Công tố viên và cảnh sát khác nhau thế nào năm 2024

Tổng quan vị trí, chức năng của Viện công tố/Viện kiểm sát một số quốc gia khu vực Châu Á-Thái Bình Dương

Tổng quan vị trí, chức năng của Viện công tố/Viện kiểm sát một số quốc gia khu vực Châu Á-Thái Bình Dương

Ths. Hoàng Thị Hoa – Phó Trưởng khoa QHQT, Trường Đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ kiểm sát tại TP. HCM

  1. Viện Công tố Nhật Bản

Theo quy định của Hiến pháp, Viện công tố Nhật Bản là cơ quan thuộc nhánh quyền hành pháp. Toàn bộ hệ thống cơ quan Công tố và các Công tố viên nằm dưới sự chỉ đạo, giám sát chung về mặt quản lý hành chính nhà nước của Bộ trưởng Bộ Tư pháp. Song trong thực tế thì Viện công tố có ảnh hưởng rất lớn trong Bộ Tư pháp Nhật Bản, Tổng trưởng công tố, người đứng đầu hệ thống công tố là người lãnh đạo, điều hành toàn bộ hệ thống công tố. Vai trò của Bộ trưởng bộ Tư pháp chỉ mang tính hình thức vì Bộ trưởng bộ Tư pháp là người đứng đầu ngành Tư pháp nhưng không có quyền can thiệp vào hoạt động công tố và từng vụ án cụ thể. Trong công việc, các Công tố viên hoàn toàn độc lập và chỉ phải chịu trách nhiệm trực tiếp với cơ quan Công tố cấp trên của mình. Một điều rất đáng chú ý là các vị trí then chốt trong Bộ Tư pháp hầu như do các Công tố viên nắm giữ. Điều đó cho thấy Công tố viên có vai trò rất lớn trong Bộ Tư pháp Nhật Bản. Hệ thống tổ chức của Viện Công tố Nhật bản được tổ chức tương ứng với hệ thống Tòa án và được chia thành 4 cấp gồm Viện công tố trung ương (tối cao), Viện công tố cấp cao, Viện công tố cấp quận và Viện công tố địa phương (khu vực). Các chức danh tư pháp trong Viện công tố Nhật Bản gồm: Tổng trưởng công tố, Phó Tổng trưởng công tố, Công tố viên và trợ lý Công tố viên. Tổng trưởng công tố là người đứng đầu Viện công tố trung ương có nhiệm vụ điều hành công việc, kiểm tra, giám sát cán bộ trong Viện công tố trung ương và hệ thống công tố cấp dưới. Phó Tổng trưởng Công tố chịu trách nhiệm trước Tổng trưởng Công tố, giúp việc cho Tổng trưởng công tố. Công tố viên được phân công công tác tại Viện công tố trung ương, Viện công tố cấp cao hoặc Viện công tố cấp quận và cấp khu vực có nhiệm vụ thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và các nhiệm vụ khác theo sự phân công.

Hệ thống tổ chức của Viện công tố Nhật Bản được tổ chức t­ương ứng hệ thống tổ chức của Toà án và được chia thành 4 cấp. Chức năng, nhiệm vụ mỗi cấp được quy định như sau:

Cấp cao nhất là Viện công tố trung ương, có thẩm quyền xử lý, thực hành quyền công tố đối với các vụ án hình sự bị kháng cáo, kháng nghị đưa ra xét xử tại Toà án tối cao.

Cấp thứ hai là Viện công tố cấp cao bao gồm 8 viện được tổ chức ở 8 vùng: Tokyo, Oaska, Nagoya, Hiroshima, Fukuoka, Sendai, Sapporo, Takamatsu. Cơ quan công tố cấp cao giải quyết các bản án, quyết định hình sự bị kháng cáo, kháng nghị của Toà án địa phương, Toà án gia đình và được đưa ra xét xử tại 8 Toà cấp cao.

Cấp thứ ba là Viện công tố cấp quận (50 Viện) đặt tại các tỉnh có thẩm quyền xử lý và thực hành quyền công tố đối với các vụ án hình sự thuộc thẩm quyền của Toà án cấp quận và Toà gia đình.

Cấp thứ tư là các Viện công tố khu vực có nhiệm vụ xử lý và thực hành quyền công tố đối với các vụ án hình sự tại các Toà án giản lược (Toà án giản lược có thẩm quyền xét xử đối với các vụ án hình sự mà hình phạt cao nhất có thể áp dụng không quá 03 năm tù).

