Đánh giá chính sách tiền tệ 2011 2022

Trong bối cảnh đó, điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam gặp nhiều khó khăn, vừa hỗ trợ đà phục hồi kinh tế, vừa kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô.

Tăng trưởng kinh tế trong nước trong 7 tháng qua được các chuyên gia kinh tế đánh giá là đang trên đà phục hồi, nhưng việc đạt được mục tiêu 6,5% mà Quốc hội đề ra là rất khó khăn. Để đạt mục tiêu này thì tăng trưởng kinh tế những tháng cuối năm phải đạt 7,1% - điều không dễ dàng khi làn sóng dịch Covid-19 lần thứ 4 vẫn đang diễn biến phức tạp.

Đánh giá chính sách tiền tệ 2011 2022
Đánh giá chính sách tiền tệ 2011 2022
Đánh giá chính sách tiền tệ 2011 2022
Đánh giá chính sách tiền tệ 2011 2022
Đánh giá chính sách tiền tệ 2011 2022
Ảnh minh họa: TTXVN.

Trong bối cảnh đó, Ngân hàng Nhà nước vẫn điều hành chính sách tiền tệ ổn định theo định hướng chủ đạo hỗ trợ đà phục hồi kinh tế trong bối cảnh dịch bệnh tiếp tục diễn biến phức tạp, thực hiện mục tiêu kép của Chính phủ “vừa chống dịch, vừa đảm bảo phát triển kinh tế”. Theo đó, Ngân hàng Nhà nước sẽ chủ động duy trì ổn định mặt bằng lãi suất phù hợp với cân đối vĩ mô, lạm phát, tạo điều kiện giảm chi phí vay vốn cho người dân, doanh nghiệp và nền kinh tế.

Ngân hàng Nhà nước cho biết, việc điều hành chính sách tiền tệ thời gian qua đã góp phần hỗ trợ kinh tế trong nước phục hồi, tăng trưởng GDP 6 tháng năm 2021 đạt 5,64%, lạm phát được kiểm soát mức bình quân 7 tháng tăng 1,64% so với cùng kỳ năm trước - mức tăng thấp nhất trong 5 năm trở lại đây. Thị trường tiền tệ và ngoại hối duy trì ổn định, thanh khoản của các tổ chức tín dụng đảm bảo, tín dụng tăng ngay từ đầu năm và cao hơn cùng kỳ năm trước, mặt bằng lãi suất tiếp tục giảm.

Theo các chuyên gia kinh tế, chính sách tiền tệ của Việt Nam vẫn được điều hành khá thận trọng, các yếu tố về lạm phát, thanh khoản, lợi tức trái phiếu vẫn đang khá thuận lợi để Ngân hàng Nhà nước thực hiện mục tiêu ổn định lãi suất, hỗ trợ doanh nghiệp và nền kinh tế.

Bà Victoria Kwakwam, Phó chủ tịch Ngân hàng thế giới (WB) phụ trách khu vực Đông Á - Thái Bình Dương đánh giá cao vai trò của Ngân hàng Nhà nước trong việc điều hành chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt, triển khai quyết liệt các giải pháp, chương trình hỗ trợ doanh nghiệp và người dân khắc phục khó khăn do dịch bệnh. Từ đó, góp phần quan trọng vào ổn định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ tăng trưởng và bảo đảm an sinh xã hội.

Ông Phạm Thanh Hà, Vụ trưởng Vụ Chính sách tiền tệ (Ngân hàng Nhà nước) cho biết, Ngân hàng Nhà nước đã điều hành linh hoạt các công cụ chính sách tiền tệ, duy trì thanh khoản hệ thống; đồng bộ các giải pháp tiền tệ, tín dụng, thanh khoản góp phần ổn định thị trường và phục hồi tăng trưởng trước các tác động khó lường của dịch Covid-19. Những tháng đầu năm tổng phương tiện thanh toán (M2) tăng 3,64% so với cuối năm 2020.

