HƯỚNG DẪN HỌC SINH GIỎI CÁCH HỌC VÀ LÀM BÀI THI MÔN ĐỊA LÍ LỚP 9 Ở TRƯỜNG THCSBạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (248.36 KB, 16 trang ) CHUYÊN ĐỀ: Như vậy, để trở thành HS giỏi nói chung và HS giỏi địa lí nói riêng, cần phải rèn luyện trên cả ba phương diện : kiến thức, kĩ năng địa lí và kĩ năng tư duy. A. MỘT SỐ YÊU CẦU TRONG HỌC TẬP ĐỐI VỚI HỌC SINH GIỎI ĐỊA LÍ 1. Kiến thức Kiến thức địa lí cấp THCS chủ yếu là địa lí Việt Nam bao gồm cả địa lí tự nhiên và kinh tế - xã hội. Chương trình địa lí THCS yêu cầu HS phải nắm vững một số kiến thức phổ thông, cơ bản, mang tính hệ thống. - Ngoài các kiến thức cơ bản trên, trong sách giáo khoa còn trình bày về các sự vật hiện tượng địa lí cụ thể, các biểu tượng địa lí,... Các kiến thức này đóng vai trò hoặc để cụ thể hoá các kiến thức cơ bản trên, hoặc là cơ sở để rút ra các kiến thức khái quát. Kiến thức địa lí phổ thông mà HS cần nắm, được chia thành 6 mức độ : - Biết: Ghi nhớ được các sự kiện, khái niệm, định nghĩa, hệ quả, thuật ngữ và các nguyên lí dưới hình thức được học. - Hiểu: Hiểu được kí hiệu, ý nghĩa và mối liên hệ trong khái niệm, định lí, hệ quả, công thức,... Có khả năng diễn giải, mô tả, tóm tắt thông tin đã thu được, không nhất thiết phải liên hệ tư liệu này với tư liệu khác. - Vận dụng: Sử dụng thông tin trong các tình huống khác với tình huống đã học; khái quát hoá, trừu tượng hoá những kiến thức đã biết. - Phân tích: Biết cách tách tổng thể thành các bộ phận và biết rõ sự liên hệ giữa các bộ phận đó với nhau trong cùng một cấu trúc. - Tổng hợp: Biết kết hợp các bộ phận thành một tổng thể mới từ tổng thể cũ. Cần có khả năng phân tích để đi đến tổng hợp. Ở đây bắt đầu thể hiện sự sáng tạo của cá nhân. - Đánh giá: Đòi hỏi có những hành động so sánh, phê phán, chọn lọc, quyết định trên cơ sở các tiêu chí và tính hợp lí. Cần có khả năng tổng hợp để đánh giá. 2. Kĩ năng địa lí a) Học Địa lí ở THCS, HS cần phải củng cố và phát triển các kĩ năng: 3 - Quan sát, nhận xét, phân tích, tổng hợp, so sánh, đánh giá các sự vật, hiện tượng địa lí; sử dụng bản đồ, biểu đồ, đồ thị, lát cắt, số liệu thống kê,... - Thu thập, xử lí, trình bày các thông tin địa lí. - Vận dụng kiến thức để giải thích các hiện tượng, sự vật địa lí và giải quyết một số vấn đề của cuộc sống, sản xuất gần gũi với HS trên cơ sở tư duy kinh tế, tư duy sinh thái, tư duy phê phán. b) Kĩ năng địa lí trong nhà trường THCS được chia ra 5 mức độ: - Bắt chước: Quan sát và cố gắng lặp lại một kĩ năng nào đó. - Thao tác: Hoàn thành một kĩ năng nào đó theo chỉ dẫn hơn là bắt chước máy móc. - Chuẩn hoá: Lặp lại một kĩ năng nào đó một cách chính xác, nhịp nhàng, đúng đắn và thường được thực hiện một cách độc lập, không phải hướng dẫn. - Phối hợp: Kết hợp nhiều kĩ năng theo một trật tự, một cách nhịp nhàng và ổn định. - Tự động hoá: Hoàn thành một hay nhiều kĩ năng một cách dễ dàng và trở thành tự động, không đòi hỏi một sự cố gắng về thể lực và trí tuệ. HS giỏi cần phải đạt được các mức độ 4 và 5 của kĩ năng. Nhờ vậy, các em mới có thể sử dụng các kĩ năng này để tự học, tự nghiên cứu, tìm ra những kiến thức cần nắm, hoặc vận dụng các kiến thức vào thực tế cuộc sống để giải quyết các vấn đề thực tế. - Các kĩ năng sẽ có được một cách vững chắc nhờ vào việc luyện tập thường xuyên và có kết quả trên cơ sở những hiểu biết cần thiết về kĩ năng. 3. Tư duy - Trong học tập hiện nay, tư duy cần có ở HS là tư duy lôgic bao gồm: Phân tích, tổng hợp, so sánh, trừu tượng hoá, khái quát hoá. Nếu sử dụng các thao tác tư duy này