Các chức danh tư pháp trong Viện công tố bao gồm: Tổng trưởng công tố, Phó tổng trưởng công tố, Công tố viên trưởng, Công tố viên và trợ lý công tố viên. Họ được bổ nhiệm để thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Viện công tố. Chủ yếu thực hiện trong hai lĩnh vực hình sự và dân sự:

Trong lĩnh vực hình sự, Viện công tố thực hiện chức năng điều tra, truy tố, thực hành quyền công tố tại Toà án và giám sát việc thi hành hình phạt. Trên thực tế đối với hoạt động điều tra, Viện công tố thực hiện hoạt động điều tra bổ sung sau khi cảnh sát chuyển hồ sơ vụ án đến Viện công tố đối với các vụ án nghiêm trọng, vụ án liên quan đến tội phạm tham nhũng, tội phạm về kinh tế quy mô lớn. Các vụ án ít nghiêm trọng hoặc giản đơn thì không cần thiết phải điều tra bổ sung, Công tố viên của Viện công tố sẽ quyết định truy tố hoặc không truy tố, nếu đủ điều kiện truy tố thì thực hành quyền công tố trước Toà án. Việc quyết định các biện pháp ngăn chặn và cưỡng chế tố tụng do các cơ quan Điều tra đề xuất với Toà án và Toà án là cơ quan quyết định. Nếu vụ việc được đưa ra truy tố, việc truy tố gồm hai loại: yêu cầu ban hành một lệnh giản lược hoặc yêu cầu mở phiên toà xét xử. Thông thường yêu cầu ban hành một lệnh giản lược là thủ tục đối với những vụ án mà tội phạm đã rõ ràng, đơn giản theo yêu cầu của Công tố viên, Toà án giản lược sẽ ra phán quyết mà không cần mở phiên toà xét xử công khai. Đối với yêu cầu mở phiên toà xét xử được thể hiện trong quyết định truy tố của Viện công tố. Thủ tục truy tố và tranh tụng tại phiên toà do Công tố viên đại diện cho Viện công tố thực hiện và áp dụng theo mô hình tố tụng tranh tụng, Công tố viên và Luật sư bào chữa bình đẳng tranh luận về việc bị cáo có tội hay không có tội và mức hình phạt.

Trong các lĩnh vực phi hình sự, Viện công tố có vai trò như đại diện cho lợi ích công, thực hiện các hoạt động mang tính chất hỗ trợ, đại diện cho các đương sự không có khả năng thực hiện quyền chủ thể. Ngoài ra, Công tố viên của Nhật Bản được pháp luật giao một số nhiệm vụ, quyền hạn như: làm nguyên đơn khởi kiện hoặc bị đơn cho những chủ thể không có khả năng thực hiện quyền của mình như trẻ vị thành niên, người mất tích, người đã chết, đề nghị huỷ bỏ một cuộc hôn nhân bất hợp pháp… tuy nhiên thẩm quyền này của cơ quan công tố ít thực hiện vì không phổ biến.

  1. Văn phòng Tổng công tố Thái Lan

Vụ Công tố thuộc Bộ Tư pháp Thái Lan – Tiền thân của Văn phòng Tổng công tố ngày nay, đến năm 1992 Vụ Công tố được chuyển sang trực thuộc Bộ Nội vụ Thái Lan. Năm 1991 Bộ Nội vụ thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với cơ quan Công tố. Sau đó Vụ Công tố được tách khỏi Bộ Nội vụ trở thành cơ quan độc lập trực thuộc Thủ tướng và được gọi là Văn phòng Tổng công tố.

Văn phòng Tổng công tố Thái Lan thuộc nhánh quyền lực hành pháp và là một trong ba cơ quan chính của Chính phủ (Bộ Tư pháp, Bộ Nội vụ và Văn phòng Tổng công tố). Văn phòng Tổng công tố trực thuộc Thủ tướng. Tuy vậy, Văn phòng Tổng công tố là cơ quan tố tụng, do đó Tổng công tố cũng như các Công tố viên có vị trí pháp lý tương đối độc lập, khác với công chức khác trong Chính phủ. Thủ tướng không có quyền can thiệp vào quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Công tố viên.