Đặc biệt, lãi suất cơ bản được điều hành linh hoạt trên nền tảng 3 lần giảm lãi suất trong năm 2020 và lãi suất trong 7 tháng qua tiếp tục duy trì ở mức thấp. Ngân hàng Nhà nước đã chỉ đạo các ngân hàng thương mại tiết kiệm chi phí để giảm lãi suất cho vay đối với doanh nghiệp. Giữa tháng 7 vừa qua, 16 ngân hàng đã đồng loạt giảm lãi suất cho vay theo lời kêu gọi của Ngân hàng Nhà nước để hỗ trợ doanh nghiệp và người dân ứng phó với đại dịch Covid-19.

Theo ông Phạm Thanh Hà nhằm hỗ trợ tăng trưởng kinh tế nhưng không chủ quan với rủi ro lạm phát, căn cứ mục tiêu tăng trưởng kinh tế và lạm phát do Quốc hội và Chính phủ đặt ra, Ngân hàng Nhà nước xây dựng chỉ tiêu định hướng tăng trưởng tín dụng toàn ngành khoảng 12%, có điều chỉnh phù hợp với diễn biến, tình hình thực tế.

Mới đây, Ngân hàng Nhà nước đã chấp thuận đề nghị nâng hạn mức tăng trưởng tín dụng của một số ngân hàng. Chẳng hạn Ngân hàng TMCP Quân đội (MB) được nâng room tín dụng từ 10,5% lên 15%; Ngân hàng TMCP Việt Nam Thịnh Vượng (VPBank) được nâng từ 8,5% lên 12,1%... Điều này được nhận định sẽ hỗ trợ tích cực cho nền kinh tế hồi phục để đạt được mục tiêu kép mà Chính phủ đề ra.

Tuy nhiên, Phó thống đốc Ngân hàng Nhà nước Đào Minh Tú phải thừa nhận việc điều hành chính sách tiền tệ vừa qua còn nhiều khó khăn vướng mắc do tác động của dịch Covid-19.

Một trong những khó khăn đó là, các tổ chức tín dụng đang phải đối mặt với áp lực nợ xấu tăng cao trong bối cảnh hoạt động sản xuất, kinh doanh bị ngưng trệ khi dịch bệnh tác động tiêu cực đến khả năng trả nợ của doanh nghiệp, người dân là khách hàng của ngân hàng.

Ông Nguyễn Quốc Hùng, Tổng Thư ký Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam (VNBA) cho biết hiện tổng dư nợ tín dụng được cơ cấu lại theo Thông tư 01/2020/TT-NHNN quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm lãi, phí, giữ nguyên nhóm nợ do ảnh hưởng của dịch Covid-19 và Thông tư 03-2021 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư 01/2020/TT-NHNN ngày 13-3/2020 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm lãi, phí, giữ nguyên nhóm nợ nhằm hỗ trợ khách hàng chịu ảnh hưởng bởi dịch Covid-19 là 347.000 tỷ đồng. Nhưng con số này có khả năng sẽ còn gia tăng trong thời gian tới.

TS. Cấn Văn Lực, Chuyên gia kinh tế trưởng BIDV cũng cho rằng nợ xấu đang gia tăng trong thời gian tới, có thể lên đến 2,5% cuối năm 2021 và đây sẽ là nguy cơ, rủi ro đối với hoạt động ngân hàng.

Trong những tháng cuối năm, Công ty chứng khoán Rồng Việt (VDSC) đưa ra dự đoán Ngân hàng Nhà nước sẽ tiếp tục duy trì chính sách tiền tệ hỗ trợ để tiếp sức cho nền kinh tế trong bối cảnh phức tạp của đợt bùng phát Covid-19 mới nhất. Tuy nhiên, tốc độ tăng cung tiền chậm lại cho thấy Ngân hàng Nhà nước chưa sử dụng đến biện pháp bơm thanh khoản trên diện rộng và vẫn tập trung vào mục tiêu mở rộng tín dụng có chọn lọc.

