ Bellanger sau khi Bruno vừa qua đời, vị bác sỹ này, vốn quen với buồn đau, lét lút gạt nước mắt trên gò má của ông. Ông ba o với tôi rằng: Những người nhận được ơn huệ của Thượng đế pha i tra i qua cuộc đời trâ n thế quá vâ t va. Bi kịch của họ là ở chỗ họ không được phép giúp mình sau khi họ đã giúp hàng ngàn người. Năm 1974 Bác sỹ Bellanger viết trong một bư c thư như sau: Bruno Gröning là người đàn ông nhân hậu, một người sống có ích và đã chư ng tỏ được mình; và phẩm giá mà ông thể hiện trong đớn đau và cái chết vẫn gợi lên sự ngưỡng mộ cho tới ngày hôm nay. Theo lời khuyên của các bác sỹ, và cũng để cho việc vận chuyển về Đư c được dễ dàng, qua phụ của Bruno Gröning đã đưa thi hài ông đi hỏa thiêu ở Pari, để cơ thể ông bị thiêu cháy thành tro bụi. Sau đó bình di hài được mai táng tại nghĩa trang Waldfriedhof ở một khu rừng gâ n Dillenburg bên cạnh một trong hai người con trai của ông. Tại sao mọi thư lại pha i xa y ra như vậy? Tại sao con đường của Bruno Gröning pha i kết thúc như vậy? Tại sao ông â y không thể tự giúp mình? Những gì ông đã nói vào ngày 26/12/1958: Con đường của tôi không phủ đâ y hoa hồng; chỉ có một con đường duy nhâ t tôi pha i đi, đó là con đường ra i đâ y gai. Và con đường này gập ghềnh và nhiều vật ca n đến nỗi tôi pha i tự mình dọn sạch nó, và tôi đã dọn, nhưng khi tôi đã dọn sạch mọi vật ca n thì con đường đó vẫn bị ca n trở hết lâ n này đến lâ n khác. Nhiều năm trước, ông đã từng nói: Mọi con người đều pha i chết; tôi cũng vậy. Họ sẽ chôn cơ thể tôi dưới đâ t, nhưng tôi sẽ không chết. Bâ t cư 169

ai gọi tên tôi, tôi sẽ đến đó giúp đỡ họ và tôi sẽ vẫn tiếp tục giúp đỡ. Nhưng khi đó mọi người sẽ tự tra i nghiệm sự giúp đỡ và lành bệnh ở ba n thân mình. Và đó chính xác là điều đã và đang xa y ra, sau năm 1959, có vô số trường hợp lành bệnh và có vô vàn báo cáo lành bệnh đã được y học kiểm chư ng. Con đường mà trước đây đã liên tục có chướng ngại vật, con đường trở về với Thượng đế, với hạnh phúc và sư c khỏe, cuối cùng cũng đã được dọn sạch ở Pari. Con đường của Thượng đế cuối cùng đã thông suốt. Bruno Gröning đã chịu đựng mọi điều xâ u xa cho tới tận giây phút cuối cùng, mọi sự ích kỷ và ngược đãi. Loài người chúng ta câ n thận trọng khi sử dụng từ hy sinh. Nhưng chính tại nơi đây, với cái chết của Bruno Gröning ở Pari, hai từ này đã chư a đựng toàn bộ sự thật. Ba n thân Bruno đã từng nói: Đó sẽ là ngày tuyệt vời nhâ t của tôi trên Trái đâ t này, ngày tôi được phép trở về nhà, về với vâ ng hào quang của Thượng đế. Và ở đâu đó: Tôi đa m ba o với tâ t ca bạn bè của tôi rằng tôi sẽ vẫn giúp đỡ, mỗi khi tôi được gọi tên và được mọi người câ n đến. Bâ t châ p mọi sự chống đối và mọi khó khăn, tôi sẽ không bao giờ làm các bạn thâ t vọng. Và ở nơi nào đó khác: Câu tra lời của tôi dành cho mọi kẻ thù của mình, những người pha i ghét tôi là: Những gì kẻ thù của tôi pha i làm, họ đã làm hết rồi, vì thế họ đang cùng đường. Cũng như tôi đã làm điều mà tôi pha i làm, nhưng đó mới là sự khởi đâ u. 170