Chức năng quan trọng nhất của Văn phòng Tổng công tố trong việc thi hành pháp luật về tư pháp hình sự là duy trì quyền công tố và thực hiện các hoạt động tố tụng trong vụ án hình sự. Bên cạnh đó còn đóng vai trò là đầu mối trung tâm trong hoạt động hợp tác quốc tế đấu tranh phòng chống tội phạm và tương trợ tư pháp quốc tế các vấn đề hình sự.

Ở Thái Lan, Công tố viên không được quyền tiến hành điều tra. Nhiệm vụ của Công tố viên chỉ bắt đầu sau khi Cảnh sát kết thúc việc điều tra và chuyển hồ sơ cho Công tố viên. Cách thức duy nhất mà Công tố viên có thể tham gia vào quá trình điều tra vụ án là gửi yêu cầu cho Cảnh sát đề nghị điều tra bổ sung hoặc triệu tập nhân chứng để thẩm vấn khi Công tố viên cho rằng các tình tiết hoặc chứng cứ trong hồ sơ vụ án là không đầy đủ, rõ ràng. Công tố viên có toàn quyền quyết định việc truy tố hay không truy tố kẻ phạm tội. Để bảo đảm tính độc lập và đề cao vai trò của Công tố viên, pháp luật không hạn chế quyền tùy quyết của Công tố viên trong việc quyết định truy tố hay không truy tố. Thông thường các quyết định không truy tố của Công tố viên trên cơ sở vì lợi ích công, đạo đức hay chính sách xã hội hay các lý do khác. Khi quyết định truy tố tội phạm ra Toà, Công tố viên phải chuẩn bị đầy đủ các chứng cứ thu thập được trong vụ án để làm căn cứ bảo vệ quan điểm truy tố của mình và phục vụ cho việc tranh tụng với Luật sư bào chữa tại phiên tòa; nếu thấy không đủ cơ sở thì Công tố viên có thể đình chỉ vụ án. Công tố viên đóng vai trò tích cực trong việc xuất trình chứng cứ tại Tòa án trong khi Thẩm phán ở Thái Lan rất thụ động trong quá trình xác minh tình tiết của vụ việc và đứng ở vị trí trung lập khi xét xử vụ án. Thẩm phán sẽ căn cứ vào chứng cứ Công tố viên cung cấp và lời nhận tội của bị can theo truy tố của Công tố viên hoặc bác bỏ tất cả lời buộc tội của Công tố viên nếu nhận định thấy không đủ căn cứ.

Công tố viên của Văn phòng Tổng Công tố có thể thực hiện vai trò là Luật sư tư vấn pháp luật cho các cơ quan của Chính phủ hay Luật sư bào chữa của Nhà nước để bảo vệ các lợi ích công cộng hoặc cung cấp dịch vụ pháp lý cho các chính quyền địa phương và các cơ quan Nhà nước. Công tố viên còn có trách nhiệm đại diện cho Chính phủ trong các vụ việc dân sự khi Chính phủ là một bên đương sự trong vụ việc đó. Mặt khác, thông qua văn phòng bảo vệ quyền dân sự và trợ giúp pháp lý, cơ quan Công tố thực hiện các hoạt động bảo vệ lợi ích công cộng, làm dịch vụ tư vấn pháp luật và đại diện cho người nghèo và những đối tượng cần trợ giúp.

  1. Viện Công tố Hàn Quốc

Hệ thống Viện công tố Hàn Quốc lần đầu tiên xuất hiện trong lịch sử Hàn Quốc vào năm 1895 với việc ban hành Luật Tổ chức Toà án và Sắc lệnh của Hoàng Gia về tổ chức cơ quan Công tố. Các Công tố viên vào thời điểm này là thành viên của Toà án nhưng thực hiện nhiệm vụ điều tra và truy tố trên cơ sở thẩm quyền và trách nhiệm độc lập. Phân loại về chuyên môn của Công tố viên cũng theo những đạo luật này được quy định rất chặt chẽ như hệ thống hiện hành và tiếp tục tồn tại cho đến khi kết thúc triều đại Chosun (khi Nhật Bản xâm lược Hàn Quốc và sáp nhập quốc gia này vào Đế quốc Nhật).

