Show
Chiến thắng tiêu biểu của nhà Trần là:....................................................................................................... Các câu hỏi tương tự
Nêu những chiến thắng tiêu biểu trong Ba lần kháng chiến chống quân xâm lược Mông – Nguyên ? Các câu hỏi tương tự
Câu nào sau đây không nằm trong ý nghĩa của thắng lợi ba lần kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên Mông? * Thể hiện ý chí quyết chiến, quyết thắng của quân dân nhà Trần. Đập tan ý đồ xâm lược Đại Việt của quân Nguyên. Đập tan tham vọng và ý chí xâm lược của quân Nguyên Mông, bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ. Đưa nước ta trở thành nước hùng mạnh nhất thế giới. Ai là người có công lớn trong việc tổ chức cuộc kháng chiến lần thứ nhất chống quân xâm lược Mông Cổ? * Trần Quốc Tuấn. Trần Quang Khải. Trần Thủ Độ. Trần Thánh Tông. Thời Trần quân đội được tuyển theo chủ trương nào? * Quân phải đông, nước mới mạnh. Quân lính cốt tinh nhuệ, không cốt đông. Quân lính vừa đông, vừa tinh nhuệ. Quân đội phải văn võ song toàn. Vào thế kỉ XIII, ai là người cho quân đánh Cham-pa để làm bàn đạp tấn công Đại Việt? * Hốt Tất Liệt. Toa Đô. Ô Mã Nhi. Thoát Hoan. Thời Trần, bộ máy nhà nước được tổ chức theo chế độ? * Phong kiến phân quyền. Trung ương tập quyền. Quân chủ lập hiến. Vua nắm quyền tuyệt đối. Để phục hồi và phát triển kinh tế nhà Trần có những chủ trương, biện pháp gì? * Lập điền trang. Tích cực khai hoang, đắp đê, đào sông, nạo vét kênh, lập điền trang. Tích cực khai hoang. Bắt nhân dân lao dịch không công. Thời Lý : Chiến thắng tiêu biểu Thời gian Lãnh đạo Ý nghĩa Cuộc kháng chiến chỗng quân xâm lược Tống 1075-1077 Lý Thường Kiệt -Nhờ tinh thần đoàn kết với quyết tâm chiến đấu chống ngoại xâm. -Nhờ sự chuẩn bị 1 cách chu đáo của ta về mọi mặt -Nhờ sự chỉ huy tài tình của Lý Thường Kiệt Thời Trần : Chiến thắng tiêu biểu Thời gian Lãnh đạo Ý nghĩa Ba lần kháng chiến chống quân xâm lược Mông - Nguyên Lần thứ nhất : 1258 Lần thứ 2 : 1285 Lần thứ 3 : 1287 - 1288 Trần Quốc Tuấn A, Đối với đất nước - Đập tan hoan toan ý chí xâm lược và tham vọng của nhà Nguyên, bảo vệ độc lập toan vẹn lanh thổ của đất nước - Góp phần xây đắp lên truyền thống quân sự Việt Nam - Để lại bài học lịch sử quý giá : đoàn kết dân tộc và lấp dân làm gốc -Ngăn chặn cuộc xâm lăng của những kẻ mạnh sau này - Để lại bài học quý giá cho đời sau B, Đối với thế giới - Ngăn chặn cuộc xâm lược của quân Nguyên với Nhật Bản và các nước khác - Làm thất bại mưu đồ thôn tính miền đất còn lại ở châu Á của Hốt Tất Liệt Chiến tranh Nguyên Mông-Đại Việt lần thứ nhất hay Kháng chiến chống Nguyên Mông lần thứ nhất là cách người Việt Nam gọi cuốc chiến đấu của quân dân Đại Việt chống lại quân đội của đế quốc Mông Cổ do Uriyangqatai (Ngột Lương Hợp Thai) chỉ huy vào trong khoảng thời gian nửa tháng cuối tháng 1 năm 1258 (hay năm Nguyên Phong thứ 7). Cuộc chiến mở đầu với thất bại của quân Đại Việt trong trận Bình Lệ Nguyên, nhưng cuối cùng họ đã đại phá quân Nguyên trong trận Đông Bộ Đầu. Cuộc chiến này đã kết thúc với chiến thắng của nước Đại Việt, ghi dấu công lao của vua Trần Thái Tông trong việc lãnh đạo quân dân chiến đấu chống quân xâm lược. Chiến lược tổng thể