Ngân hàng Nhà nước cũng khẳng định sẽ tiếp tục điều hành các công cụ chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt, phối hợp chặt chẽ với chính sách tài khóa và các chính sách kinh tế vĩ mô khác nhằm kiểm soát lạm phát, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế.

Theo đó, Ngân hàng Nhà nước chú trọng các giải pháp tiếp tục theo dõi sát mặt bằng lãi suất thị trường để điều hành phù hợp với cân đối vĩ mô, lạm phát, diễn biến thị trường và mục tiêu chính sách tiền tệ. Cùng đó tiếp tục triển khai các giải pháp tạo điều kiện cho hệ thống tổ chức tín dụng giảm lãi suất cho vay, hỗ trợ sản xuất, kinh doanh, góp phần phục hồi tăng trưởng bền vững…

Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Thị Hồng nhấn mạnh, những yếu tố điều hành các công cụ chính sách tiền tệ là mấu chốt để Việt Nam tiếp tục thu hút được dòng vốn trong bối cảnh kinh tế toàn cầu biến động khó lường./.

TTXVN

Trong giai đoạn 2011-2015, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã thể hiện tính chủ động, linh hoạt trong điều hành chính sách tiền tệ. Những kết quả đạt được cho thấy, chính sách tiền tệ đã đóng góp quan trọng trong việc duy trì ổn định kinh tế vĩ mô, lạm phát giảm dần, đánh dấu thời kỳ ổn định lạm phát dài nhất trong một thập kỷ qua; GDP năm 2015 tăng 6,68%, mức cao nhất trong 8 năm qua. Hệ thống ngân hàng được bảo đảm an toàn và phát triển bền vững...

Chính sách chủ động, nền kinh tế được gỡ khó

Khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008-2009 và suy thoái kinh tế sau đó đã làm tăng thêm mức độ trầm trọng của nền kinh tế Việt Nam, trong bối cảnh mọi nguồn lực đều được tận dụng để đón đầu những cơ hội sau khi Việt Nam chính thức trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới (kể từ ngày 11-1-2007) và các biện pháp hỗ trợ lãi suất để đối phó với khủng hoảng đã đẩy các cơ quan quản lý vào tình thế khó khăn, khi phần lớn nguồn vốn đầu tư của toàn xã hội được đầu tư gián tiếp hoặc trực tiếp vào thị trường nhà đất và bị chôn vùi ở lĩnh vực này khi nhu cầu và sức mua đều suy giảm mạnh.

Bước sang năm 2011, tình hình kinh tế vĩ mô tuy đã cải thiện, nhưng tiếp tục diễn biến phức tạp, lạm phát tăng cao, thị trường chứng khoán và bất động sản suy giảm mạnh. Hệ thống ngân hàng phải đối mặt với những rủi ro ngày càng gia tăng, nổi bật là rủi ro tín dụng, nhiều tổ chức tín dụng (TCTD) tiếp tục gặp khó khăn về thanh khoản do nợ xấu tăng cao, gây mất an toàn hệ thống ngân hàng. Trước tình hình đó, NHNN đã xây dựng và điều hành chính sách tiền tệ trên cơ sở bám sát chủ trương của Đảng, Quốc hội, Chính phủ và diễn biến kinh tế vĩ mô, phối hợp chặt chẽ với chính sách tài khóa và các chính sách kinh tế khác nhằm mục tiêu kiểm soát lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế ở mức hợp lý, đồng thời bảo đảm an toàn hệ thống các TCTD. NHNN đã sử dụng kết hợp hài hòa các công cụ chính sách tiền tệ nhằm khuyến khích dòng tín dụng vào các lĩnh vực ưu tiên của nền kinh tế.