một cách linh hoạt, thì sẽ đưa đến các kết quả thích hợp. Do vậy trong quá trình học tập cũng như ôn luyện thi HS giỏi địa lí cần phải chú trọng rèn luyện các thao tác tư duy này. B. MỘT SỐ BIỆN PHÁP HỌC TẬP HIỆU QUẢ TRONG ÔN THI HSG MÔN ĐỊA LÍ. 1. Nhớ kiến thức một cách lôgic 4 Muốn có tư duy lôgic, phải có một hệ thống kiến thức nhất định. Một số nghiên cứu của các nhà khoa học sư phạm trên thế giới chỉ ra rằng, sở dĩ trong môn Địa lí, HS THCS hiện nay có tư duy không tốt là do thiếu những kiến thức cần thiết, trong đó đặc biệt là hệ thống khái niệm địa lí. Việc nắm vững một hệ thống kiến thức địa lí cơ bản làm cơ sở cho tư duy, sẽ tạo cơ sở cho việc nắm những kiến thức địa lí mới. Kiến thức mới lại tiếp tục làm cơ sở cho tư duy để nhận thức được những kiến thức khác mới hơn... Hiện nay, một số HS có quan niệm rằng chỉ cần có tư duy tốt là đủ để nắm được các kiến thức cần thiết, hay nói cách khác, chỉ cần thông minh là thi được HS giỏi địa lí. Đó là một quan niệm không đúng. Cần nhớ rằng mục tiêu của việc học tập là vừa có được những kiến thức cơ bản, vừa phát triển được năng lực tư duy, muốn tư duy phải có kiến thức, không có đủ kiến thức cần thiết, như nói ở trên, không thể có tư duy địa lí được. Chính vì vậy, học để nắm chắc kiến thức là việc làm hết sức quan trọng. Nắm chắc kiến thức có nghĩa là hiểu được, nhớ lâu bền kiến thức địa lí cần thiết và có thể vận dụng được vào các trường hợp cụ thể. Để nhớ lâu bền, cần phải có trí nhớ lôgic. Muốn ghi nhớ lôgic, trong quá trình ghi nhớ phải hiểu và vận dụng được các quy luật của trí nhớ. a) Trí nhớ là hoạt động phản xạ có điều kiện. Muốn lập được phản xạ có điều kiện, thông tin phải lặp đi lặp lại nhiều lần. Do vậy, trong ghi nhớ kiến thức, việc ôn tập thường xuyên tỏ ra hết sức cần thiết. Sau một số bài, sau một chương hoặc một số chương, cần phải ôn tập để tăng cường ghi nhớ. b) Nhớ lâu được dựa trên ấn tượng mạnh. Một kiến thức hay, một cách giải quyết vấn đề độc đáo, một lần bị sai lầm và nhận ra được,... là những ấn tượng khó quên, lưu lại lâu bền trong trí nhớ mỗi HS. Vì vậy, khi học bài địa lí, cần chú ý tạo ra các ấn tượng sâu về kiến thức. Các ấn tượng có thể bắt nguồn từ việc sử dụng phương tiện trực quan trong khi học bài (ví dụ khi học về các sự vật, hiện tượng địa lí nên sử dụng Atlát địa lí, hay bản đồ trong SGK, bản đồ treo tường; khi học về hình thái địa hình nên dựa vào lát cắt địa hình....), từ việc kết hợp nghe và nhìn (quan sát videoclip, băng hình địa lí...), từ việc làm (trao đổi, tranh luận với bạn; làm các bài thực hành, giải các bài tập địa lí...). Một kết quả nghiên cứu sư phạm đã chỉ ra: kiến thức được nhớ là nhờ 10% qua đọc, 20% qua nghe, 30% qua nhìn, 50% qua nghe và nhìn, 80% qua nói và 90% qua làm. Vì vậy, để tăng cường ghi nhớ, nên chọn các biện pháp học tập đề cao vai trò của trao đổi, 5 thảo luận, thực hành, hoặc kết hợp nghe và nhìn, hỏi thầy và bạn về những điều chưa rõ... c) Nhớ lâu bắt nguồn từ hứng thú học tập: Nếu một HS đam mê với việc giải thích các hiện tượng địa lí, HS đó sẽ nhớ về các mối liên hệ nhân quả tốt hơn; nếu thích thú với các hiện tượng địa lí diễn ra xung quanh môi trường sống, HS đó quan tâm nhiều hơn đến việc quan sát thực tế và vận dụng kiến thức địa lí vào giải quyết những vấn đề đó... Như vậy, hứng thú có thể ví như một chất men kích thích việc học tập. Hứng thú học tập phải được tạo ra bằng thái độ, động lực học tập (ví dụ học giỏi để thi đạt kết quả cao) và được nuôi dưỡng suốt trong quá trình học tập. Mỗi khi gặp khó