Hiện nay, hệ thống cơ quan Công tố Hàn Quốc được tổ chức theo mô hình Kim tự tháp trong đó bao gồm: Viện Công tố tối cao, Viện Công tố cấp cao (05 Viện); Viện công tố cấp quận (13 Viện) và 42 Văn phòng chi nhánh của Viện Công tố quận; mỗi Văn phòng này tư­ơng ứng với Toà án ngang cấp. Các Công tố viên được phân chia thành 4 cấp theo chức trách chuyên môn của mình gồm: Tổng trưởng Công tố (PG), Công tố viên trưởng cấp cao (SPC), Công tố viên trưởng (PC) và Công tố viên. Mỗi vị trí được bổ nhiệm bằng một quyết định tương ứng với cấp bậc. Địa vị của Tổng trưởng công tố tương đương với Bộ trưởng trong Nội các, Công tố viên trưởng có địa vị ngang hàng Thứ trưởng và Công tố viên cao cấp có vị trí ở giữa hai cấp bậc này. Các Công tố viên được phân ở cấp thứ ba theo năng lực chuyên môn. Theo quy định của Luật Công tố Hàn quốc thì Công tố viên Hàn Quốc là người của cơ quan Công tố thực hiện chức năng, nhiệm vụ của cơ quan Công tố là điều tra, truy tố và buộc tội kẻ phạm pháp trong các vụ án hình sự tại các phiên tòa xét xử, là người đại diện pháp lý của quá trình truy tố tại Hàn Quốc theo hệ thống đối tụng thông luật hoặc hệ thống tố tụng thẩm vấn.

Trong lĩnh vực hình sự, Công tố viên đại diện cho Viện Công tố thực hiện nhiệm vụ trên 3 lĩnh vực: Điều tra, truy tố và những vấn đề khác liên quan đến chứng minh tội phạm và thi hành án.

Trong hoạt động điều tra: Hiến pháp và Bộ luật tố tụng hình sự của Hàn Quốc đề cập tới thẩm quyền của Công tố viên khởi đầu và kết luận về quá trình điều tra vụ án hình sự theo nguyên tắc pháp quyền giống các nước Châu Âu: Pháp hay Cộng hòa liên bang Đức. Do đó, Công tố viên được trao quyền hạn và trách nhiệm là thực hiện điều tra hình sự; Cảnh sát được yêu cầu thực hiện nhiệm vụ dưới sự chỉ đạo và hướng dẫn của Công tố viên. Quy định như vậy là để buộc Công tố viên phải đảm bảo sự tuân thủ pháp luật của Cảnh sát và tiến hành tố tụng công bằng bằng cách đưa ra những chỉ đạo tiến bộ, đồng thời ngăn ngừa Cảnh sát có những hành vi vi phạm quyền con người trong quá trình điều tra. Tuy nhiên, trên thực tế, Công tố viên không hướng dẫn chỉ đạo Cảnh sát trong tất cả những vụ án mà chỉ hướng dẫn trong những vụ án có tầm quan trọng hay có ý nghĩa nhất định liên quan đến quyền con người của công dân. Ví dụ như những vụ án có áp dụng biện pháp tạm giam kẻ bị tình nghi v.v…Hơn nữa đối với những vụ án khởi tố theo yêu cầu bị hại có ảnh hưởng sâu sắc tới lợi ích của nạn nhân và đối với những tội phạm cần điều tra chuyên sâu hơn. Hàn Quốc đã thực hiện một chương trình lớn từ năm 2001 mà theo đó quy định Cảnh sát có nghĩa vụ tuân thủ hướng dẫn của Công tố viên trong suốt quá trình điều tra và chuyển những vụ án đó cho Công tố viên. Khi vụ án đã được chuyển cho Công tố viên, Công tố viên sẽ mở cuộc kiểm tra toàn diện để xem xét những biện pháp điều tra của Cảnh sát có thích hợp hay không và tất cả những quy định của pháp luật liên quan đến thủ tục tố tụng công bằng sẽ được thẩm định. Nếu những vấn đề nêu trên không có trong vụ án, Công tố viên sẽ ra lệnh cho Cảnh sát điều tra lại hoặc thực hiện việc khắc phục những thiếu sót trong quá trình điều tra.