Đánh giá chính sách tiền tệ 2011 2022

Cơ chế điều hành chính sách tiền tệ đã có sự đổi mới mạnh mẽ theo hướng chủ động, dẫn dắt thị trường, từng bước chuyển từ cơ chế điều tiết theo khối lượng sang điều hành theo lãi suất. Cụ thể là, NHNN đã thực hiện công bố định hướng điều hành lãi suất và triển khai đồng bộ các biện pháp để đạt mục tiêu là giảm dần mặt bằng lãi suất, tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp và hộ dân; tiến hành điều chỉnh linh hoạt các mức lãi suất điều hành, kết hợp với áp dụng biện pháp hành chính phù hợp theo diễn biến thị trường. Cùng với nỗ lực giảm lãi suất huy động, NHNN đã triển khai nhiều biện pháp để giảm mặt bằng lãi suất cho vay, đặc biệt là đối với các lĩnh vực ưu tiên, triển khai hàng loạt chương trình tín dụng với lãi suất ưu đãi.

Về điều hành thị trường tiền tệ, các nhóm giải pháp tín dụng được tập trung thực hiện theo hướng mở rộng tín dụng đi đôi với an toàn hoạt động của các TCTD. Theo đó, NHNN giao chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng cho các TCTD, có điều chỉnh linh hoạt, thực hiện các giải pháp hướng dòng vốn tín dụng vào hoạt động sản xuất, kinh doanh, nhất là các lĩnh vực ưu tiên. Bên cạnh đó, NHNN cũng chủ động triển khai các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp và nền kinh tế, tổ chức nhiều đoàn công tác, phối hợp với chính quyền địa phương nắm bắt và tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong quan hệ vay vốn ngân hàng giữa các doanh nghiệp và TCTD trên địa bàn.

NHNN đã chỉ đạo toàn ngành triển khai các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho nền kinh tế, tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng tiếp cận nguồn vốn tín dụng ngân hàng, góp phần khơi thông dòng tín dụng, tập trung vào các lĩnh vực ưu tiên và một số chương trình kinh tế trọng điểm, phù hợp với tính đặc thù về ngành nghề và lĩnh vực sản xuất, kinh doanh cũng như yêu cầu nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế trước những diễn biến ngày càng phức tạp trên toàn cầu. Đây là những mắt xích kinh tế quan trọng, từng bước tạo ra sự phát triển đồng bộ và cân đối trong nền kinh tế quốc dân.

Giảm mặt bằng lãi suất, tập trung cho vay lĩnh vực ưu tiên

Trong những tháng cuối năm 2011, tình hình thanh khoản của một số TCTD bị thiếu hụt lớn và nằm trong tình trạng báo động, thị trường tiền tệ tiềm ẩn nhiều rủi ro bất ổn, lãi suất cho vay ở mức cao, lên đến 20-25%/năm. Để bảo đảm trật tự, kỷ cương thị trường tiền tệ, ngày 7-9-2011, NHNN ban hành Chỉ thị số 02/CT-NHNN yêu cầu các TCTD ấn định lãi suất huy động bao gồm cả khoản chi khuyến mại dưới mọi hình thức không được vượt quá 14%/năm và đưa ra các chế tài xử lý đối với cá nhân là người quản lý, điều hành của TCTD và TCTD vi phạm quy định về lãi suất.

Từ năm 2012, khi lạm phát đã được kiểm soát và giảm dần, để hỗ trợ sản xuất, kinh doanh, NHNN đã điều chỉnh giảm các mức lãi suất điều hành, kết hợp với điều hành cung ứng tiền để điều tiết thanh khoản, tạo điều kiện cho các TCTD giảm lãi suất; tiến hành dỡ bỏ trần lãi suất tiền gửi có kỳ hạn trên 12 tháng vào tháng 6-2012 và lãi suất tiền gửi kỳ hạn trên 6 tháng từ tháng 6-2013. Đồng thời, từ tháng 5-2012, quy định trần lãi suất cho vay ngắn hạn bằng VND đối với 4 lĩnh vực: Nông nghiệp nông thôn, xuất khẩu, doanh nghiệp nhỏ và vừa, công nghiệp hỗ trợ; đến tháng 12-2012, bổ sung thêm doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao. Các mức trần lãi suất huy động và cho vay cũng được điều chỉnh giảm phù hợp với điều kiện vĩ mô, mục tiêu chính sách tiền tệ.