Đạo quân của Ngột Lương Hợp Thai không thật đông nếu nhìn về số lượng tuyệt đối, họ chỉ bằng 1/2 quân số nhà Trần. Tuy vậy, quân Mông Cổ, như đã được chứng minh qua quá trình tác chiến của mình, hầu như luôn thua sút về quân số so với đối phương của họ, ít nhất là theo tỷ lệ 1:2, tức là nhiều ra thì số quân nhân của họ cũng chỉ bằng nửa so với đối phương. Tuy ít hơn về số lượng song quân Mông Cổ có lợi thế là rất giỏi về kỵ binh, có tính cơ động hơn hẳn đối phương, cho phép họ nhanh chóng tập trung lực lượng đánh vào chỗ mỏng yếu của đối phương, hoặc sẽ rút lui nhanh nếu thấy bất lợi. Kỵ binh Mông Cổ cũng rất giỏi bắn cung trên lưng ngựa, họ có thể phi ngựa rồi bắn đối phương từ xa mà không sợ bị đánh trả. Vì vậy, có những trận đánh quân Mông Cổ chỉ đông bằng 1/4 đối phương mà vẫn chiến thắng như Trận sông Kalka, hoặc như Chiến tranh Mông-Kim, Mông Cổ chỉ có khoảng 12 vạn quân mà đã đánh bại quân đội gần 1 triệu người của nhà Kim. Vì vậy, các tướng Mông Cổ cho rằng với nước nhỏ như Đại Việt thì chỉ cần 5 vạn quân cũng là đủ để chinh phạt rồi. Một đặc điểm nữa của đạo quân này là trong thành phần lãnh đạo, nó quy tụ tới 50 chư vương của triều đình Mông Cổ và phò mã Mông Cổ tên là Quaidu. Đây là những sĩ quan có liên hệ huyết thống hoặc hôn nhân với gia đình thống trị của vương triều Mông Cổ. Nhà sử học cổ trung đại người Ba Tư là Rasid ud-Din chép:
Diễn biếnCuối tháng 9 năm 1257, chủ trại Quy Hóa là Hà Khuất báo tin có sứ Nguyên sang. Vua Trần không nghe lời dụ hàng, xuống chiếu ra lệnh đem quân thủy bộ ra ngăn giữ biên giới, theo sự tiết chế của Trần Quốc Tuấn và truyền cả nước sắm sửa vũ khí. Sau khi nhận được tin cấp báo, quân Mông Cổ đã vượt biên giới, vua Trần lập tức thân đem sáu quân đi chống giặc (Đế thân xuất lục sứ ngự khẩu) Quân Mông Cổ tiến vào Thăng LongQuân Mông Cổ tiến vào Đại Việt theo một đội hình cắt khúc và đều là bộ binh. Đội quân đi đầu được chia làm 2 cánh: một cánh tiến dọc sông Thao và một cánh tiến dọc sông Chảy. Cánh tiến theo hữu ngạn sông Thao do Triệu Ngột Lương chỉ huy. Mỗi cánh gồm 1000 người. Theo sau là quân của Hồ Lã Trừng. Đạo quân có khối lượng lớn nhất và tiến cuối cùng do Quỳ Hợp Thai chỉ huy. Quân Mông Cổ giáp trận quân Đại Việt do đích thân Trần Thái Tông (Trần Cảnh) chỉ huy tại Bình Lệ Nguyên (nay là huyện Bình Xuyên tỉnh Vĩnh Phúc). Đó là ngày 17 tháng 1 năm 1258. Quân đội nhà Trần bày trận bên bờ sông Hồng đợi giặc. Quân Mông Cổ là những người sang sông. Quỳ Hợp Thai dặn Quỳ Thủ Soạn và viên tiên phong là Triệu Ngột Lương:
Đó là một phương án tiến hành trận đánh nguy hiểm, với ý định làm đối phương vỡ trận, bị dồn ra bờ sông và bị kẹp chặt lại từ hai phía. Nhưng Triệu Ngột Lương vừa qua sông đã ập lại đánh ngay. Trần Thái Tông sai tượng binh tiến ra giao chiến. Con Quỳ Hợp Thai là A Truật (18 tuổi) cho kỵ binh bắn tên vào mắt voi, khiến voi hoảng sợ, quay lại dày xéo đội hình quân Trần. Quân Trần thất lợi nhưng chủ động rút lui. Trần Thái Tông và tướng Lê Tân lui tới sách Cụ Bản, gặp tướng Phạm Cự Chích đem viện binh tới cứu. Quân Mông Cổ giết được Phạm Cự Chích, nhưng vua Trần đã chạy thoát ra bến Lãnh Mỹ, rồi xuôi thuyền về Phù Lỗ. Không bắt được bộ chỉ huy nhà Trần, Quỳ Hợp Thai nổi giận. Triệu Ngột Lương uống thuốc độc tự sát. Ngay ngày hôm sau, ngày 18 tháng 1 năm 1258, hai bên chạm trán một lần nữa tại Phù Lỗ. Hai bên đối mặt nhau qua một con sông (sông Cà Lồ) mà bày trận, quân Mông Cổ vẫn là người qua sông phá trận. Quân Trần vẫn tiếp tục thất lợi, nhưng một lần nữa, họ lại chủ động rút lui. Tuy vậy, cả hai trận này đều là những trận đánh lớn và khốc liệt. Ở trận thứ nhất, Trần Thái Tông chỉ chịu rút sau khi nghe lời khuyên của Lê Tần. Vừa khi vua xuống thuyền thì quân Mông Cổ ở trên bờ bắn tên xuống tới tấp, Lê Tần phải lấy ván thuyền che cho vua và bảo vệ vua chạy thoát. Sau đó, quân Trần lại chủ động rút khỏi Thăng Long. Khi vua Thái Tông triệt binh về sông Thiên Mạc, Lê Tần đã thảo luận với ông về những chuyện cơ mật, không mấy người biết tới. Khi ấy, Thái Tông cũng ngự thuyền nhỏ tới thuyền của em là Thái úy Trần Nhật Hiệu để hỏi ý Nhật Hiệu về kiến về kế sách giữ nước. Nhật Hiệu ngồi dựa vào mạn thuyền, không thể nào đứng lên được và đưa ngón tay xuống chấm nước rồi ghi hai chữ "nhập Tống" trên mạn thuyền (tức là nên chạy sang lánh ở đất Nam Tống). Thái Tông bèn hỏi về tình hình của quân Tinh Cương dưới quyền Nhật Hiệu, thì Nhật Hiệu đáp lại: "Không gọi được chúng đến". Thế rồi, nhà vua lại ngự thuyền đến chỗ Thái sư Trần Thủ Độ. Khi nghe câu hỏi của nhà vua, Thủ Độ tâu:
Chiếm được kinh đô chỉ sau hai trận đánh, nhưng kho tàng trống rỗng là vấn đề lớn đối với đội quân xâm lược. Những cuộc cướp bóc để kiếm lương ở vùng ngoại vi và phụ cận không có nhiều kết quả, chẳng những thế, những đám quân đi ăn cướp tài sản này còn hay bị chặn đánh. Quân Trần phản côngNửa đêm ngày 28 tháng 1 năm 1258, từ nơi trú quân là Hoàng Giang, Trần Thái Tông cùng Thái tử Trần Thánh Tông ngự lâu thuyền ngược sông, bất ngờ đánh thẳng vào quân Mông Cổ. Quân Mông Cổ cho rằng lực lượng quân Trần đã kiệt quệ sau trận thua đầu nên rất chủ quan, do đó khi bị tập kích đã không kịp trở tay, bị thua to. Sau khi bị phá tan tại Đông Bộ Đầu, quân Mông Cổ không giữ nổi Thăng Long nữa. Họ đồng loạt tháo chạy thẳng về Vân Nam. Như khi mới tiến quân vào, quân Mông Cổ rút chạy theo dọc sông Thao, nhưng theo con đường bộ ở phía tả ngạn. Quân Mông rút lui quá nhanh, ngoài cả dự tính của nhà Trần khiến vua Trần chưa kịp bố trí lực lượng đón đánh. Tuy nhiên khi đến Quy Hóa (vùng Lào Cai, Yên Bái), quân Mông bị chủ trại là Hà Bổng – một thổ quan người Tày - tập kích kịch liệt. Trong số quân của Hà Bổng có những người Thái chạy từ nước Đại Lý vừa bị Mông Cổ diệt sang theo Đại Việt, muốn trả thù người Mông Cổ nên đã đánh rất hăng khiến quân Mông Cổ khốn đốn; chỉ vì số quân của Hà Bổng ít người nên thiệt hại của quân Mông Cổ không lớn. Trên đường rút về, do sợ bị quân Trần truy đuổi đằng sau, quân Mông Cổ cố rút nhanh và không cướp phá dân chúng, do đó người Việt mỉa mai gọi là "giặc Bụt". Sử