khăn, phải tìm cách giải quyết thích hợp để đạt được nguyện vọng chính đáng đã xác định ban đầu của bản thân. d) Kiến thức mới được ghi nhớ trong mối quan hệ với kiến thức đã có. Những kiến thức đã có làm cơ sở cho việc ghi nhớ các kiến thức mới cùng loại. Do đó, khi học kiến thức mới cần phải liên hệ với kiến thức đã có. Đồng thời, khi có được một kiến thức mới, cần phải xếp chúng vào hệ thống các kiến thức đã có một cách hợp lí. e) Ghi nhớ phải có tính hợp lí: đi từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp. Do vậy, trong quá trình học tập và luyện tập cần chú ý thực hiện những nhiệm vụ từ dễ đến khó. g) Tập trung chú ý sẽ làm tăng cường trí nhớ: Thường não bộ không tiếp thu thông tin hai loại cùng một lúc. Do vậy, khi học, phải tập trung tối đa vào việc học (nghe giảng, họăc trao đổi thảo luận về nội dung học tập, giải bài tập...). Học xong, mới tập trung vào việc khác. g) Những thông tin sau cản trở, góp phần xoá đi những thông tin trước cùng loại và liên tục. Đó là quy luật về ức chế tương đồng của trí nhớ. Do vậy, nếu vừa nghe giảng xong trên lớp, về nhà học bài ngay, không tốt bằng để sau 5 - 6 tiếng đồng hồ mới học lại bài trên lớp. Tuy nhiên, nếu khoảng thời gian đó để quá lâu (sau 11 - 12 tiếng đồng hồ chẳng hạn), sự ghi nhớ sẽ bị suy giảm rất nhiều. h) Thông tin đơn giản dễ nhớ hơn thông tin phức tạp: Vận dụng quy luật này của trí nhớ, trong học tập cần xác định các kiến thức cơ bản, hoặc các đề mục một cách gọn rõ để dễ nhớ. i) Khả năng não bộ trong ghi nhớ không phải là vô hạn: Trong học tập, cần biết chọn nhớ những thông tin có ích, biết quên đi những thông tin 6 không cần thiết. Việc xác định những kiến thức cơ bản cần thiết khi học địa lí là việc làm cần thiết đối với mỗi HS giỏi. Có thể chỉ cần nhớ những kiến thức "chìa khoá", khi cần sẽ sử dụng nó để phát triển đến những kiến thức khác. 2. Rèn luyện kĩ năng tư duy Tư duy được biểu hiện bằng các thao tác tư duy (phân tích, tổng hợp, so sánh, trừu tượng hoá, khái quát hoá). Để đánh giá một người có tư duy tốt hay không tốt thường dựa vào việc đánh giá khả năng của các thao tác tư duy. Do vậy, rèn luyện kĩ năng tư duy, chính là rèn luyện việc sử dụng các thao tác tư duy. a) Việc rèn luyện tư duy một cách thông dụng nhất trong thực tế học tập là dựa vào việc tự trả lời các câu hỏi: Ứng với mỗi thao tác tư duy có một loại câu hỏi tương ứng để tập trung rèn luyện thao tác tư duy đó. Trong ôn thi HSG địa lí hiện nay, HS nên rèn luyện kĩ năng tư duy theo các loại câu hỏi sau : + Câu hỏi phân tích: nhằm gợi ý HS tách riêng từng phần của sự vật và hiện tượng địa lí, hoặc các thành phần của mối liên hệ. Ví dụ: Phân tích những điều kiện để Đồng bằng sông Cửu Long thành vùng lương thực, thực phẩm hàng đầu của cả nước. Phân tích sự thay đổi về mối tương quan giữa xuất khẩu và nhập khẩu ở nước ta từ năm 1980 đến nay. + Câu hỏi tổng hợp: nhằm làm cho HS xác lập được tính thống nhất và mối liên hệ giữa các thuộc tính của các sự vật, bộ phận hay dấu hiệu của chúng. Câu hỏi tổng hợp không phải là tổng cộng đơn thuần các bộ phận của sự vật địa lí. Sự tổng hợp đúng sẽ là một hoạt động tư duy mang lại kết quả mới nhất về chất. Ví dụ: Chứng minh rằng nền công nghiệp nước ta có cơ cấu ngành khá đa dạng. Vị trí địa lí nước ta có những tác động như thế nào đến tự nhiên và phát triển kinh tế - xã hội? 7 Chứng minh rằng, việc xây dựng các công trình thuỷ lợi có ý nghĩa hàng đầu để sử dụng hợp lí tài nguyên nông nghiệp của vùng Đông Nam Bộ. Chứng minh rằng Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh là hai trung tâm công nghiệp lớn nhất nước. Phân tích và tổng hợp là hai thao tác tư duy có liên hệ mật thiết với nhau, không thể tách rời nhau khi hình thành khái niệm. Những dấu hiệu bản chất của hiện tượng được phát hiện bằng cách phân tích hiện tượng đang nghiên cứu. Đạt tới bản chất của hiện tượng trong sự hoàn chỉnh và thống nhất là sản phẩm của tổng hợp. Do vậy câu hỏi phân tích và tổng hợp luôn luôn đi kèm với nhau, có quan hệ chặt chẽ với nhau, đôi lúc trong loại câu hỏi này có thành phần của loại câu hỏi kia tham gia. + Câu hỏi so sánh, liên hệ: nhằm liên hệ các sự vật và hiện tượng địa lí lại với nhau trong các mối quan hệ địa lí có thể có và thiết lập sự giống nhau, khác nhau giữa chúng. Ví dụ: Hai trung tâm công nghiệp lớn Hà Nội và TP Hồ Chí Minh có những điểm giống nhau như thế nào về cơ cấu ngành? Nêu những điểm giống nhau và khác nhau về hai vùng trọng điểm sản xuất lương thực, thực phẩm lớn nhất nước ta. Khi đặt câu hỏi so sánh, những đối tượng so sánh có thể có những nét tương đồng hay trái ngược nhau. + Câu hỏi nguyên nhân - kết quả: là loại câu hỏi nêu lên mối liên hệ nhân quả, một trong những dạng liên hệ có tính chất phổ biến trong bài địa lí. Ví dụ : Tại sao trong mùa hè ở nước ta vẫn phát triển được các sản phẩm nông nghiệp cận nhiệt và ôn đới? Tại sao ngành công nghiệp chế biến lương thực, thực phẩm trở thành ngành công nghiệp trọng điểm của nước ta? + Câu hỏi khái quát hóa: là loại câu hỏi dùng để khái quát hóa các kiến thức cụ thể, nêu lên cái chính, cái căn bản, cái "chung", thường dùng vào cuối chương hay tổng quát cuối bài. Ví dụ: 8 Hãy nêu các thế mạnh của vùng Đông Nam Bộ trong việc phát triển tổng hợp các ngành kinh tế? Tại sao ở Duyên hải miền Trung có khả năng kết hợp cơ cấu kinh tế nông - lâm ngư? b) Khi đã có các kĩ năng tư duy tốt, HS sẽ có điều kiện vận dụng chúng một cách linh hoạt để trả lời các câu hỏi thi: Nên nhớ, câu hỏi thi địa lí không phải được nêu ra dưới dạng phân tích, tổng hợp hay trừu tượng hoá, khái quát hoá... đòi hỏi chỉ sử dụng một thao tác tư duy tương ứng. Câu hỏi thi buộc phải sử dụng nhiều thao tác tư duy một cách tổng hợp trên cơ sở vận dụng các tri thức địa lí đã có ở mỗi HS. Ví dụ: Dựa vào Atlát Địa lí Việt Nam, hãy so sánh hai vùng chuyên canh cây công nghiệp Đông Nam Bộ và Trung du - miền núi phía Bắc (Đề thi năm 2006); Dựa vào Atlát hãy trình bày và giải thích tình hình phân bố dân cư ở nước ta (Đề thi năm 2012) Dựa vào Atlát Địa lí Việt Nam và kiến thức đã học, hãy phân tích sự phân hóa đa dạng của địa hình đồi núi nước ta. Độ cao đồi núi nước ta đã ảnh hưởng đến sự phân hóa khí hậu như thế nào? (Đề thi năm 2008) 3. Rèn luyện kĩ năng địa lí Có rất nhiều kĩ năng địa lí mà các giáo viên dạy đội tuyển cần bồi dưỡng cho HSG, tuy nhiên trong khuôn khổ đề tài này tôi xin phép chỉ tập trung vào ba kĩ năng được cho là khó đối với các em học sinh: a) Kĩ năng làm việc với Át lát địa lí Việt Nam: - Câu hỏi yêu cầu sử dụng Atlát Địa lí Việt Nam trở thành phổ biến trong tất cả các đề thi HS giỏi từ trước đến nay. Để khai thác kiến thức từ Atlát, yêu cầu HS phải sử dụng tổng hợp cả kiến thức và kĩ năng địa lí, đồng thời phải sử dụng kĩ năng tư duy, trong nhiều trường hợp còn cần đến óc sáng tạo. Do vậy, trong nhiều đề thi HS giỏi có đến 2 câu hỏi yêu cầu làm việc với Atlát Địa lí Việt Nam. - Thông thường câu hỏi gắn với Atlát có dạng "Dựa vào Atlát Địa lí Việt Nam và kiến thức đã học....". Ví dụ: + Dựa vào Át lát địa lí Việt Nam và kiến thức đã học hãy: 