Hướng về tương lai: Công trình của Bruno Gröning Khi được biết Bruno Gröning qua đời, hâ u hết mọi người cho rằng tâ t ca đã hết. Kẻ thù của Ông thở phào nhẹ nhõm. Cuối cùng những a o tưởng về Bruno Gröning cũng đi đến hồi kết thúc. Những người bạn của Ông râ t đau buồn. Cha ng lẽ người bạn và người giúp đỡ của họ đã mang theo tâ t ca năng lượng của mình xuống mồ? Những người lãnh đạm thì nhún vai. Thôi làm thế nào được. Chỉ một số ít người tiếp tục tụ tập lại với nhau để gìn giữ những kỷ niệm về Bruno Gröning. Nhưng sau đó một điều đã xẩy ra và cho đến ngày nay vẫn còn là một điều khó có thể tin nổi. Sự khỏi bệnh tiếp tục xẩy ra. Đâ u tiên trong phạm vi nhỏ, nhưng sau đó theo năm tháng phạm vi càng ngày càng lớn hơn. Trong khi đó ở khắp nơi trên thế giới nhiều phòng, hội trường chư a hàng trăm hàng nghìn người tìm kiếm sự giúp đỡ, muốn được chữa bệnh, các bác sỹ và những người quan tâm. Công trình của Bruno Gröning sống mãi và tiếp tục phát triển. Sự lành bệnh xẩy ra khắp mọi nơi. Các bác sỹ trong nhóm Khoa học Y học làm việc khắp nơi để thẩm tra và tư liệu dẫn chư ng cho các ca lành bệnh. Các giáo sư cự phách quốc tế tham gia nghiên cư u về con người kỳ lạ này và đã trở nên rõ ràng rằng những gì Bruno Gröning tiên đoán ở Herford đã trở thành hiện thực: Điều đó không dừng lại. Sự lành bệnh vẫn xẩy ra khắp mọi nơi trên toàn thế giới. Công trình của Bruno Gröning, cái mà Ông tự nhận đó là sư mệnh của cuộc đời mình, vì nó mà Ông sống và chịu đựng, vì nó mà Ông chết, có thể áp dụng cho mọi người không phân biệt tôn giáo, dân tộc, màu da, ngôn ngữ hoặc bâ t cư một sự khác biệt nào khác. Nó không ràng buộc bởi bâ t cư địa vị xã 171

hội hoặc nghĩa vụ về tài chính nào và nó chỉ có một nhiệm vụ: Giúp đỡ những người đang pha i chịu đau khổ. Bruno Gröning luôn coi nhiệm vụ của cuộc đời Ông là giúp đỡ tâ t ca mọi người trên Trái đâ t, kêu gọi họ trở về từ con đường đau khổ của họ và đưa họ trở lại với con đường của Thượng Đế. Và ngày nay Ông vẫn làm việc không biết mệt mỏi để hoàn thành sư mệnh này. Không dưới dung mạo con người mà Ông giúp chúng ta từ một thế giới khác. Không còn bị những kẻ hám tiền hoặc lệnh câ m chữa bệnh ca n trở, mà hoàn toàn tự do, Ông tiếp tục giúp đỡ và chữa bệnh. Một lâ n Ông nói: Bạn câ u và tôi thực hiện lời câ u đó. Và ở một nơi khác: Khi ở bâ t cư nơi nào trên Trái đâ t có một người câ u xin Thượng Đế giúp đỡ, thì nghĩa vụ của tôi pha i giúp đỡ. Nhưng Ông luôn nhâ n mạnh: Ai có vận may lâ y lại được sư c khỏe của mình qua tôi, hãy luôn ca m ơn Thượng Đế từ sâu thẳm trái tim mình. Tôi chỉ là công cụ và bâ y tôi trung thành của Thượng Đế. Và tại một nơi khác Ông nói: Tôi không là gì ca ; Thượng Đế tối cao mới là tâ t ca. Hãy đừng cám ơn tôi, mà hãy cám ơn Thượng Đế. Tôi không làm điều đó, mà là Thượng Đế. Vào tháng 11 năm 1958, trong một trong những bài nói chuyên cuối cùng ở Rosenheim Bruno Gröning đặc biệt nhâ n mạnh đến câu nói của tiến sỹ Erwin Gamber đã viết trong phâ n kết cho cuốn sách của mình Luzifers Griff nach den Lebendigen [Sự thu hút của Ma Vương đối với sự sống]: Ngày nay bom nguyên tử đã dạy cho chúng ta rằng, khi một pha n ư ng dây chuyền được xẩy ra, sự phá hủy 172

kinh hoàng có thể gây ra chỉ bởi một nguyên tử duy nhâ t. Nhưng đối với bâ t cư ai muốn hiểu rõ được nó, chỉ có ánh sáng sự thật và niềm hy vọng chân chính mới soi sáng một cách rực rỡ đằng sau tâ t ca những nỗi kinh hoàng. Một ngày nào đó Thượng Đế tối cao sẽ dựng nên thiên đường của Người tại đây trên trái đâ t. Khi â y hòa bình và công bằng thực sự sẽ ngự trị, và sự đau đớn, những thế lực tàn phá của những ai đã từng sinh ra đã là một kẻ giết người sẽ bị loại bỏ. Chỉ với một quan niệm đúng đắn như vậy chúng ta mới thực sự hiểu biết mọi vâ n đề. Ông â y hạnh phúc khi luôn có thể nói, như Albert Schweitzer: Ông đến với chúng ta như một người không quen biết, không tên, như trước đây Ông đến gặp những người nông dân bên bờ hồ, họ không biết Ông là ai. Ông nói với họ cũng với những câu: mi hãy theo ta, và giao cho chúng tôi những công việc mà ngày nay Ông muốn thực hiện. Ông ra lệnh. Và đối với những người tuân lệnh Ông, dù họ sáng suốt hay không, Ông cũng sẽ bộc lộ mình trong nỗi vâ t va, xung đột, đau khổ mà họ pha i tra i qua trong tình bạn của Ông, và, như một điều thâ n bí không gia i thích được, họ sẽ nhận ra được Ông là ai trong những tra i nghiệm của riêng mình. 173

Với tôi tất cả mọi người đều bình đẳng.