Thêm vào đó, Công tố viên có trách nhiệm đảm bảo công bằng xã hội bằng cách trực tiếp điều tra một số vụ án có tác động quan trọng đối với trật tự xã hội và cuộc sống bình thường của các công dân như: những vụ án lừa đảo kinh tế, tham nhũng của công, các tội phạm ma tuý và tội phạm có tổ chức v.v…Khi đã kết thúc điều tra vụ án, Công tố viên phải đưa ra quyết định có đưa ra lời buộc tội hay không. Nếu Công tố viên không đưa ra cáo trạng thì hành động này thông thường được gọi là không truy tố. Có hai hình thức cấu thành nên việc truy tố. Đó là truy tố theo thủ tục thông thường và truy tố theo thủ tục rút gọn. Truy tố theo thủ tục thường là bị cáo phải ra hầu tòa và bị xét xử bởi một Thẩm phán, còn truy tố theo thủ tục rút gọn là Thẩm phán chỉ ra phán quyết về bản án sau khi đã kiểm tra hồ sơ điều tra được trình lên và bị cáo không cần phải ra Tòa. Thủ tục truy tố rút gọn luôn được thực hiện khi Công tố viên xác định rằng bị cáo chỉ đáng bị xử phạt tiền. Tuy nhiên, trong những vụ án khi bị cáo chống án bằng kháng cáo hoặc khi Thẩm phán cho rằng phạt tiền là hình phạt không thích hợp thì vụ án sẽ được chuyển lại để xét xử theo thủ tục thông thường. Truy tố theo thủ tục thông thường được chia làm một số loại bao gồm quyết định “không có tội” khi hành vi không cấu thành tội phạm được luật pháp quy định hoặc không chứng minh được bằng những chứng cứ hợp pháp và quan trọng và việc đình chỉ truy tố xảy ra khi không thể phát hiện ra tình tiết của vụ án do thiếu sự hiện diện của kẻ bị tình nghi hoặc nhân chứng. Công tố viên cũng có thể thực hiện quyền tự quyết là không buộc tội mà không cần quan tâm đến chứng cứ trong khi xem xét đến những trường hợp cụ thể của kẻ bị tình nghi và bản chất của tội phạm thông qua một thủ tục gọi là đình chỉ buộc tội.

Tại Hàn Quốc, pháp luật cũng trao nhiệm vụ cho Công tố viên thi hành bản án hình sự của Toà án và chỉ đạo những quan chức liên quan cho những mục đích như cải tạo, phạt tù, thu tiền phạt trong các cơ quan lao động công ích. Ngoài ra, với tư cách là người đại diện cho lợi ích công, Công tố viên cũng thực hiện những nhiệm vụ khác nhau bao gồm cả vai trò của người bảo vệ nhân quyền trong tố tụng hình sự và Luật sư đại diện cho Nhà nước bảo vệ quyền và lợi ích của công chúng.

Công tố viên Hàn Quốc được yêu cầu là người đứng ra bảo vệ nhân quyền của mọi công dân với tư cách là người đại diện cho lợi ích công. Họ có quyền đệ trình lên Toà án tất cả những chứng cứ không chỉ thiên về có tội mà cả những chứng cứ thiên về phía bị cáo. Công tố viên cũng yêu cầu Toà án áp dụng pháp luật một cách công bằng và không thiên vị để bảo đảm rằng bị cáo sẽ không nhận được sự đối xử bất công hay quá mức. Điều này được gọi là “nghĩa vụ biện hộ ảo” và được coi là một phẩm chất cần thiết của Công tố viên. Công tố viên cũng đến thăm và kiểm tra những nhà tạm giữ trong các đồn Cảnh sát một cách bất ngờ mỗi tháng một lần để ngăn ngừa và khắc phục những sai phạm có khả năng xâm phạm đến quyền con người bằng cách kiểm tra xem có bất kỳ ai bị bắt giữ không qua một thủ tục tố tụng hợp pháp, hay có bất kỳ vụ án nào được tiến hành không đúng luật không.

Khi thực hiện nhiệm vụ với tư cách Luật sư Nhà nước, các Công tố viên Hàn Quốc có trách nhiệm tham gia vào việc dự thảo và tranh luận về những dự luật, thực hiện hay hướng dẫn chiến lược kiện tụng cho chính quyền trung ương hay địa phương nếu như chính quyền ở các cấp này có liên quan đến vụ kiện. Thêm vào đó, Công tố viên còn cung cấp những lời khuyên pháp lý miễn phí cho những công dân để đảm bảo rằng họ có đại diện phù hợp và thoả mãn với những thủ tục tố tụng công minh. Khi cần thiết, các Công tố viên có thể phân công người bản địa của Tập đoàn trợ giúp pháp lý Hàn Quốc cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí. Công tố viên cũng có trách nhiệm trợ giúp những cơ quan Chính phủ khác bao gồm cả các đại sự quán ở nước ngoài hoặc các tổ chức quốc tế ở nước ngoài khi họ yêu cầu cung cấp trợ giúp pháp lý.