9 a. Nhận xét sự phân bố dân cư ở nước ta. b. Chứng minh các dân tộc ít người ở trung du miền núi Bắc Bộ vừa phân bố theo khu vực, vừa phân bố theo độ cao? + Dựa vào Át lát địa lí Việt Nam và kiến thức đã học hãy: a. Kể tên các ngành công nghiệp trọng điểm ở nước ta. b. Chứng minh công nghiệp điện ở nước ta là ngành công nghiệp trọng điểm. c. Sự khác biệt giữa nguồn nhiên liệu sản xuất nhiệt điện ở miền Bắc và miền Nam là gì? Với những câu hỏi kiểu này, nhiều thí sinh chỉ dựa vào một trong hai cơ sở trên (hoặc là riêng Atlát, hoặc riêng kiến thức đã học) để làm bài. Việc làm đó không cho phép trình bày kiến thức một cách đầy đủ. Nếu chỉ dựa vào kiến thức đã học, nhiều kiến thức từ Atlát bị bỏ sót, đặc biệt là các kiến thức về sự phân bố cụ thể, mối quan hệ về mặt không gian lãnh thổ của các sự vật, hiện tượng địa lí.... Nhưng nếu chỉ dựa vào Atlát địa lí, nhiều kiến thức như tình hình phát triển, nguyên nhân phát triển, về đường lối, chính sách, kinh nghiệm và truyền thống sản xuất của dân cư... không được đề cập đến một cách đầy đủ và hợp lí. Kinh nghiệm ôn luyện HS giỏi cho thấy, trong những trường hợp như vậy phải chú ý phân biệt các loại kiến thức có thể khai thác từ Atlát địa lí, các loại kiến thức không thể hoặc rất khó thể hiện rõ trên Atlát, phải khai thác từ vốn kiến thức đã có của bản thân. Trong mỗi ý trình bày của bài làm, cần kết hợp hai loại kiến thức này với nhau một cách thích hợp. - Để khai thác các kiến thức địa lí theo những chủ điểm trên, cần lưu ý kĩ thuật sử dụng các trang của Atlát Địa lí Việt Nam: + Sử dụng trang mở đầu của Atlát Địa lí Việt Nam: HS cần hiểu được ý nghĩa, cấu trúc, đặc điểm của Atlat; nắm chắc kí hiệu chung ở trang mở đầu. + Sử dụng các trang bản đồ của Atlat Địa lí Việt Nam: Làm việc với các trang của Atlát, HS phải xác định được vị trí địa lí, giới hạn của lãnh thổ, vùng kinh tế; nêu đặc điểm của các đối tượng địa lí (đất, khí hậu, nguồn nước, khoáng sản, dân cư, dân tộc); trình bày sự phân bố các đối tượng địa lí, như: khoáng sản, đất đai, địa hình, dân cư, trung tâm công nghiệp, mạng lưới giao thông, đô thị,...; giải thích sự phân bố các đối tượng địa lí; phân tích mối quan hệ giữa các đối tượng địa lí, phân tích mối quan hệ giữa các yếu tố tự nhiên với nhau (khí hậu và sông ngòi, đất và 10 sinh vật, cấu trúc địa chất và địa hình,...), giữa các yếu tố tự nhiên và kinh tế, dân cư và kinh tế, kinh tế và kinh tế, tự nhiên - dân cư và kinh tế,... đánh giá các nguồn lực phát triển ngành và vùng kinh tế; trình bày tiềm năng, hiện trạng và hướng phát triển của một ngành, lãnh thổ; phân tích mối quan hệ giữa các ngành và các lãnh thổ kinh tế với nhau; so sánh các vùng kinh tế về các mặt; trình bày tổng hợp các đặc điểm của một lãnh thổ. - Dàn ý của mỗi thành phần, yếu tố, hay miền, vùng địa lí trên là cơ sở để ôn luyện kiến thức địa lí thi HS giỏi gắn với việc sử dụng Atlát để tránh bỏ sót ý. Trong khi làm bài, tuỳ theo yêu cầu của câu hỏi, xác định các kiến thức nào cần khai thác, kiến thức nào không cần trình bày hoặc không cần đi sâu phân tích vì không phải là trọng tâm của đề bài. - Làm việc với Atlát Địa lí Việt Nam, cũng cần chú ý đến việc phân tích các lát cắt, biểu đồ, số liệu... trong các trang Atlát. Đó là các thành phần bổ trợ làm rõ nội dung trang Atlát, hoặc bổ sung cho nội dung tờ bản đồ mà Atlát không thể trình bày rõ được. Ví dụ, ở trang bản đồ Nông nghiệp, khi trình bày về cây công nghiệp, tờ bản đồ chỉ thể hiện được các cây công nghiệp, các vùng chuyên canh cây công nghiệp. Muốn