Trên cơ sở bám sát tình hình diễn biến kinh tế vĩ mô và tiền tệ, NHNN đã chủ động điều chỉnh giảm nhanh và mạnh các mức lãi suất chính sách để tập trung tháo gỡ khó khăn cho sản xuất, kinh doanh theo chủ trương của Chính phủ. Tính đến cuối năm 2015, NHNN đã giảm 9 lần các mức lãi suất điều hành với tổng mức giảm khoảng 8,5%/năm; quy định trần lãi suất cho vay bằng VND đối với các lĩnh vực ưu tiên thấp hơn khoảng 2-3%/năm so với lãi suất cho vay thông thường và điều chỉnh giảm từ mức 15% xuống còn 7%/năm; quy định và điều chỉnh giảm trần lãi suất huy động bằng VND từ mức 14%/năm xuống còn 5,5%/năm. Đối với ngoại tệ, NHNN đã 6 lần điều chỉnh giảm lãi suất tiền gửi USD, đưa lãi suất tiền gửi USD của tổ chức và cá nhân xuống mức lãi suất đồng nhất 0%/năm.

Mặc dù mặt bằng lãi suất giảm, nguồn vốn huy động vẫn tăng. Tính đến ngày 21-12-2015, nguồn vốn huy động tăng 13,59% so với cuối năm trước, tạo điều kiện cho các TCTD cung ứng vốn tín dụng cho nền kinh tế. Để tạo điều kiện giảm lãi suất, NHNN giữ ổn định trần lãi suất cho vay ngắn hạn bằng VND, các TCTD trên cơ sở nhu cầu vốn của thị trường cân đối điều chỉnh giảm lãi suất cho vay so với trần quy định; điều tiết thanh khoản của các TCTD hợp lý để tạo điều kiện giảm mặt bằng lãi suất. Trong năm 2015, NHNN đã điều chỉnh giảm lãi suất cho vay một số chương trình tín dụng ngành, lĩnh vực xuống mức khoảng 6,5-6,6%/năm; tiếp tục yêu cầu các TCTD rà soát giảm lãi suất cho vay của các khoản vay cũ về mức lãi suất cho vay hiện hành. Mặt bằng lãi suất cho vay giảm khoảng 0,3-0,5%/năm so với cuối năm trước, giảm khoảng 50% so với thời điểm cuối năm 2011; dư nợ của những khoản cho vay có lãi suất trên 13%/năm còn 6,4%, giảm mạnh so với tỷ lệ 10,1% vào cuối năm 2014 và so với tỷ lệ hơn 30% vào cuối tháng 6-2013. Lãi suất huy động giảm khoảng 0,2-0,5%/năm và hiện ở mức tương đối thấp, lòng tin vào VND tiếp tục được củng cố, nguồn vốn huy động tăng gần 14% so với cuối năm 2014.

Với mức độ và tần suất điều chỉnh giảm lãi suất như trên, mặt bằng lãi suất huy động và cho vay đã giảm đáng kể, góp phần hỗ trợ các doanh nghiệp giảm chi phí vay vốn. Mặt bằng lãi suất cho vay đối với nền kinh tế giảm nhanh, tỷ giá được duy trì ổn định, dự trữ ngoại hối Nhà nước đã được cải thiện đáng kể. Nhờ giám sát và kiên quyết xử lý những trường hợp vi phạm trần lãi suất huy động, đồng thời với các biện pháp hỗ trợ thanh khoản cho những ngân hàng yếu kém, tình trạng một số TCTD phải vay mượn lẫn nhau với lãi suất cao trên thị trường liên ngân hàng đã được khắc phục.

Thị trường tiền tệ, hoạt động ngân hàng ổn định trở lại

Có thể nói, trong 5 năm qua, nhờ triển khai quyết liệt nhiều biện pháp nhằm ổn định thị trường tiền tệ và ngân hàng, các yếu tố chính trên thị trường này như mặt bằng lãi suất và tín dụng đã thay đổi tích cực. Đến nay, mặt bằng lãi suất huy động VND phổ biến ở mức 0,8-1%/năm đối với tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 1 tháng; 4,5-5,4%/năm đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 1 tháng đến dưới 6 tháng; 5,4-6,5%/năm đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 6 tháng đến dưới 12 tháng; kỳ hạn trên 12 tháng ở mức 6,4-7,2%/năm. Lãi suất cho vay ngắn hạn phổ biến ở mức 6-9%/năm, lãi suất cho vay trung và dài hạn ở mức 9-11%/năm. Lãi suất cho vay đối với các lĩnh vực ưu tiên tiếp tục ổn định ở mức thấp (6-7%/năm đối với kỳ hạn ngắn), các ngân hàng thương mại nhà nước tiếp tục áp dụng lãi suất cho vay trung và dài hạn phổ biến đối với các lĩnh vực ưu tiên ở mức 9-10%/năm. Lãi suất cho vay đối với một số chương trình kinh tế trọng điểm giảm khoảng 0,5-0,6%/năm xuống khoảng 6,5-6,6%/năm, nhằm hỗ trợ tốt hơn cho một số ngành lĩnh vực đặc thù và các đối tượng chính sách. Lãi suất cho vay USD phổ biến ở mức 3-6,7%/năm; trong đó lãi suất cho vay ngắn hạn phổ biến ở mức 3-5,5%/năm, lãi suất cho vay trung, dài hạn ở mức 5,5-6,7%/năm. Dòng vốn tín dụng tiếp tục được phân bổ hợp lý, tập trung vào hoạt động sản xuất, kinh doanh, nhất là các lĩnh vực ưu tiên của Chính phủ, mang lại hiệu quả thiết thực cho nền kinh tế.

Trong 5 năm 2011-2015, mặc dù phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức, NHNN đã thể hiện tính chủ động, linh hoạt trong điều hành chính sách tiền tệ trên cơ sở chỉ đạo của Chính phủ, phù hợp với những thay đổi lớn của tình hình thực tế. Những kết quả đạt được cho thấy, chính sách tiền tệ đã đóng góp quan trọng trong việc duy trì ổn định kinh tế vĩ mô, lạm phát giảm dần, đánh dấu thời kỳ ổn định lạm phát dài nhất trong một thập kỷ qua; GDP năm 2015 tăng 6,68%, mức cao nhất trong 8 năm qua. Hệ thống ngân hàng được bảo đảm an toàn và phát triển bền vững, thanh khoản của TCTD được bảo đảm, nguy cơ đổ vỡ hệ thống ngân hàng được đẩy lùi. Việc điều hành chính sách tiền tệ của NHNN đã gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả của nền kinh tế. Năm 2015 đánh dấu năm thứ 4 liên tiếp ngành ngân hàng hoàn thành tốt các chỉ tiêu do Đảng, Nhà nước và Chính phủ đề ra, góp phần thực hiện thành công kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội giai đoạn 2011-2015 của đất nước.

Trong thời gian tới, NHNN tiếp tục thực hiện chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt, phối hợp chặt chẽ với chính sách tài khóa và những chính sách kinh tế vĩ mô khác nhằm kiểm soát lạm phát theo mục tiêu đề ra, bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, góp phần hỗ trợ tăng trưởng kinh tế ở mức hợp lý. Điều hành lãi suất, tỷ giá phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô, lạm phát, thị trường tiền tệ trong nước và quốc tế, góp phần mở rộng tín dụng đối với nền kinh tế. Thường xuyên theo dõi và đánh giá tình hình kinh tế thế giới, đặc biệt là tác động của đà suy giảm tăng trưởng kinh tế tại nhiều nền kinh tế mới nổi trên thế giới, tác động của giá dầu và các loại hàng hóa trên thị trường quốc tế.

Vũ Xuân Thanh