  1. Viện kiểm sát nhân dân Trung Quốc

Từ triều đại nhà Thanh đã hình thành cơ quan Công tố trong Toà án. Năm 1921 hệ thống Công tố độc lập tách rời khỏi Toà án. Viện công tố có nhiệm vụ điều tra tội phạm, khởi tố và thực hành quyền công tố, hỗ trợ tư­ tố và chỉ đạo thi hành án hình sự. Năm 1927 quy định về Toà án tối cao đ­ược ban hành, theo đó các Viện Công tố đ­ược thành lập gắn với Toà án như­ mô hình của Pháp. Đến năm 1931, Viện Công tố đ­ược giao thêm nhiệm vụ giám sát các quan chức Nhà n­ước. Đây là sự kết hợp giữa truyền thống luật Châu Âu lục địa và truyền thống luật Trung Quốc. Ngày 1 tháng 10 năm 1949 Nhà nư­ớc Cộng hoà nhân dân Trung Hoa đ­ược thành lập. Do có sự ảnh h­ưởng của Đảng Cộng sản và pháp luật của Nhà n­ước liên bang Xô-Viết (Liên Xô), Nhà nước Trung Quốc đã tiếp thu mô hình và những nguyên tắc cơ bản về tổ chức bộ máy và hoạt động của Nhà n­ước Liên Xô vào việc tổ chức bộ máy nhà nư­ớc của mình. Theo đó, hệ thống Viện kiểm sát nư­ớc Cộng hoà nhân dân Trung Hoa là cơ quan giám sát pháp luật, đư­ợc thành lập theo địa giới hành chính nh­ưng độc lập với cơ quan hành chính và cơ quan Toà án. Đến năm 1961 hệ thống Viện kiểm sát bắt đầu đư­ợc nhập vào cơ quan Công an; năm 1968 do tác động của cuộc cách mạng tư tưởng văn hóa do đó hệ thống cơ quan Viện kiểm sát chính thức bị bãi bỏ. Cơ quan Viện kiểm sát Trung Quốc đ­ược khôi phục trở lại từ khi Nhà nước Trung Quốc ban hành Hiến pháp năm 1978 và Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1979; sau đó đư­ợc tiếp tục khẳng định trong Hiến pháp năm 1982, Luật tổ chức Viện kiểm sát năm 1983, 1995. Hệ thống cơ quan Viện kiểm sát đ­ược thành lập ở Trung ­ương và các địa ph­ương. Gồm Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân địa phương các cấp, Viện kiểm sát quân sự và các Viện kiểm sát chuyên ngành khác.

Theo Hiến pháp nước Cộng hòa dân nhân dân Trung Hoa, Viện kiểm sát nhân dân Trung Hoa là cơ quan giám sát pháp luật của Nhà nước, thực hiện quyền kiểm sát đối với các vụ án phản quốc, chia rẻ đất nước và các vụ án phạm tội nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng, phá hoại việc thực hiện thống nhất chính sách pháp luật, pháp lệnh, quy chế hành chính của Nhà nước; tiến hành điều tra đối với các vụ án hình sự được trực tiếp thụ lý. Kiểm sát việc điều tra vụ án hình sự do cơ quan Công an tiến hành; quyết định việc bắt giữ, truy tố hoặc miễn tố đối với các vụ án do cơ quan Công an điều tra, giám sát hoạt động điều tra của cơ quan Công an. Phê chuẩn lệnh bắt giữ của cơ quan Công an; kiểm sát việc chấp hành pháp luật trong hoạt động điều tra của cơ quan Công an và Điều tra viên, bảo đảm việc điều tra được thực hiện đúng pháp luật, trực tiếp điều tra các tội phạm tham nhũng; giám sát hoạt động xét xử của Tòa án; giám sát việc chấp hành phán quyết và quyết định của các vụ án hình sự, hoạt động của trại giam, nơi giam giữ và cơ quan cải tạo lao động. Các Viện kiểm sát cơ sở (châu, quận, huyện) có bộ phận biệt phái tại nơi tạm giữ, tạm giam và cải tạo để thường xuyên giám sát việc chấp hành pháp luật của cơ quan Công an.