liệu Trung Quốc thời Nguyên, Minh đã quy kết nguyên nhân thất bại của quân Mông Cổ cho thời tiết nóng nực của Đại Việt. Trong Nguyên văn loại, quyển 41, Kinh thế đại điển tự lục (bản Thương vụ ấn thư quán 1958, trang 563) chép rằng: "[Quân Mông Cổ] ở lại chín ngày, vì nóng nực, rút quân về". Còn Nguyên sử trong quyển 209, An Nam truyện cũng viết là "Quân ở lại chín ngày, vì khí hậu uất nhiệt bèn rút quân về". Thực tế, quân Mông Cổ đánh Đại Việt vào tháng 1, đúng vào lúc giữa mùa đông ở miền Bắc Việt Nam, do vậy không thể có chuyện "khí hậu nóng nực nên rút quân về" như Nguyên sử và Kinh thế đại điển tự lục chép được. Tuy nhiên, Ngột Lương Hợp Thai truyện của Nguyên sử và Kinh thế đại điển tự lục cũng phải thừa nhận rằng sau khi bỏ Thăng Long, người Mông Cổ đã lui về thành Áp Xích, trên đất của 37 bộ Quỷ Phương (Đại Lý), và điều này có nghĩa là Mông Cổ đã không đạt được mục tiêu là mượn đường Đại Việt để đánh vào lưng Nam Tống. Ngột Lương Hợp Thai truyện cũng cho biết, Uriyangqatai tháo chạy về Áp Xích, sau khi có lệnh của Mông Kha thì mới đi theo đường trại Hoành Sơn để tiến vào châu Ngạc của Tống và hội quân với Hốt Tất Liệt. Tổn thấtThiệt hại của quân Mông Cổ, tùy theo nguồn tài liệu mà chênh lệch từ già nửa cho tới khoảng 4 phần 5:
Nhận địnhCác tác giả của Nguyên sử, phần Hiến Tông bản kỷ, đã ghi nhận: "Mùa đông tháng 11, Ngột Lương Hợp Thai đánh vào Giao Chỉ, đi vào nước nó. Chúa An Nam là Trần Nhật Cảnh trốn vào hải đảo, [Mông Cổ] bèn rút quân về".Trong Đại Việt sử ký toàn thư, Kỷ nhà Trần, phần Thái Tông hoàng đế, có bình luận: "...lúc đó, người Nguyên mới lấy Vân Nam, du binh xâm lược đến, không có ý lấy nước ta."Đó có lẽ là nhận định dựa theo việc quân Đại Việt thắng Mông Cổ quá chóng vánh mà ra. Nhưng trên thực tế, chính Nguyên sử đã ghi: "Uriangqadai vào Giao Chỉ định kế lâu dài."Ngoài ra các sử gia trong đế quốc Mông Cổ như Rasid-ud Din và Lê Tắc (tác giả An Nam chí lược) cũng thừa nhận rằng Mông Kha muốn chiếm Đại Việt làm bàn đạp để đánh thọc vào châu Ung, châu Quế phía nam nước Tống. Quy mô đạo quân của Ngột Lương Hợp Thai có thể nói là không lớn, chỉ cỡ 4-5 vạn. Nhưng xét về hậu quả của thất bại đối với toàn thể chiến lược xâm lăng đất Tống theo bốn con đường cũng như sự thất bại quá chóng vánh, sử gia Hà Văn Tấn có nhận định rằng: "Có lẽ...trong đời chinh chiến của mình, chưa bao giờ Uriangqadai bị thua nhục nhã như lần này."Trần Xuân Sinh cho rằng: Ngột Lương Hợp Thai là tướng giỏi, khi thấy không giữ nổi Thăng Long đã rút sớm về Vân Nam để bảo toàn lực lượng là thượng sách. Chiến thắng của quân dân Đại Việt trong cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông lần thứ nhất đã ghi dấu công lao của vua Trần Thái Tông. Sau này vua Trần Nhân Tông đã ghi lại dư âm của chiến thắng năm 1258 trong niên hiệu Nguyên Phong bằng mấy câu thơ: Bạch đầu quân sĩ tạiVãng vãng thuyết Nguyên PhongDịch: Người lính già tóc bạcKể mãi chuyện Nguyên PhongCác tác giả phương Tây Peter D. Sharrock và Vũ Hồng Liên (người Anh gốc Việt) đã nhận xét về kết quả cuộc chiến năm 1258:
Tham khảo
(Nguồn: Wikipedia) |