hiểu được tỉ lệ diện tích gieo trồng cây công nghiệp so với tổng diện tích gieo trồng đã sử dụng và diện tích trồng cây công nghiệp thì phải sử dụng các số liệu được trình bày kèm theo trang bản đồ. Hoặc, trên tờ bản đồ Các miền tự nhiên, để biết được một cách trực quan và cụ thể hướng nghiêng và hình thái địa hình miền Tây Bắc và Bắc Trung Bộ, miền Bắc và Đông Bắc Bắc Bộ, ngoài quan sát trên bản đồ, còn phải đi sâu phân tích hai lát cắt địa hình được trình bày kèm theo tờ bản đồ. Rèn luyện được kĩ năng đọc Atlát một cách hoàn thiện, HS có nhiều khả năng đạt kết quả cao trong các kì thi HS giỏi hiện nay. b) Kĩ năng phân tích và nhận xét bảng số liệu thống kê : - Trong đề thi HS giỏi câu hỏi yêu cầu phân tích số liệu thường xuất hiện nhiều, do tính chất khó của loại sâu hỏi này. Đồng thời loại câu hỏi này còn cho phép đánh giá được mức độ am hiểu, vận dụng kiến thức của HS vào các trường hợp cụ thể, đánh giá được kĩ năng chọn lọc, xác định kiến thức địa lí. Thông thường loại câu hỏi này yêu cầu HS phân tích bảng số liệu (nghĩa là đọc bảng số liệu) để rút ra các nhận xét cần thiết. - Đọc bảng số liệu về bản chất là phân tích, so sánh các số liệu theo hàng ngang và cột dọc, rút ra các nhận xét cần thiết. HS cần phải nắm vững tên bảng, các tiêu đề của bảng, đơn vị tính, yêu cầu cụ thể của bài 11 tập, hiểu rõ các tiêu chí cần nhận xét (ví dụ: để nhận xét về một loại cây trồng, người ta thường quan tâm đến sản lượng, cơ cấu, năng suất; để nhận xét về đô thị, thường quan tâm đến chức năng, quy mô, phân cấp, sự phân bố,...). Việc phân tích nhìn chung không phức tạp, nhưng HS thường phạm lỗi phân tích thiếu, hoặc nêu không đầy đủ các nhận xét cần thiết. Để tránh trường hợp này, cần lưu ý so sánh các số liệu theo cột dọc và hàng ngang với một trình tự hợp lí. Chú ý so sánh các mốc thời gian đầu và cuối của bảng, các mốc thời gian liền kề nhau theo thứ tự, các mốc có tính đột biến. Đối với các lãnh thổ, cần lưu ý so sánh các lãnh thổ lớn với nhau, nhỏ với nhau, lớn với nhỏ và ngược lại,... Trong một số trường hợp cần thiết, cần phải tính toán bảng số liệu trước khi nhận xét. - Một cách chung nhất, khi phân tích số liệu, để khỏi bị sót ý, cần lưu ý một số điểm sau: + Phân tích câu hỏi, làm rõ yêu cầu và phạm vi cần phân tích, nhận xét, phát hiện những yêu cầu chủ đạo để tập trung làm rõ. Nếu không xác định được yêu cầu chủ đạo, dễ bị lạc đề. + Tái hiện các kiến thức cơ bản đã học có liên quan đến yêu cầu của câu hỏi và đến các số liệu đã cho để xác định các tiêu chí phù hợp với yêu cầu của bảng số liệu, phác thảo dàn ý trình bày. - Việc phân tích và nhận xét bảng số liệu, thông thường được tiến hành như sau : + Phát hiện các mối liên hệ giữa số liệu theo cột dọc và hàng ngang, chú ý đến các giá trị nổi bật như giá trị lớn nhất, nhỏ nhất, giá trị trung bình, những điểm đột biến (tăng, giảm đột ngột). Chú ý so sánh, đối chiếu cả giá trị tuyệt đối lẫn tương đối. + Chú ý phân tích khái quát trước, sau đó mới đi sâu vào các thành phần (hoặc yếu tố) cụ thể. + Khi nhận xét nên theo trình tự từ khái quát đến cụ thể, từ chung đến riêng, từ cao xuống thấp,... bám sát các yêu cầu của câu hỏi và kết quả xử lí số liệu. Mỗi nhận xét cần có dẫn chứng cụ thể để tăng sức thuyết phục. c) Kĩ năng vẽ biểu đồ từ bảng số liệu đã cho và rút ra các nhận xét cần thiết : 12 - Dựa vào chức năng thể hiện của biểu đồ, có thể chia ra các loại biểu đồ thể hiện quy mô, biểu đồ thể hiện sự phát triển, biểu đồ thể hiện cơ cấu, biểu đồ thể hiện sự chuyển dịch cơ cấu, biểu đồ kết hợp. Dựa theo hình dáng của biểu đồ, lại có thể chia ra biểu đồ cột (cột đơn, cột ghép, cột chồng, thanh ngang,...), biểu đồ đường (một đường, nhiều đường, ...), biểu đồ kết hợp cột và đường, biểu đồ tròn, biểu đồ vuông, biểu đồ miền. Đề thi HS giỏi chủ yếu nhằm vào các dạng phức tạp (thường là biểu đồ kết hợp, hoặc biểu đồ biến đổi từ dạng cơ bản). Do được rèn luyện nhiều với các dạng biểu đồ, nên HS giỏi địa lí ít khi bỡ ngỡ với việc vẽ biểu đồ. - Nhiệm vụ đề ra là vẽ biểu đồ, nhưng không nêu rõ vẽ loại nào. Trong trường hợp này cần lưu ý đến chức năng của các loại biểu đồ. Thông thường, biểu đồ tròn, cột chồng, miền có ưu thế trong thể hiện cơ cấu; biểu đồ đường có ưu thế trong thể hiện tốc độ phát triển của sự vật và hiện tượng địa lí; biểu đồ cột thể hiện quy mô, độ lớn,.. của sự vật. Đồng thời, cũng cần lưu ý mối liên quan về bản chất giữa các loại biểu đồ với nhau. Chẳng hạn, biểu đồ miền thực chất là biểu đồ cột chồng nối tiếp, khi thu nhỏ các cột đến tối đa thì biểu đồ cột chồng thành biểu đồ miền; hoặc biểu đồ vuông và tròn về bản chất không khác nhau; biểu đồ đường kết hợp với cột về thực chất là hai biểu đồ cột có các đại lượng (thời gian/lãnh thổ) chung nhau trên trục hoành; biểu đồ cột thể hiện hai đại lượng khác nhau thực chất là hai biểu đồ cột có chung tiêu chí trên trục hoành, khác nhau đại lượng theo hai trục tung (ví dụ biểu đồ thể hiện nhiệt độ và lượng mưa trong năm); biểu đồ thanh ngang chính là biểu đồ đường; tháp tuổi thực chất là các biểu đồ thanh ngang (biểu đồ cột) kết hợp với nhau,...Vì vậy, đối với bảng số liệu thích hợp cho vẽ biểu đồ tròn thì cũng có khả năng thích hợp cho vẽ biểu đồ cột chồng và biểu đồ miền. C. HƯỚNG DẪN CÁCH LÀM BÀI THI HỌC SINH GIỎI MÔN ĐỊA LÍ 1. Do yêu cầu về tính sáng tạo cao, nên đề thi HS giỏi môn Địa lí không theo một khuôn mẫu nào nhất định về dạng đề, cách làm bài theo từng dạng. Tuy nhiên, thống kê các dạng câu hỏi trong đề thi HS giỏi từ năm 2004 đến năm 2014 tôi thấy có một số dạng sau xuất hiện: - Trình bày về đối tượng địa lí - Giải thích ngắn gọn một số kiến thức địa lí 13 - So sánh các đối tượng địa lí với nhau - Làm việc với bảng số liệu (nhận xét, nhận xét và giải thích, phân tích, giải thích, trình bày và giải thích, xác định loại biểu đồ thích hợp, vẽ biểu đồ và nhận xét,). - Làm việc với với Atlát Địa lí Việt Nam (so sánh, phân tích, giải thích, trình bày). - Tính toán (áp dụng hoặc biến đổi công thức có sẵn). Nhìn chung, quan sát các dạng đề thi trên có thể thấy được yêu cầu chủ yếu của đề thi HS giỏi là: HS phải có kĩ năng địa lí thành thạo để tìm tòi, khám phá tri thức địa lí tiềm ẩn trong các dạng kênh hình khác nhau (chủ yếu là Atlat Địa lí Việt Nam, bảng số liệu thống kê, biểu đồ), trên cơ sở nắm chắc, hiểu sâu kiến thức địa lí cơ bản và có tư duy sáng tạo. Ngoài ra, đề thi còn yêu cầu phân tích các mối liên hệ nhân quả, tính toán, vẽ, đánh giá... Như vậy, việc chuẩn bị cho thi HS giỏi là một quá trình lâu dài và công phu về cả kiến thức, kĩ năng địa lí và kĩ năng tư duy. 2. Vì việc nắm kiến thức cơ bản là nền tảng vững chắc cho tư duy và cơ sở cho thăng hoa sáng tạo nên, trong quá trình làm bài thi HS giỏi với yêu cầu sáng tạo cao, HS giỏi nên đọc kĩ đề bài, phân tích rõ câu hỏi, xác định đúng trọng tâm yêu cầu của câu hỏi, lựa chọn và huy động các kiến thức cơ bản và kĩ năng cần thiết cho việc giải các câu hỏi. Kinh nghiệm thực tế cho thấy rằng, dù cho câu hỏi có thể phức tạp đến chừng nào cũng có thể liên hệ được với các kiến thức cơ bản, có tính chất "gốc" của nội dung cần hỏi. Có thể quan niệm kiến thức "gốc" là các kiến thức cơ bản liên quan trực tiếp đến nội dung cần giải quyết do câu hỏi yêu cầu. Những kiến thức này có tính cơ bản, ổn định, làm nền tảng cho các hướng phát triển kiến thức. Mỗi câu hỏi khó trong đề thi HS giỏi có thể được xem như là một sự phát triển cao hơn về một khía cạnh của kiến thức cơ bản. Do vậy, khi gặp những câu hỏi như vậy, nên quy về kiến thức cơ bản, từ đó tìm kiếm các phương án giải quyết thích hợp. Khi đã quy về được nội dung "gốc" của vấn đề, HS giỏi có thể bắt đầu từ đó để xác định những kiến thức cần thiết phục vụ cho việc trả lời câu hỏi đặt ra. 3. Trong quá trình làm bài thi, cần chú ý phân bổ thời gian hợp lí, tránh dồn hết thời gian cho câu khó (có thể vượt sức mình), không có kết quả, trong khi những câu hỏi vừa sức hơn không có thời gian giải. Kinh nghiệm của nhiều HS giỏi đạt giải cao cho thấy, trước hết nên ưu tiên giải những 14 câu hỏi mà khả năng mình có thể thực hiện được thuận lợi. Những câu hỏi khó hơn để sau. 4. Phác thảo đề cương cho mỗi câu hỏi: Việc phác thảo đề cương giúp cho HS giỏi khỏi bỏ sót các ý trong bài làm và phân bổ thời gian hợp lí cho từng câu hỏi. Trong khi lập đề cương, việc phác thảo ra các ý tưởng về cách giải, địa chỉ của các kiến thức "gốc" liên quan đến câu hỏi cần được lưu ý ghi rõ. Kinh nghiệm thực tế cho thấy, HS giỏi cần căn cứ vào yêu cầu của câu hỏi để nhanh chóng phác thảo các ý chính cần phải trả lời, giữa chúng nên có những khoảng trống để ghi các ý nhỏ và có thể ghi thêm những ý bổ sung cần thiết chợt nghĩ ra trong khi làm bài. 5. Trong quá trình làm bài trên giấy thi, cần làm rõ các ý lớn và nhỏ theo như đề cương chi tiết. Có thể dùng cách đánh số thứ tự và gạch đầu dòng, dấu cộng theo các ý khác nhau để bài làm được mạch lạc. Cũng cần chú ý diễn đạt bài thi bằng các câu văn ngắn gọn, súc tích, dễ hiểu, tránh trình bày dài dòng, rườm rà, dùng văn nói thay cho văn viết trong bài thi. Phải chú ý tránh phạm những lỗi sơ đẳng về chính tả, ngữ pháp. Sau khi hoàn thành bài thi, HS nên giành 2-3 phút để kiểm tra lại nội dung bài làm của mình để khắc phục những sai sót trong quá trình viết bài trước khi nộp bài cho giám thị. Chất lượng giáo dục có vai trò quan trọng vì nó phản ánh trình độ dân trí, hiểu biết của người dân một nước, là nền tảng cho chiến lược phát triển con người. Vì vậy việc nâng cao chất lượng học tập lớp chuyên địa và đội tuyển học sinh giỏi là rất cần thiết, nó góp phần quan trọng trong việc trang bị kiến thức chắc chắn cho các em, tạo cho các em sự tự tin vững chắc bước tiếp con đường học vấn và tích lũy kĩ năng sống, có bản lĩnh, có trình độ, có đạo đức, có kiến thức để tham gia lao động sáng tạo đạt hiệu quả cao nhất về sau. Do phương pháp này có rất nhiều ưu điểm nên tôi và các đồng nghiệp của mình đã và đang từng bước áp dụng chuyên đề này vào thực tế giảng dạy, nhằm nâng cao chất lượng dạy và học đội tuyển học sinh giỏi bộ môn Địa lí tại 15 trường THCS Liên Bảo. Hy vọng với việc sử dụng các phương pháp này một cách tích cực chúng tôi sẽ đạt được nhiều kết quả tốt hơn trong công tác bồi dưỡng học sinh giỏi ở những năm tiếp theo. Do đề tài được thực hiện trong một thời gian ngắn và kinh nghiệm giảng dạy của bản thân tôi còn chưa nhiều, tôi rất mong nhận được ý kiến tham gia đóng góp của các bạn đồng nghiệp để chúng ta cùng nhau tìm ra được các giải pháp tốt nhất cho công tác bồi dưỡng HSG đạt được kết quả cao. Tôi xin chân thành cảm ơn các bạn đồng nghiệp đã chú ý lắng nghe. 16 |