Trong lĩnh vực dân sự: Viện kiểm sát nhân dân kiểm sát hoạt động xét xử của Tòa án; kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm đối với bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nếu phát hiện bản án, quyết định đó có vi phạm pháp luật. Gây thiệt hại nghiêm trọng cho lợi ích xã hội; tham gia phiên tòa phúc thẩm, giám đốc thẩm. Viện kiểm sát có thể khởi tố vụ kiện dân sự, nếu trong quá trình giải quyết vụ án hình sự thấy hành vi phạm tội của bị can, bị cáo gây thiệt hại đến tài sản của Nhà nước, tập thể. Việc kiện dân sự phải được tiến hành xét xử đồng thời với vụ án hình sự. Viện kiểm sát kiểm sát việc tuân thủ pháp luật của cơ quan thi hành án hình sự, dân sự bảo đảm việc thi hành án của cơ quan thi hành án đúng pháp luật.

Ngoài ra, Viện kiểm sát nhân dân còn có chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc bảo vệ quyền tố cáo của công dân đối với các nhân viên Nhà nước vi phạm pháp luật, truy cứu trách nhiệm pháp luật đối với những người xâm phạm quyền thân thể, quyền dân chủ và các quyền khác của công dân.

Như vậy, qua tìm hiểu về Viện công tố/Viện kiểm sát một số quốc gia điển hình khu vực Châu Á-Thái Bình Dương cho thấy một số điểm như sau:

Thứ nhất: do cách thức tổ chức bộ máy Nhà nước của các quốc gia rất khác nhau (kể cả các quốc gia có cùng chế độ chính trị), nên cơ quan Công tố/Viện kiểm sát được tổ chức và hoạt động không giống nhau. Có quốc gia cơ quan Công tố/Viện kiểm sát thuộc nhánh quyền lực hành pháp, có quốc gia cơ quan Công tố/Viện kiểm sát thuộc nhánh quyền lực tư pháp. Tuy nhiên dù không được tổ chức giống nhau, nhưng tất cả các cơ quan Công tố/ Viện kiểm sát đều có một vị trí độc lập trong bộ máy Nhà nước (độc lập trong thực hiện chức năng, nhiệm vụ). Vị trí độc lập của cơ quan Công tố/Viện kiểm sát là yếu tố rất cần thiết, bảo đảm cho Viện công tố/Viện kiểm sát hoạt động được khách quan, nhằm mục đích bảo vệ pháp luật, bảo vệ công lý, công bằng.

Thứ hai, qua tìm hiểu cho thấy các quốc gia đều quy định cho Viện công tố/Viện kiểm sát đều thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và giám sát thực hiện pháp luật, tuy nhiên chức năng thực hành quyền công tố luôn là chức năng chủ đạo, có vị trí quan trọng nhất và chỉ có Viện công tố/Viện kiểm sát là cơ quan duy nhất thực hiện chức năng thực hành quyền công tố.

Thứ ba. Các Viện công tố/Viện kiểm sát ngoài việc thực hiện chức năng thực hành quyền công tố, hầu như tất cả các cơ quan Công tố/Viện kiểm sát đều thực hiện nhiều nhiệm vụ khác nhau trên các lĩnh vực tư pháp cụ thể như: giám sát tư pháp, giam giữ, cải tạo, thi hành án… Ngoài ra, một số cơ quan Công tố/Viện kiểm sát còn được giao thực hiện những chức năng, nhiệm vụ như tham gia hoạt động tố tụng dân sự với tư cách là Luật sư công, đại điện cho Chính phủ để bảo vệ lợi ích công, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân trong những trường hợp cụ thể như những người có nhược điểm về tinh thần, trẻ vị thành niên, người không có khả năng tự bảo vệ mình. Như vậy, ngoài chức năng, nhiệm vụ thực hành quyền công tố, Viện kiểm sát/Viện công tố một số nước còn thực hiện các nhiệm vụ khác hoàn toàn phụ thuộc vào đặc điểm chính trị, xã hội, truyền thống pháp lý … của từng quốc gia. Mặc dù chức năng, nhiệm vụ cụ thể của cơ quan Công tố/Viện kiểm sát ở mỗi quốc gia khác nhau nhưng tất cả các quốc gia đều xác định cơ quan Công tố/Viện kiểm sát là cơ quan có vai trò rất quan trọng trong việc bảo vệ công lý và trật tự pháp luật chung của quốc gia.

Thứ tư, các quốc gia khu vực Châu Á-Thái Bình Dương đa số theo hệ thống pháp luật Châu âu lục địa (riêng Nhật Bản theo hệ thống pháp luật hỗn hợp vừa pha trộn hệ thống pháp luật Châu âu lục địa với hệ thống pháp luật Anh-Mỹ) và khẳng định vai trò quyết định của Viện công tố/Viện kiểm sát trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự, chỉ đạo hoạt động điều tra và quyết định việc truy tố tội phạm.

Thứ năm, các Viện công tố/Viện kiểm sát ở các quốc gia khu vực Châu Á-Thái Bình Dương quy định người đứng đầu ngành Công tố/Kiểm sát có vị trí, vai trò quan trọng trong bộ máy Nhà nước, thường do Quốc Hội, nguyên thủ quốc gia hay người đứng đầu Chính phủ bổ nhiệm và cũng nhấn mạnh và đề cao vai trò và trách nhiệm cá nhân của Công tố viên/Kiểm sát viên (chức danh tư pháp) đại diện cho Viện Công tố/Viện kiểm sát thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Ngành trong việc bảo vệ lợi ích Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Đều đó cho thấy ngành Công tố/Kiểm sát có vị trí, vai trò quan trọng trong bộ máy Nhà nước.

Ngoài ra, ở các nước khu vực Châu Á-Thái Bình Dương mặc dù không thống nhất về thuật ngữ tên gọi, có quốc gia gọi Viện Công tố, có quốc gia gọi Viện kiểm sát. Tuy nhiên tên gọi trên chỉ mang tính quy ước tương đối. Bởi nó không phản ánh bất cứ nội dung nào cũng như không có bất cứ mối liên hệ tới vị trí chức năng của Viện công tố/Viện kiểm sát trong quá trình thực hiện chức năng nên không thể khẳng định Viện công tố thì thực hiện chức năng công tố còn Viện kiểm sát chỉ xuất phát từ thực hiện chức năng kiểm sát và vai trò của hoạt động kiểm sát lớn hơn vai trò của thực hành quyền công tố và ngược lại. Ở Việt Nam mặc dù tên gọi là Viện kiểm sát nhân dân nhưng chức năng của Ngành là thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp có vai trò quan trọng được Đảng và Nhà nước quan tâm hàng đầu. Nói chung sự khác nhau về tên gọi nhưng không tạo nên sự khác nhau về nội dung, chỉ là cách gọi khác nhau về một thể chế đặc thù tuỳ theo tình hình chính trị, kinh tế, truyền thống pháp luật của mỗi nước và cơ quan Công tố/Viện kiểm sát luôn có vị trí độc lập trong tổ chức bộ máy của mỗi quốc gia, có chức năng thực hành quyền công tố và thực hiện thẩm quyền khác do pháp luật quy định.

Như vậy, qua bài viết tác giả đã giới thiệu tổng quan vị trí, chức năng của Viện công tố/Viện kiểm sát một số nước trong khu vực Châu Á – Thái Bình Dương. Rất mong nhận được sự quan tâm, đóng góp ý kiến của các đồng chí, đồng nghiệp./.

Công tố viên và cảnh sát khác nhau như thế nào?

Trên thực tế, hai chức danh này đều chỉ một vị trí như nhau mà thôi, ở Việt Nam là kiểm sát viên còn ở Hàn Quốc được gọi là công tố viên. Hoàn toàn không có gì khác nhau đâu bạn nhé!

Viện kiểm sát và Công an ai to hơn?

để xét xử những vụ án mà bị cáo là quân nhân tại 5. và những vụ án khác Theo quy định của pháp luật. tòa án và Viện kiểm sát AI to hơn. như vậy chúng ta không thể so sánh.

Nhiệm vụ của công tố viên là gì?

Công tố viên là trưởng đại diện pháp lý của quá trình truy tố trong các quốc gia theo hệ thống tố tụng thông luật hoặc hệ thống tố tụng thẩm vấn. Các công tố là bên chịu trách nhiệm pháp lý buộc tội trong một phiên tòa hình sự đối với một cá nhân bị tố cáo vi phạm pháp luật.

Công tố viên quân sự là gì?

Công tố viên là người của cơ quan công tố, có tư cách của một bên tham gia tố tụng. Họ cũng là người đại diện cho lợi ích công, được cơ quan tư pháp trao trách nhiệm điều tra, truy tố và buộc tội kẻ phạm pháp trong các vụ án hình sự tại các phiên tòa.